XEM BÓI MIỄN PHÍ 0966662332

Mail: Xemboionlinemienphi.vn@gmail.com

Mail : Xemboimienphi.vn0966662332@gmail.com


Điện Thoại: 0966 662 332

Trang chủ»ĐẠO MẪU VIỆT NAM»NGŨ VỊ TÔN QUAN»SỰ TÍCH QUAN LỚN ĐỆ NGŨ TUẦN TRANH

SỰ TÍCH QUAN LỚN ĐỆ NGŨ TUẦN TRANH

 

Sự Thật Về Quan Lớn Tuần Tranh

 
CAO LỖ – VƯƠNG QUAN ĐỀ NGŨ TUẦN TRANH- SỰ THẬT LỊCH SỬ VỀ VỊ ANH HÙNG ĐẦU TIÊN CỦA VIỆT NAM CHỐNG NGOẠI XÂM
 
rong tín ngưỡng thờ hệ thống các vị Thánh trong Đạo Thánh Mẫu Việt, hiện vẫn có lễ hội tôn thờ Đức Thánh Quan đệ ngũ Tuần Tranh. Họ tên của Vị thánh này dần được sáng tỏ nhiều năm qua một số giá hầu đồng riêng biệt, khác nhau cả về địa điểm cũng như địa phương. Đã có những phương pháp đối chiếu đủ để chứng minh rằng không có sự liên hệ giữa các Thanh Đồng khi được Thánh giáng cho biết tên của Ngài là Cao Lỗ – Đây là một nhân vật lịch sử đã được ghi trong Đại Việt Sử ký toàn thư, Ngoại kỷ quyển I – Kỷ Nhà Thục như sau:” Vua ( An Dương Vương) sai bề tôi là Cao Lỗ (Có bản chép là Cao Thông) làm nỏ thần, lấy móng rùa làm lẫy nỏ, đặt tên là Linh quang kim trảo thần nỏ”.
 
Theo các chứng cứ này, đối chiếu thư tịch thì Cao Lỗ (Chưa rõ họ và năm sinh – mất 179 trước Công nguyên, có một số thư tịch cổ lại ghi tên ông là Cao Nỗ, Cao Thông, Đô Lỗ, Thạch Thần, hay Đại Thần Đô Lỗ Thạch Thần) là một Đại thần – Danh Tướng của Thục Phán An Dương Vương. Ông sinh ra tại xã Cao Đức, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh ngày nay (thời Hùng Vương là bộ Vũ Ninh, đời Tần thuộc Tượng quận, đời Hán thuộc quận Giao Chỉ là đất của hai huyện Long Biên và Luy Lâu. Qua nhiều triều đại đổi tên khác nhau. Xem bản đồ Hồng Đức năm thứ 21 ghi là xứ Kinh Bắc, sau đổi là Trấn.Năm Minh Mệnh thứ 3 đổi làm trấn Bắc Ninh. Minh mệnh năm thứ 13 gọi là Tỉnh Bắc Ninh).
 
Ông là người chế ra nỏ liên châu (bắn được nhiều mũi tên một phát) mà còn được gọi là nỏ thần. Ông là người khuyên Thục An Dương Vương dời đô xuống đồng bằng, tìm đất đóng đô tại nơi xưa là đất kinh đô nhà nước Việt Thường, và Cao Lỗ là người được An Dương Vương giao cho xây thành Cổ Loa. Xưa xã Cổ Loa thuộc huyện Đông Ngàn, tỉnh Bắc Ninh, sử viết thành Cổ Loa rộng ngàn trượng (1 trượng = 1,65 m, như vậy chiều rộng khoảng 1,650.mét) quanh co như hình trôn ốc nên gọi là Loa Thành, lại có tên là Tử Long Thành. Người Trung quốc gọi là Côn Lôn thành vì thành rất cao – Đại Nam nhất thống chí, sách đã dẫn.
 
Cũng theo một số truyền thuyết và một số bài hát văn chầu lễ Thánh Quan Lớn Tuần Tranh thì ông sinh ra tại Ninh Xá, Ninh Giang, tỉnh Hải Dương ngày nay.
 
Vào thời Hùng Vương thứ 18, Cao Lỗ là một vị Đại Tướng kỳ tài của nước Văn Lang độc lập, ông được giao hợp nhất quân với Tây Âu Lạc của Thục Phán để Cao Lỗ thống lĩnh chống 50 vạn quân Nhà Tần do Đồ Thư cầm đầu tiến quân vượt sông Dương Tử về phía nam xâm lược Bách Việt. Sau khi đã chiếm hết vùng Ngô Việt, Mân Việt, . . . Quân Tần tiến vào vùng đất của người Lạc Việt. Người Lạc Việt rút vào giữ nơi hiểm yếu cầm cự với quân Tần. Lâu ngày, quân Tần hết lương, người Việt ra đánh giết mấy chục vạn quân Tần cùng Đồ Thư. Nhà Tần phải rút chạy về nước ( Hoài nam Tử, Sử ký, sách đã dẫn).
 
Đây là cuộc kháng chiến chống ngoại xâm lần thứ nhất của người Việt được sách sử và thư tịch, truyền thuyết, tín ngưỡng dân gian cả Việt nam và Trung quốc đều có ghi chép.
 
Sau khi Thục Phán hợp nhất Văn Lang và Tây Âu Lạc thành nước Âu Lạc về đóng đô ở Cổ Loa theo ý kiến của Cao Lỗ. Ông được An Dương Vương trọng dụng giao cho việc xây đắp thành Cổ Loa, tổ chức và luyện tập quân đội trở nên hùng mạnh. Ông cũng là người phát minh ra nỏ liên châu, loại vũ khí đánh xa rất có uy lực thời cổ. Ông đã thống lĩnh quân đội Âu Lạc nhiều lần đánh thắng quân xâm lược của Triệu Đà lúc đó là Nam Việt Vương từ vùng Lưỡng Quảng tấn công xâm lược lãnh thổ Lạc Việt. Quân Việt Âu Lạc được ông rèn luyện, có vũ khí đánh xa là hàng nghìn nỏ liên châu có thể bắn ra cùng lúc hàng vạn mũi tên đồng đã đánh bại quân Triệu Đà.
 
 
 
Vì có công lớn nên ông được giao chức vụ đứng đầu trong Triều đình. Ông đem lòng yêu công chúa Mị Châu – con gái An Dương Vương Thục Phán, nhưng Mị Châu lại phải lòng Trọng Thủy là con Triệu Đà được nhiều lần đi sứ cầu hòa đến An Dương Vương. Thấy quân lực Âu Lạc hùng mạnh, biết không thể đánh bại bằng quân sự, Triệu Đà dùng mưu đưa con Trọng Thủy lấy công chúa Mị Nương để tìm bí mật về tổ chức quân sự và quy cách vũ khí nỏ liên châu. Cao Lỗ can ngăn An Dương Vương không cho Mị Châu lấy Trọng Thủy, vì thế An Dương Vương bắt đầu nghi ngờ Cao Lỗ, nên vẫn cho đồng ý kết thông gia với Triệu Đà mà tin rằng sự hòa hiếu để tránh được chiến tranh xâm lược của Nam Việt ( Sách đầu tiên ghi việc Trọng Thủy lừa Mị châu là sách Giao châu ngoại vực ký do Thủy Kinh chú đã dẫn quyển 14). Sau đó Trọng Thủy trở về Nam Việt trình lên vua Nam Việt Vương Triệu Đà tất cả bí mật về quốc phòng của Âu Lạc.
 
