CÁC NGÀY TIỆC THÁNG NĂM:
+ Ngày 05/5: Tiệc Trần Triều Đệ Nhị Vương Cô Đại Hoàng Công Chúa Chính Cung;
+ Ngày 07/5: Tiệc Trần Triều Vương Tử Đệ Tứ Hưng Trí Đại Vương;
+ Ngày 10/5: Tiệc Chầu Lục (Đền Chín Tư Hữu Lũng)
+ Ngày 10-5: Tiệc Chúa Đệ Nhất Tây Thiên;
+ Ngày 10/5: Tiệc Cô Sáu Sơn Trang (Tiệc Cô Sáu Lục Cung);
+ Ngày 20/5: Tiệc Chầu Năm Suối Lân (+ Tiệc Cô Năm Suối Lân);
+ Ngày 25/5: Tiệc Quan Lớn Tuần Tranh (Đền Ninh Giang,Đền Kì Cùng)
Quan Lớn Tuần Tranh: Thần Tích Và Quyền Phép
Quan Lớn Tuần Tranh là ai? Sự tích Quan Lớn Đệ Ngũ Tuần Tranh
Quan lớn Tuần Tranh hay còn là vị tôn quan thứ 5 (Quan đệ ngũ) trong Ngũ Vị Tôn Ông.
Vậy quan lớn tuần tranh là ai?
+ Ngày 25/5: Tiệc Quan Lớn Tuần Tranh ( đền Ninh Giang, đền Kì Cùng)
Nỗi oan da diết một vùng
Uy danh dũng mãnh Kỳ Cùng Lạng Sơn
Quan tuần chắc giáng nam sơn
Muôn dân ghi nhớ công ơn đời