Quân Triệu Đà tấn công, nhưng không giành ngay được thắng lợi tuyệt đối. Nỏ liên châu cũng không còn phát huy tác dụng như trước vì quân Triệu Đà đã có cách chống lại. An Dương Vương cho rằng Cao Lỗ đã để lộ bí mật quân sự, lại thêm một số quyền thần vốn ghen ghét sàm tấu thêm khép ông vào tội chém. Nhưng vì ông có công lớn, trong án có những sự không sáng tỏ bởi vậy nên Triều đình chỉ bãi hết chức đầy Cao Lỗ lên vùng biên ải (nay là tỉnh Lạng Sơn).
 
Do bị oan ức không thể giãi bầy được, lại thêm tính cương trực không chịu khuất, khi đến nơi đi đầy, quân áp giải vừa mở gông cùm, Cao Lỗ đã thề lấy cái chết để rõ mình vô tội và nhẩy xuống sông Kỳ Cùng tự vẫn. Sau khi ông chết ngày 25/5 năm Nhâm Thân ( năm 179 Tr.CN), triều đình chia rẽ, quân đội Âu Lạc không có Cao Lỗ thống lĩnh đã thất bại hoàn toàn trước sức tấn công của quân Nam Việt của Triệu Đà vào năm Giáp Tý (năm 177 Tr.CN). An Dương Vương thua chạy đem theo con gái Mị Châu. Trên đường trốn chạy, theo ước hẹn, Mị Châu đã rắc lông ngỗng để báo cho Trọng Thủy tìm theo, vì vậy An Dương Vương không thể thoát, trước khi chết, An Dương Vương đã chém Mị Châu. Đây chính là truyền thuyết Mị Châu -Trọng Thủy nổi tiếng trong văn học dân gian Việt Nam còn lưu truyền đến ngày nay. Nước Âu Lạc bị diệt, rồi bị chiếm nhập vào Nam Việt của Triệu Đà mở đầu cho thời kỳ Bắc thuộc lần thứ nhất trong lịch sử Việt Nam.
 
Sau khi ông chết, dân Việt nhớ ghi công đức lập đền thờ ông tại nơi ông tuẫn tiết ở bên sông Kỳ Cùng và tại nơi ông hiển linh là bến Tranh xã Ninh Giang, huyện Vĩnh Lại (nay là Ninh Giang, tỉnh Hải Dương bây giờ). Nơi đây còn được coi là quê nhà của Quan Lớn Tuần Tranh vì cho rằng ông là quan văn ( Thái thú) ở Hồng Châu, có vợ là Dương thị, mà cơ sở là lấy từ truyện “ Chuyện đối tụng ở Long Cung” trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ viết vào thời nhà Mạc.
 
Hải Dương xưa vào thời Hùng Vương là bộ Thanh Tuyền, đời Tần Hán thuộc Giao Chỉ. Đến đời nhà Trần đổi là Lộ Hải Đông vì đất ấy có chỗ là biển. Năm Quang Thuận thứ 7 đặt Nam Sách thừa tuyên gồm 4 phủ là Thượng Hồng, Hạ hồng, Nam sách và Kinh Môn có tất cả 18 huyện. Phủ Hạ Hồng có 4 huyện là Trường Tân, Tứ kỳ, Vĩnh Lại, Thanh Miện – Theo Đại Nam nhất thống chí, sách đã dẫn.
 
Đại Nam nhất thống chí ghi về tỉnh Bắc Ninh có Đền Cao Công:” Ở bờ sông xã Đại Than, huyện Gia Bình, bên cạnh đền có tảng đá lớn dựng đứng. Ngoại kỷ Sử ký ghi đời Đường, Cao Biền đi đánh phương Nam qua châu Vũ Ninh, đêm mộng thấy thần về xưng là Cao Lỗ nói ngày trước ta giúp An Dương Vương chế nỏ thần gọi là Linh quang kim trảo thần nỗ, có công đánh lui giặc, rồi bị Lạc Hầu gièm pha, sau khi mất, Thượng Đế thương là người trung nghĩa cho cai quản ở đây. Cao Biền tỉnh dậy đêm việc ấy nói với thuộc hạ rồi đề thơ ở miếu. Sách Tục bác vật chí viết An Dương Vương có thần nhân là Cao Thông chế nỏ mỗi lần bắn giết được 200 người”.
 
Đền Tranh hay đền Quan Lớn Tuần Tranh thuộc xã Tranh Xuyên, tổng Bất Bế. Thời Lê và thời Nguyễn gọi là huyện Vĩnh Lại (thị xã Ninh Giang hiện nay). Hơn hai nghìn năm qua, hàng năm có lễ hội rất lớn ngày sinh của ông là ngày 14/2 Âm lịch, và ngày giỗ kỵ 25/5 Âm lịch. Ông hiển Thánh là một Vị quan lớn là Đức Thánh Vương quan đệ Ngũ của Đạo Thánh Mẫu Việt. Các giá hầu đồng về ông đều mặc áo bào mầu tím và cầm thanh đại đao như khi ông còn sinh thời đánh giặc ngoại xâm.
 
Văn lễ Đức Thánh Quan Lớn đệ ngũ Tuần Tranh có rất nhiều bản khác nhau, sau đây là một trong những bản văn chầu Ngài đã góp phần ghi công tích trong lịch sử chống ngoại xâm của Dân tộc Việt Nam:
 
Ra uy lẫm liệt tung hoành,
 
Trừ tà sát quỷ nên danh tướng tài,
 
Văn Lang thời ấy là ai,
 
Chỉ huy quân Việt diệt loài ngoại xâm,
 
Ninh Giang chính quán quê nhà.
 
Ông là Đại tướng danh là Tuần Tranh
 
Nào ngờ thời vận đổi thay
 
Đình thần vốn đã tỵ hiềm
 
Án oan quy tội cho người trung lương
 
Chỉ vì công lớn, oan gia
 
Không sao gỡ tội phải ra tội tù.
 
Lệnh viễn xứ đầy đi,
 
Sơn cùng thủy tận ngã ba Kỳ cùng.
 
Anh hùng mang nặng xiềng gông,
 
Áo chiến bào giờ đã nhuốm mầu chàm xanh
 
Lòng trung lương nào ai hay biết,
 
Có trời xanh mới tỏ tâm can
 
Trẫm mình đáy nước minh oan
 
Sông Kỳ Cùng rửa hết nhục oan cho người
 
 
 
Đọc:
 
Ninh Giang chính quán quê nhà,
 
Danh lam Thánh tích một tòa ngôi cao.
 
Cảnh Thiên thai Quan Tuần ngự giá
 
Trừ tà sát quỷ nổi danh tướng tài.
 
 
 
Phú:
 
Nước Âu Việt vào đời Thục phán,
 
Giặc Triệu Đà có ý xâm lăng
 
Triều đình ra lệnh tiến binh
 
Thuyền về một bến sông Tranh rợp trời.
 
Công quốc gia,
 
Thượng đẳng Thánh linh
 
Anh hùng mở mặt giang sang
 
Lưu danh thiên cổ
 
Vẻ vang giống nòi
 
 
 
Thơ:
 
Sông Tranh ơi hỡi bến sông Tranh,
 
Non nước còn ghi trận tung hoành,
 
Lẫm liệt oai hùng gương tráng sĩ,
 
Ngàn thu ghi nhớ dấu oai linh,
 
Ai về qua bến sông Tranh
 
Nhớ người tráng sỹ tài danh tuyệt vời.
 
 
 
Hơn 2,180. năm sau khi vị Anh hùng chống ngoại xâm của Dân tộc Việt Nam Cao Lỗ chết oan, danh tính chính thức tên ông mới được xác nhận qua nhiều Thánh Lễ hầu đồng của Đạo Thánh Mẫu Việt. Tên của Ngài – Cao Lỗ đã hy sinh vì Nước rồi hiển linh là một trong 72 Vị Thánh trong Đạo Thánh Mẫu Việt đã làm vinh danh cho tinh thần quật khởi chống ngoại xâm dân tộc và tiêu biểu cho nền Văn minh rực rỡ của Dân tộc Lạc Việt. Sự xác nhận chính danh của Quan Lớn Tuần Tranh là Cao Lỗ đã làm vinh quang rạng rỡ cho Vị Anh Hùng cứu nước đầu tiên của Dân tộc Việt Nam. Kết quả nghiên cứu thực nghiệm này là cơ sở để xác nhận chính xác nguồn gốc, họ tên, thánh tích của Vị Anh Hùng Dân tộcViệt đã hiển Thánh trong Đạo Thánh Mẫu Việt, đồng thời cũng là thực hiện tâm nguyện của các bậc Tiên Liệt là không có ai là người anh hùng vô danh.
 
Đền thờ Vương Quan đệ ngũ Tuần Tranh
 
Đền Tranh, còn gọi là đền Quan Lớn Tuần Tranh, là một ngôi đền cổ Việt Nam, thờ vị thần sông nước cai quản khúc sông ở gần bến đò Tranh, thuộc xã Đồng Tâm, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương.
 
Thời Trần, tại vùng ngã ba sông Tranh giao với sông Luộc, người dân đã lập ra một ngôi đền thờ vị thủy thần cai quản khúc sông này. Ngôi đền này ban đầu chỉ là ngôi miếu nhỏ nằm sát bến sông, vì vậy thường bị tác động của thủy triều và dòng nước xoáy. Do bờ sông thường bị xói lở nên đến năm 1935, người dân lập một đền thờ mới tại làng Tranh Xuyên (nay thuộc thị trấn Ninh Giang). Ngôi đền mới này vẫn được dân chúng giữ tên cổ gọi là Đền Tranh.
 
Đến giữa thập kỷ 40 của thế kỷ XX, đền Tranh được tôn tạo với quy mô khá lớn, kiến trúc theo kiểu Trùng thiềm điệp ốc với những cung và gian thờ khác nhau. Năm 1946, thực hiện tiêu thổ kháng chiến, nhiều hạng mục ngôi đền bị tháo gỡ.
 
Đến những năm 60 của thế kỷ XX, đền được chuyển về phía bắc của thị trấn Ninh Giang cách đền cũ khoảng 300m, nay thuộc địa phận thôn Tranh Xuyên, xã Đồng Tâm, huyện Ninh Giang. Đền Tranh qua ba lần chuyển dời cùng nhiều lần trùng tu tôn tạo, đã chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử và tích hợp được nét đẹp của văn hóa Việt. Căn cứ vào hệ thống bia ký tại đền cho biết, vào năm Tự Đức thứ 5 (1852) đền đã có nhiều người công đức để tu tạo.
 
Khi thực dân Pháp chiếm tỉnh Hải Dương và Ninh Giang, xây đồn bốt gần khu vực đền nên nhân dân chuyển đền về phía Bắc đền cũ ( hiện nay là doanh trại Lữ đoàn 513 Quân khu 3). Từ năm 1941 đến 1945, đền Tranh được tôn tạo rộng lớn, kiến trúc theo kiểu “trùng thiềm điệp ốc”, 5 nếp nhà nối liền nhau.
 
Năm 1946, thực hiện chủ trương “tiêu thổ kháng chiến” các nếp nhà của đền lần lượt được tháo dỡ, chỉ để lại cung cấm làm nơi thờ tự.
 
Năm 1954, đền Tranh được phục dựng lại để đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng của nhân dân.
 
Năm 1966, do nhu cầu mở rộng doanh trại của quân đội, nên nhân dân địa phương cùng Lữ đoàn 513 chuyển 3 gian hậu cung về dựng tại địa điểm mới, cách đền cũ 300m về phía Bắc như vị trí hiện nay.
 
Năm 1996, được phép của UBND tỉnh Hải Hưng, đền được xây dựng 7 gian tiền tế; Ngày 3 tháng 6 năm 1999, khởi công xây dựng nhà trung từ; năm 2004 hoàn thành việc xây dựng nghi môn và tòa hậu cung, năm 2006 xây dựng đông vu và nhà hóa sớ. Công trình hiện nay khá hoành tráng với kinh phí xây dựng do nhân dân công đức. Đền Tranh là nơi tập trung và phong phú nhất về tín ngưỡng dân gian mà điển hình là nhân vật huyền thoại Quan Lớn Tuần Tranh.
 
Một công trình làm nổi bật diện mạo thị trấn Ninh Giang trước năm 1947 đó là ngôi đền uy nghi nằm ở phía Tây Bắc, nay nằm ở khuôn viên đơn vị công trình. Đền Tranh thờ thần và đặt trong khám và đây đó trên xà trên khung cửa được gắn những rắn thần bằng vải nhồi bong màu sặc sỡ, ban đêm được ánh điện soi sang lấp lánh cửa đồ thờ, hương án làm tăng thêm vẻ uy nghi vốn có của nơi thờ tự.
 
Trong dân gian truyền tụng là” đền thiêng lắm, linh ứng lắm, cầu gì được lấy”nên hàng năm kỳ mở hội, khách thập phương từ Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định vv… về trẩy hội khá đông. Lễ hội được mở từ ngày 14/2 âm lịch. Ngày rước thần có những ông đồng, bà đồng “xiên lình” thủng qua hai má của con người khi được Thánh linh ứng, sau khi rút thanh thép xiên qua mặt ra lại liền như cũ không có sẹo, không chẩy máu.
 
Những sai lầm nghiêm trọng về sự thật lịch sử Quan Lớn Tuần Tranh
 
Câu chuyện truyền thuyết chi tiết về: “ Truyện ông Dài, ông Cụt” – Sự sai lầm này xuất phát từ việc lấy truyện của Nguyễn Dữ ( thời nhà Mạc) gán ghép vào lịch sử sự nghiệp Quan Lớn Tuần Tranh, chúng ta tham khảo dưới đây:
 
Đền Tranh còn có tên gọi là đền Quan lớn Tuần Tranh. Có tích kể rằng: “Tương truyền, Quan lớn Tuần Tranh là viên quan phủ Ninh Giang. Ngày xưa, tại bến sông Tranh, có hai con rắn dữ thường nổi lên quấy phá. Một hôm, chúng bắt đi nàng hầu xinh đẹp của quan. Vị quan này khởi kiện Diêm Vương. Rắn bị xử thua phải mang cả dòng họ dời đi nơi khác. Từ đó bến sông sóng yên nước lặng, nhân dân nhớ ơn vị quan phủ mà lập đền thờ, tôn là vị thần bảo vệ khúc sông”
 
Rằng Người là vợ chồng một nông dân nghèo và vợ chồng viên Tri phủ. Thần là thuồng luồng, Bạch Long Hầu( thần mưa), Long cung” truyện đối tụng ở Long cung” còn một chi tiết sau khi thuồng luồng ra hầu tòa và bị đày lên phương bắc thì ngôi đền bên bờ sông tường siêu, vách đổ, bia gãy rêu trùm.
 
Ngày xưa, có hai vợ chồng già làm ruộng một hôm đi ra ngoài đồng, thấy hai quả trứng lạ, nhặt đem về nhà. Được ít lâu, hai quả trứng nở ra hai con rắn rất khôn, hai vợ chồng đi đâu chúng nó thường bò theo. Hai người không con nên cứ nuôi chúng nó, xem như là con, thường ngày cho ăn uống tử tế. Một hôm, người chồng cuốc vườn, vô ý cuốc đứt một khúc đuổi của một con. Sau đó, vợ chồng mới gọi hai con rắn đặt tên cho là con Dài, con Cụt. Hai con rắn lớn lên, ăn rất tợn, nhà nghèo không đủ nuôi, chúng nó thường đi bắt gà, chó của hàng xóm mà ăn. Hai vợ chồng không nuôi nổi, mới đem thả xuống sông Tranh, bây giờ thuộc Hải Dương.
 
Hai anh em rắn Dài và Cụt được Thủy Vương nhận làm bộ hạ và cho cai quản cả một vùng sông rộng. Rắn Cụt tính khí dữ tợn hơn rắn Dài, hoành hành khắp vùng, làm cho dân chúng phải kiêng sợ gọi tên là ông Dài và ông Cụt. Có khi chúng bắt cả người, còn cướp súc vật là chuyện thường xảy ra. Ghe thuyền qua lại trên khúc sông, thường bị ông Cụt nổi sóng dữ tợn làm cho đắm. Cha mẹ nuôi ông Dài, ông Cụt thỉnh thoảng lại phải ra bờ sông van lơn xin con nuôi đừng làm hại người ta. Chúng cũng nghe theo được ít lâu, rồi lại đâu vẫn hoàn đấy. Có lần hai vợ chồng họ Trịnh đi thuyền qua đó, ông Cụt thấy người vợ là Dương Thị nhan sắc xinh đẹp, muốn bắt về làm vợ, cho hai người con gái bưng lễ vật đến hỏi. Hai vợ chồng hoảng sợ bỏ thuyền lên bờ trốn tránh. Nhưng rồi ông Cụt cho bộ hạ theo dõi, thừa một đêm mưa gió, bắt Dương Thị đem về dưới Thủy Phủ. Sáng ngày, người chồng theo dấu ra đến bờ sông chỉ còn thấy quần áo của vợ trút bỏ lại đó.
 
Người chồng không biết làm thế nào, đành nuốt hận đi đây, đi đó tìm người phép tắc thần thông để trừ ông Cụt. Một hôm, họ Trịnh gặp một ông già ngồi bói ở chợ, lân la hỏi mới biết là Bạch Long Hầu tức là Thần Mưa ở dưới Thủy Cung. Bạch Long Thần rẽ nước mời họ Trịnh về nhà mình ở dưới biển, giúp bàn việc kiện ông Cụt với Long Vương. Họ Trịnh đưa cái thoa của vợ nhờ người nhà Bạch Long hầu làm của tin để dò tìm Dương Thị ở dưới Thủy Phủ. Khi đã bắt liên lạc được với Dương Thị rồi, họ Trịnh bèn cậy Bạch Long Hầu đưa đến triều đình Long Vương để tố cáo tình địch đã cướp vợ mình. Long Vương cho đòi ông Cụt tới. Ban đầu ông Cụt còn chối cãi, toan làm dữ với họ Trịnh, nhưng đến khi Dương Thị ra kể lại sự tình bị ông Cụt bắt cóc, ép duyên, thì họ Trịnh liền được kiện. Long Vương xử cho Dương Thị trở về mặt đất với họ Trịnh, con của nàng sinh với ông Cụt thì giao lại cho ông Cụt. Ông Cụt bị đày đến ở sông Kỳ Cùng, thuộc về Lạng Sơn ngày nay. Ngày ông Cụt bị giáng chức đi đày, các loài thủy tộc đi theo tiễn chân đầy cả một khúc sông.
 
Đền Tranh một năm có ba mùa lễ hội. Hội tháng 2, từ ngày 10/2 đến ngày 20 / 2 âm lịch, trọng hội vào 14/2 âm lịch là ngày sinh của Quan lớn Tuần Tranh, đây là hội chính hàng năm. Hội tháng 5, từ ngày 20/5 âm lịch đến 25 / 5, trọng hội vào 25 là ngày hoá của Đức Thánh. Lễ hội đền Tranh có quy mô rộng lớn có nhiều khách ở các tỉnh phía Bắc và cả ở miền Nam ra dự Lễ, là Lễ hội lớn của Hải Dương, có sức hấp dẫn lạ thường, bởi thế khách thập phương đến đây rất đông. Không chỉ trong những ngày hội kéo dài tới 7 ngày. Những ngày thường cũng đông khách thập phương đến lễ và hát chầu văn.
 
Đền Tranh được dựng lại và tôn tạo trên địa phận thôn Tranh Xuyên xã Đồng Tâm. Không những đền được tôn tạo lại rất bề thế uy nghiêm mà còn được mở rộng rất nhiều, bên cạnh còn có chùa Tranh mới được xây dựng thêm. Không chỉ ngày hội mà ngày thường khách đến lễ cũng rất đông.
 
Đền hiện nay có 11 ban thờ:
 
1- Ban thờ Phật
 
2- Ban thờ Thánh mẫu
 
3- Ban thờ Ngọc hoàng Thượng đế
 
4- Ban thờ Ngũ vị tôn ông
 
5- Ban thờ Tứ phủ chầu bà ( Thiên phủ, Địa phủ, Thuỷ phủ, Nhạc phủ)
 
6- Ban thờ Quan lớn Tuần Tranh
 
7- Ban thờ Sơn trang.
 
8- Ban thờ Động chúa sơn lâm
 
9- Ban thờ Thành hoàng: Quý Minh và Vũ Đô Mạnh
 
10- Ban thờ Mẫu địa
 
11- Ban thờ Đức thánh Trần
 
Phần hội ở đây rất giản dị, đặc biệt phần lễ thì vô cùng phong phú và hấp dẫn. Những lời khấn ở đây hầu hết được viết thành thơ và được thể hiện bằng điệu chầu văn rất mượt mà , sôi nổi.Có thể nói, lễ hội đền Tranh là lễ hội hát chầu văn. Dưới đây là một trong những bài chầu văn hiện nay tại đền:
 
 
 
Văn hầu Quan Lớn Tuần Tranh
 
Chính quán quê nhà Ninh Giang,
 
Danh lam thắng tích một toà ngôi cao.
 
Lẫm liệt tung hoành uy gia,
 
Trừ tà sát quỷ nổi danh tướng tài.
 
Cảnh Thiên thai Quan Tuần ngự giá,
 
Bộ tiên nàng thứ tự dâng huê.
 
Chầu thôi lại trở ra về,
 
Truyền quân dâng nước Thuỷ tề mênh mông.
 
Cảnh am thanh nhiều bề lịch sự,
 
Vốn đặt bầy tự cổ vu lai.
 
Có phen xuất nhập trang đài,
 
Đào lan quế huệ xum vầy xướng ca.
 
Phú:
 
Nước Văn Lang vào đời Thục Phán,
 
Giặc Triệu Đà có ý xâm lăng,
 
Triều đình ra lệnh tiến binh,
 
Thuyền bè qua bên sông Tranh rợp trời.
 
Công hộ quốc gia phong thượng đẳng,
 
Tước phong hầu truy tặng Đại vương,
 
Bảng vàng thánh thọ vô cương
 
Hiếu trung tiết nghĩa đôi đường vẹn hai.
 
Đấng anh hùng cổ kim lừng lẫy,
 
Khắp xa gần đã dậy thần cơ,
 
Cửa sông đâu có phụng thờ,
 
Ninh Giang lại nổi đền thờ Tuần Tranh
 
Gương anh hùng muôn đời soi tỏ,
 
Đất Văn Lang thiên cổ anh linh,
 
Bao phen đắp luỹ xây thành,
 
Khắc miền duyên hải, sông Tranh nức lòng.
 
Thơ:
 
Sông Tranh ơi hỡi bến sông Tranh,
 
Non nước còn ghi trận tung hoành,
 
Lẫm liệt oai hùng gương tráng sĩ,
 
Ngàn thu ghi nhớ dấu oai linh.
 
Ai về qua bến sông Tranh,
 
Nhớ người tráng sĩ tài danh tuyệt vời.
 
Dẫu rằng nước chảy hoa trôi,
 
Bến sông Tranh dù cạn, ơn người còn ghi.
 
Loa đồng hỏi nước sông Tranh,
 
Thanh long đao năm xưa cứu nước, anh hùng là ai?
 
Sông Tranh đáp tiếng trả lời,
 
Chỉ có thanh long đao Quan đệ ngũ, chính người trong phủ Ninh Giang
 
Nhưng nào ngờ đâu khi đất trời thay đổi,
 
Người anh hùng cổ mang nặng xiềng gông.
 
Ngày hai nhăm tháng năm, Quan lớn bị bắt giam ở chốn Kỳ Cùng.
 
Quan oan vì tuyết nguyệt, bởi lòng ái ân.
 
Trước cung điện, triều đình xét hỏi,
 
Bắt long hầu chuyển khắp mọi nơi.
 
Quan lớn Tuần oan vì ong bướm lả lơi,
 
Chiết hoa, đoạt phụ tội trời không dung.
 
Bắt đày chốn sơn cùng, thuỷ kiệt,
 
Nỗi oan này thấu tỏ hỡi cao minh.
 
Gió lạnh sương sa vì đời bội bạc,
 
Sự ngay gian đảo lộn trắng đen.
 
Hỏi cây cỏ sao mưa dầu nắng dãi,
 
Lỡ hại người trong lúc phong ba.
 
Cỏ cây ơi có thấu tỏ lòng ta,
 
Sơn cùng thuỷ kiệt sương sa lạnh lùng.
 
Đường thiên lý quan san bỡ ngỡ,
 
Nợ trần hoàn quyết trả cho xong.
 
Tháng hai vừa tiết trung tuần,
 
Thử lòng ông lão, mộng trần ứng ngay.
 
Tỉnh giấc mộng mới hay sự lạ,
 
Đôi bạch xà tựa cửa hôm mai.
 
Trí đã quyết khỏi vòng cương toả,
 
Hay đâu còn mắc nợ oan khiên.
 
Ngài vừa hay có lệnh ban truyền,
 
Quan quân tầm nã khắp miền sông Tranh.
 
Thà thác vinh còn hơn sống nhục,
 
Cho sông Kỳ Cùng tắm ngọc Côn Sơn.
 
Trải hơn hai nghìn năm với vô cùng các biến cố đã phần nào che lấp sự thật về Vị Anh hùng đầu tiên chống ngoại xâm trong lịch sử Dân tộc Việt Nam – Cao Lỗ, nhân vật đã được ghi rõ trong sách sử và thư tịch cổ. Nhưng trong một số câu trong các bài văn lễ Quan Lớn Tuần Tranh cũng còn cho thấy phảng phất dấu ấn của một phần nào đó sự thật lịch sử như các đoạn văn sau trích dưới đây:
 
Những câu như : “Trừ tà sát quỷ nổi danh tướng tài”, cho ta thấy đây không những là một vị Tướng, mà còn là tướng tài. Hình ảnh của Vị Tướng tài này càng rõ hơn với những câu:’ Gương anh hùng muôn đời soi tỏ, Thanh long đao năm xưa cứu nước, anh hùng là ai? Chỉ có thanh long đao Quan đệ ngũ, chính người trong phủ Ninh Giang” chính những câu này làm rõ hơn hình ảnh một vị Võ Tướng, vậy nên sự truyền thuyết về Ngài nguyên xưa là Quan văn – huyện lệnh Ninh Giang, đấu tranh với Thần sông ( Ông Cụt) rất sai lệch, có lẽ đây là sự thêu dệt từ nguyên truyện “ Chuyện đối tụng ở Long cung” của Nguyễn Dữ người làng Đỗ Tùng, huyện Trường Tân nay là làng Đỗ Lâm, huyện Ninh giang, tỉnh Hải Dương. Ông là học trò giỏi của Nguyễn Bỉnh Khiêm, ông có đi thi Hội và ra làm quan dưới thời nhà Mạc ( từ năm 1530 đến năm 1627).Sau vì bất mãn, ông bỏ quan về dậy học. Trong 20 truyện viết dưới hình thức như thần thoại cổ tích, bên trong câu chuyện là sự phản ánh tình trạng xã hội đương thời qua cái nhìn bất mãn của nhà Nho với tư tưởng “Trung quân” cho rằng Nhà Mạc lên làm vua là sự thoán đạt, cướp ngôi nhà Lê, mà không thấy rằng lúc đó nhà Lê đến Lê Chiêu tông và Lê Cung Hoàng, anh em chém giết lẫn nhau, không biết gì đến chính sự, hoang dâm vô độ. Xã hội lúc đó đã suy sụp, thối nát cần phải thay đổi.
 
Có lẽ trong nội dung truyện” Chuyện đối tụng ở Long cung” có viết:” Huyện Vĩnh Lại ở Hồng Châu khi xưa có nhiều giống thủy tộc. Men sông người ta lập đền thờ đến hơn mười chỗ,… Về đời Minh tông nhà Trần, có quan Thái thú họ Trịnh làm quan ở Hồng Châu,…” Chỉ qua một đoạn ngắn mở đầu cho ta thấy:
 
1/ Thứ nhất là sự ngộ nhận từ địa danh “ Huyện Vĩnh Lại” trong truyện của Nguyễn Dữ mà gán ghép vào sự tích Quan Tuần Tranh vốn là một vị tướng trở thành quan văn.
 
2/ Thứ hai là khi đưa vào truyền thuyết dân gian đã không nhận thấy sự sai lệch ngay ở các đền thờ:” có hơn mười chỗ” thì việc thờ thần sông đâu phải là đền Quan Lớn Tuần Tranh.
 
Cũng cần phải thấy đây là câu chuyện văn học, bởi vậy sự phóng tác cũng như tiểu thuyết hóa câu chuyện là chính, tác giả không quan tâm đến sự thật lịch sử là vào đời nhà Trần (ghi rõ là Trần Minh Tông làm vua nhà Trần từ năm 1314 đến 1329), thì không có chức quan Thái thú.
 
Chức vị này chỉ có trong thời Bắc thuộc lần thứ nhất dưới sự thống trị của nhà Tây Hán và Đông Hán, đến thời Tam quốc, nước ta thuộc về nhà Đông Ngô (Ngô Cam lộ năm thứ 1 – Ất Dậu 265 sau CN) là còn gọi là Thái Thú (giống như chức Toàn quyền Đông dương thời Pháp thuộc). Năm Mậu Tý (năm 265 sau CN – Ngô Bảo đình năm thứ 3) Nước Ngô lấy Lưu Tuấn làm Thứ sử Giao châu, từ đó về sau thời Tấn, Tống, Tê, Lương,… kết thúc năm Canh Thân ( năm 540 sau CN) cộng lại 314 năm gọi chức quan này là Thứ sử. Sau từ thời Bắc thuộc lần thứ 3 dười các triều Tùy, Đường,… từ năm Quý Hợi ( năm 603 sau CN) đến năm Đinh Mão ( năm 907 sau CN) tổng cộng là 304 năm và 32 năm Nam Bắc phân tranh ở Trung Quốc thì chức quan này gọi là Đô hộ phủ, Tiết độ sứ,…không còn gọi chức quan này là Thái thú. Vậy nên nếu xét về sự thật lịch sử truyện “” Chuyện đối tụng ở Long cung” của Nguyễn Dữ không có giá trị gì về lịch sử, chỉ có thể đánh giá về văn học sáng tác mà thôi.
 
3/ Thứ ba là trong các câu thơ còn nhắc lại thời Văn Lang và Thục phán An Dương Vương của nhà nước Âu Lạc, đó là những hiện thực lịch sử thời đại của Người anh hùng Cao Lỗ lãnh đạo quân Việt kháng chiến đánh thắng quân 50 vạn quân xâm lược của nhà Tần, rồi sau đó là thời kỳ đầu đánh thắng quân xâm lược Triệu Đà. Sau vì bị án tình oan mà phải chết. Xin trích một số câu thơ dưới đây có sót lại tàn dư của hiện thực lịch sử của Vị anh hùng Cao Lỗ:
 
“Nước Văn Lang vào đời Thục Phán,
 
Công hộ quốc gia phong thượng đẳng,
 
Đất Văn Lang thiên cổ anh linh,
 
Quan oan vì tuyết nguyệt, bởi lòng ái ân.
 
Trước cung điện, triều đình xét hỏi,
 
Quan lớn Tuần oan vì ong bướm lả lơi,
 
Người anh hùng cổ mang nặng xiềng gông.
 
Ngày hai nhăm tháng năm Quan lớn bị bắt giam ở chốn Kỳ Cùng”
 
Lịch sử, nhất là thời cổ đại, thường trở thành truyền thuyết cũng là lẽ thường không chỉ ở Việt Nam mà ở hầu khắp các nước trên thế giới. Đánh giá lại chiến tích, công trạng của Cao Lỗ, năm 2005 Ủy Ban Nhân dân thành phố Hà Nội đã lấy tên Ngài đặt cho một trong những đường phố lớn nhất tại Đông Anh, nơi xưa kia Ngài đã tổ chức xây dựng tòa thành Cổ Loa, tòa thành lớn nhất trong lịch sử dựng nước, giữ nước Việt Nam và cũng tại đây Ngài đã phát minh ra nỏ liên châu nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam và Thế giới. Án tình oan của Ngài truyền kỳ trong dân gian trở thành một thiên tình sử của người Anh Hùng giữ nước mãi mãi còn lưu truyền trong tâm thức người Việt.
 
Quan Lớn Đệ Ngũ Tuần Tranh
 
 
+ Ngày 25/5: Tiệc Quan Lớn Tuần Tranh (Đền Ninh Giang - Đền Kì Cùng)
 
 
 
Tên đầu đủ: Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh.Ngoài ra còn gọi Quan Lớn Tuần,Quan Tuần,Quan Tuần Tranh
 
Quan Lớn Tuần Tranh là Quan thứ năm trong Ngũ vị Tôn Ông.
 
Tước phong: Đệ ngũ tôn quan thượng đẳng tối linh thần – Cao Lỗ đại vương – Đệ ngũ Tuần Tranh.
 
Nhiệm vụ: Ngọc Hoàng ban cho Ngài thống lĩnh thiên địa binh thay quyền tam tứ phủ đại diện cho con người (nhân vi chúa tể)
 
Thu chấp kim ngân tài mã giải oan nghiệp sớ cho trần gian.
 
 
 
Thân thế: Quan Lớn Đệ Ngũ Tuần Tranh hay còn gọi là Ông Lớn Tuần Tranh.Ông là con trai thứ năm của Vua Cha Bát Hải Động Đình.Ông cũng giáng dưới thời Hùng Định Vương (Hùng Triều Thập Bát) trong một gia đình ở phủ Ninh Giang (Nay là Hải Dương) Ông cũng là vị tướng quân tài ba kiêm lĩnh thuỷ bộ được giao quyền trấn giữ miền duyên hải sông Tranh.Ông đã lập được nhiều công Lao to lớn nên được sắc phong công hầu.Tại quê nhà ông có cảm tình với một người thiếu nữ xinh đẹp người thiếu nữ ấy vốn là vợ lẽ Của quan huyện ở đó nhưng vốn không hạnh phúc với cảnh “chồng chung” nàng cũng đáp lại tình cảm của ông mà không hề nói cho Ông biết là nàng đã có chồng.Vậy nên Quan Lớn Tuần Tranh vẫn đinh ninh đó là một tình cảm đẹp hẹn ngày đưa nàng về làm vợ
 
Đến khi viên quan huyện kia biết chuyện vu oan cho ông đã quyến rũ vợ mình.Quan Tuần Tranh bỗng nhiên mắc hàm oan bị đem đày Lên chốn Kì Cùng Lạng Sơn.Tại đây ông đã tự sát mong rửa oan chứng tỏ mình vô tội ông hoá xuống dòng sông Kì Cùng.Về lại nơi Quê nhà ông hiện thành đôi bạch xà thử lòng ông bà nông lão sau đó được ông bà nông dân nuôi nấng như thể con mình.Nhưng khi Quan phủ biết chuyện ông bà nông lão tậu gà để nuôi đôi bạch xà liền bắt ông bà phải lên cửa công chịu tội và giết chết đôi rắn kia đi Hai ông bà thương xót xin thả rắn xuống dòng sông Tranh lạ thay khi vừa thả đôi bạch xà xuống thì chỗ đó tạo thành dòng xoáy dữ Dội.Đến thời Thục Phán An Dương Vương vua tập hợp thuyền bè để chống Triệu Đà ở ngay bến sông Tranh nhưng tại chỗ dòng xoáy Đó thuyền bè không tài nào qua được mà lại có cơn giông tố nổi lên giữa dòng.Vua bèn mời các vị lão làng đến lập đàn cầu đảo thì Lập tức sóng yên bể lặng hơn nữa quân sĩ ra trận cũng được thắng to.Ghi nhớ công đức vua Thục giải oan cho ông và phong là Giảo Long Hầu.Sau này ông còn hiển thánh linh ứng có phép nhà trời cai quản âm binh ra oai giúp dân sát quỷ trừ tà dẹp hết những kẻ hại Nước hại dân.
 
 
 
Trong hàng Ngũ Vị Tôn Ông cùng với Quan Lớn Đệ Tam Quan Lớn Đệ Ngũ cũng là một vị quan lớn danh tiếng hết sức lẫy lừng được Nhân dân xa gần tôn kính phụng thờ.Tuy đứng trong hàng năm của Ngũ Vị Tôn Ông ông được thỉnh cuối cùng nhưng lại hay ngự về Đồng nhất (bất cứ ai hầu Tứ Phủ bất cứ dịp tiệc đàn lễ nào đều phải thỉnh Quan Tuần Tranh về ngự).Khi ngự đồng ông mặc áo lam Thêu rồng hổ phù; làm lễ tấu hương khai quang chứng sớ tán đàn rồi múa thanh long đao.Khi có đại đàn mở phủ hay bất cứ lễ tiệc Nào sau khi thỉnh các quan lớn về đều phải đợi đến khi giá Quan Lớn Đệ Ngũ về chứng một lần hết tất cả các đàn mã sớ trạng rồi mới Được đem đi hoá.
 
Đền thờ chính thờ Quan Lớn Tuần Tranh
 
Quan Lớn Tuần Tranh cũng được thờ ở rất nhiều nơi nhưng phải kể đến hai nơi nổi tiếng bậc nhất:
 
+ Đền Ninh Giang hay Đền Quan Lớn Tuần Tranh lập bên bến sông (bến đò) Tranh ở Ninh Giang Hải Dương.
 
Đây là nơi chính quán quê nhà của ông nơi ông trấn giữ duyên hải sông Tranh cũng là nơi ông hiển tích.
 
+ Đền Kì Cùng lập bên bến sông Kì Cùng qua cầu Kì Lừa (là nơi ông bị lưu đày).Ngày tiệc chính của quan là ngày 25/5 âm lịch (là ngày ông bị lưu đày và bảo nhân dân quê ông làm giỗ vào ngày này)ngoài ra vào ngày 14/2 các đền thờ ông cũng mở tiệc đón ngày đản sinh của quan.
 
Một sự tích khác về Quan Lớn Tuần Tranh
 
Theo truyền thuyết ngày xưa lưu truyền tại khu vực Đền Ninh Giang ngày nay:Ngày xưa ở làng Lạc Dục huyện Tứ Kỳ có hai vợ chồng nhà nghèo đã già mà chưa có con.Một hôm người chồng cuốc vườn bắt được ở cạnh bụi cây 2 quả trứng ngỡ là trứng chim nên đem đi cất cẩn thận.Ngờ đâu 2 quả trứng nở thành 2 con rắn.Người vợ sợ quá định đem giết đi nhưng người chồng không nghe nói rằng có lẽ trời cho ta khuây khỏa cảnh già đây.Quả nhiên hai con rắn quấn quýt với 2 vợ chồng ông già.Một hôm ông cuốc đất 1 con nhảy vào đùa nghịch bị ông cuốc cụt đuôi (Về sau khi linh ứng dân làng lập miếu thờ gọi là miếu Ông Cộc Ông Dài).Nhưng phải một nỗi 2 con rắn ấy chỉ ăn gà thôi.Ông già đi ăn trộm gà cho chúng ăn nhiều rồi sau sợ hàng xóm biết thì phải tội nên đành phải mang 2 con rắn vứt xuống sông Tranh.Chỗ vứt 2 con rắn ấy về sau sóng xoáy dữ lắm.Một hôm có bà công chúa muốn qua sông nhưng nước xoáy dữ thuyền không qua được.Sau theo lời quan dân sở tại đòi 2 vợ chông ông già đến hỏi chuyện.Bà lão sợ quá bèn lấy 2 nắm cơm vứt xuống sông và nói rằng "con ơi con có thương mẹ thì đừng nổi sóng nữa để mẹ khỏi tội".Bà vừa nói xong thì sóng yên lặng.
 
Về sau có ông quan phủ tên là Trịnh Thường Quân được bổ về Ninh Giang.Ông lấy một người vợ lẽ đẹp lắm.Một hôm bà đi chơi thuyền trên sông Tranh gặp một người dưới nước lên đòi lấy bà làm vợ.Bà nhất định không nghe.Đêm về đang ngủ bỗng lại thấy người đó hiện vào phòng nhất định đòi lấy.Bà đem chuyện này nói với quan Phủ.Quan Phủ cũng lấy làm lạ nên phòng giữ cẩn thận. Một hôm ngài có việc quan đi vắng đến lúc về thì thấy buồng không.Quan Phủ lấy làm phiền lắm bèn từ chức ngày ngày ra bờ sông Tranh tìm vợ.Sau gặp một ông Tiên tên là Quỷ Cốc ở miền Hải Quốc mách rằng bà Phủ đã bị Hoàng tử thứ 5 của Vua Thủy bắt xuống làm vợ rồi.Tiên Quỷ Cốc nghĩ thương tình quan Phủ nên giúp sức cho xuống được điện Vua Thủy mà kêu Tiên cũng kêu hộ.Sau Vua Thủy cho cả hai vợ chồng về rồi bắt Hoàng tử thứ 5 đem đày ra sông Tranh.Từ đó dân ở 2 bên bờ thấy có nhiều điều kỳ dị nên lập đền thờ gọi là đền Tranh.Dân quanh bến hoặc thuyền bè xuôi ngược qua đây nếu gặp sóng gió đều kêu cầu sóng gió sẽ êm.Ai có cầu kiểu gì cũng đều linh ứng.Thỉnh thoảng những đêm trong sáng có người trông thấy một thanh niên mũ áo từ trong đền đi ra.Người ta liền kháo nhau đó là Quan lớn Tuần Tranh.Về sau do có nhiều công giúp dân buôn thuyền bán bè qua sông bình an may mắn nên vị thần được tôn là: Quan "đệ ngũ Tranh Giang Hoàng hợp tôn thần".Đền Tranh có tiếng linh thiêng cầu việc gì được việc ấy nên khách đến lễ ngày càng đông
 
- Văn QUAN TUẦN TRANH
Trong khi thỉnh ông về,văn thường hát:
“Uy gia lẫm liệt tung hoành
Trừ tà sát quỷ nên danh tướng tài
Ninh Giang chính quán quê nhà
Dấu thiêng ghi để ngã ba Kì Cùng”
- Hay nói về nỗi oan của ông, văn hát sử oán rằng:
“Nào ngờ đâu đất trời thay đổi
Người anh hùng mang tội xiềng gông
Tháng năm đày chốn Kì Cùng
Oan vì tuyết nguyệt đổi lòng ái ân
Trước cung điện triều đình tra xét
Bắt long hầu truyền hết mọi nơi
Oan vì bướm lả ong lơi
Triết hoa đoạt vũ tội trời không dung
Lệnh viễn xứ sơn cùng thuỷ kiệt
Nỗi oan này có thấu cao minh
Áo bào đã nhuộm chàm xanh
Tấm thân bách chiến tử sinh lẽ thường”
- Hoặc có cả những đoạn ca ngợi công lao, tài đức của ông:
“Loa đồng hỏi nước sông Tranh
Đao thiêng dẹp giặc anh hùng là ai
Sông Tranh đáp tiếng trả lời
Anh hùng lừng lẫy là người Ninh Giang”
- Còn khi quan ngự đồng, khai quang chứng sớ điệp, ra oai giúp dân trừ tà thì văn hát rằng:
“Ông về truyền phán các quan
Tả cơ hữu đội lưỡng ban đáo đàn
Quân thuỷ quân bộ đôi hàng
Chư binh vạn mã hằng hà kéo ra
Lệnh truyền thiên đội vạn cơ
Quan Tuần bây giờ trắc giáng anh linh
Trước là bảo hộ gia đình
Sau ra thu tróc tà tinh phen này
Ra oai trần thế biết tay
Ngự lên đồng tử cứu rày nhân gian
Cứu đâu thời đấy khỏi oan…”
 
 
VĂN QUAN TUẦN TRANH
 
Đệ tử con khấu đầu cung thủ
Tiến văn chầu quan đệ ngũ tuần tranh
Dọc
Ninh Giang chính quán quê nhà ,
Danh lam thắng tích một toà ngôi cao.
Uy ra lẫm liệt tung hoành
Trừ tà sát quỷ nổi danh tướng tài.
Cảnh Thiên thai Quan Tuần ngự giá,
Các tiên nàng thứ tự dâng huê.
Chầu thôi lại trở ra về
Truyền quân dâng nước Thuỷ tề chan chan .
Cảnh am thanh nhiều bề lịch sự
Vốn đặt bầy tự cổ vu lai.
Có phen xuất nhập trang đài,
Đào lan quế huệ xum vầy xướng ca.
Phú:
Nước Văn Lang vào đời Thục trị,
Giặc Triệu Đà cố ý xâm lăng,
Triều đình ra lệnh tiến binh,
Thuyền bè qua bến sông Tranh rợp trời.
Bỗng nổi trận phong lôi bão táp
Ba quân đều sợ hãi khiếp kinh
Hỏi ra mới biết sự tình
Thiết bày hương án lễ trình bên sông.
Mời trưởng lão trong vùng thôn xóm
Khấn vừa xong gió lặng sóng yên
Uy linh sự đã hiển nhiên
Lệnh truyền dân xã lập đền bên sông.
Gương anh khí sáng ngời muôn thủa
Trí hào hùng rạng rỡ non sông
Vinh quang thay nòi giống tiên rồng
Muôn dân còn ghi nhớ quan tuần tài cao.
Đấng anh hào cổ kim lừng lẫy
Khắp mọi miền đã dậy thần cơ
Nhân dân trung nam bắc phụng thờ
Ninh Giang lại nổi đền thờ Tuần Tranh.
Công hộ quốc gia phong thượng đẳng,
Tước phong hầu truy tặng Đại vương,
Bảng vàng thánh thọ vô cương
Hiếu trung tiết nghĩa đôi đường vẹn hai.
Thơ:
Sông Tranh ơi hỡi sông Tranh,
Non nước còn ghi trận tung hoành,
Lẫm liệt oai hùng đao tráng sĩ,
Ngàn thu ghi nhớ dấu oai linh.
Hỡi Ai về qua bến sông Tranh,
Nhớ người tráng sĩ tài danh tuyệt vời.
Dẫu rằng nước chảy hoa trôi,
Sông Tranh dù cạn, ơn người còn ghi.
Loa đồng hỏi nước sông Tranh,
Long đao cứu nước, anh hùng là ai?
Sông Tranh đáp tiếng trả lời,
Là Quan đệ ngũ, chính người Ninh Giang .
Oán:
Nào ngờ đâu khi đất trời thay đổi,
Người anh hùng cổ nặng xiềng gông.
Ngày hai mươi lăm tháng năm, Quan lớn bị bắt giam ở chốn Kỳ Cùng.
Quan lớn oan vì tuyết nguyệt, bởi lòng ái ân.
Trước cung điện, triều đình tra xét,
Bắt long hầu chuyển khắp mọi nơi.
Ngài oan vì ong bướm lả lơi,
Chiết hoa, đoạt phụ tội trời không dung.
Lệnh viễn xứ sơn cùng, thuỷ kiệt,
Nỗi oan này thấu tỏ hỡi cao minh.
Hoàng bào đã nhuộm chàm xanh
Tấm thân đành chịu nhục vinh lẽ thường.
Đường thiên lý quan san bỡ ngỡ
Hỏi trăng già có tỏ trăng ơi
Hỏi mây hỏi gió hỏi trời
Hỏi rằng nguyệt lão trêu người vì đâu.
Hỏi cây cỏ sao mưa dầu nắng dãi,
Vẫn vươn mình há ngại phong ba.
Cỏ cây ơi có thấu tỏ lòng ta,
Sơn cùng thuỷ kiệt sương sa lạnh lùng .
Thà thác vinh còn hơn sống nhục,
Nước sông Kỳ Cùng tắm ngọc Côn Sơn .
Kiệt cùng hiu hắt trăng non
Sông Cùng trong đục nước tuôn đôi dòng
Ngẫm cảnh vật lòng đau như cắt
Nợ trần hoàn quyết dứt cho xong
Lòng riêng đã quyết với lòng
Mượn dây oan nghiệt cho xong tội trời
Rừng hoa cỏ thương người đã khuất
Bỗng đùng đùng gió giật mưa sa
Nỗi oan chuyển động đất trời
Dây oan kia kết lại thành đôi bạch xà .
Đất Ninh Giang tìm nhà hữu phúc
Thử lòng người trong lúc lánh thân
Tháng hai vừa tiết trung tuần
Thử lòng ông lão mộng thần ứng ngay
Tỉnh giấc mộng mới hay sự lạ
Đôi bạch xà tựa cửa hai bên
Long xà kì dị thảo hiền
Từ khi xuất hiện vui thêm cửa nhà
Ba tháng sau đàn gà đã hết
Thương rắn hiền không biết lo sao
Khó khăn âu cũng tính liều
Ông bà nông lão sớm chiều đông tây
Bỗng một buổi tai bay hoạ rủi
Hai ông bà mắc tội cửa công
Lệnh nghiêm sấm sét đùng đùng
Tậu gà nuôi rắn không dung tội này
Lệ nuốt lệ đắng cay xiết kể
Thương rắn thần tựa thể thương con
Khấu đầu tạ trước công môn
Xin đem đôi rắn thả luôn giữa dòng
Cơn phong vũ ầm ầm nổi dậy
Sóng bạc đầu nước xoáy mênh mông
Long xà thoát xuống thuỷ cung
Nước rẽ đôi dòng cuồn cuộn chứa chan
Khắp duyên hải sấm ran từ đấy
Bóng long hầu nổi dậy nơi nơi
Những phường bán nước hại nòi
Gian tà quỷ quyệt tội trời không tha
Dìm đáy nước về toà thuỷ tộc
Tội gia hình bõ lúc sai ngoa
Lẽ thường tội báo oan gia
Hại nhân nhân hại sự đà không sai
Nước Văn Lang vào đời Thục trị,
Giặc Triệu Đà có ý xâm lăng,
Triều đình ra lệnh tiến binh,
Thuyền bè qua bến sông Tranh rợp trời.
Bỗng nổi trận phong lôi bão táp
Ba quân đều sợ hãi khiếp kinh
Hỏi ra mới biết sự tình
Thiết bày hương án lễ trình bên sông
Mời trưởng lão trong vùng thôn xóm
Khấn vừa xong gió lặng sóng yên
Uy linh sự đã hiển nhiên
Lệnh truyền dân xã lập đền bên sông.
Công hộ quốc gia phong thượng đẳng,
Tước Long hầu truy tặng Đại vương,
Bảng vàng thánh thọ vô cương
Hiếu trung tiết nghĩa đôi đường vẹn hai.
Kiều dương:
Trên bát ngát long chầu hổ phục
Dưới tam đầu cửu vĩ chầu lên
Lân rờn phượng múa đôi bên
Quan tuần trắc giáng ngự lên sập rồng.
Sắc vua phong kiêm chi tam giới
Hay tróc tà sát quỉ trừ tinh
Quan tuần vạn phép muôn linh
Quyền ngài cai quản âm binh nhà trời.
Ngự đồng ai mình quyền bóng quý
Nương uy trời thụy khí đoan trang
Quan tuần hiển hách uy vang
Ra tay tế độ trần gian được nhờ.
Lúc bấy giờ ngài ra uy hùng hổ
Nương oai trời cứu độ muôn dân
Đùng đùng nổi trận phong vân
Ngự đồng ban phép cứu dân trừ tà.
Cánh dấu thiêng đem về mà trấn
Ai có tà xin quan trục tà ma
Dù ai vận hạn chưa qua
Kêu quan đệ ngũ bệnh đà tan ngay.
Nay dốc lòng ơn ông vạn bội
Hoặc ai mà nhầm lỗi truyền tha
Hay là cách trở sơn hà
Cầm cờ chỉ núi núi đà tan không .
Tiếng nức danh tung hoành dũng lược
Cảnh non bồng nước nhược bồng lai
Khi chơi bạn trúc bạn mai
Bạn loan tiệc ngọc xum vầy xướng ca.
Các bộ nàng ra tay bẻ quế
Quan dạo chơi thành thị hồ tiên
Ba ngàn thế giới dư thiên
Tiếng quan đệ ngũ khắp miền đông tây.
Bốn phương trời đội ơn đức cả
Ai có lòng quan hỉ xả từ bi.
Thiên sinh văn võ gồm tài
Quan tuần lịch sự đáng trai anh hùng.
Một nguyện ngài giáng phúc trừ tai
Đồng gia bản hội ai ai cũng thịnh cường.
Nguyện thứ hai buôn bán đủ trăm đường
Tiền tài lưu loát bạc vàng đề đa.
Nguyện thứ ba công hầu các lễ
Hộ tiểu con phú quí sang giàu
Độ tiểu con nay sống dài lâu
Nhờ ơn quan lớn phúc lâu giầu bền.
Nguyện thứ tư cho quốc phú dân an
Qua cơn binh lửa dân an thái bình.
Nguyện thứ năm ông giáng phúc bản đền
Thủ nhang họ…… cung văn nương nhờ.
 

 

 
 

ĐẠO MẪU VIỆT NAM

Liên hệ

Trang Chia Sẻ Tâm Linh Cho Người Việt

 

XEM BÓI MIỄN PHÍ ONLINE 0966662332

 

  

XEM BÓI MIỄN PHÍ ONLINE 0966662332

XEM BÓI MIỄN PHÍ ONLINE 0966662332

 

zalo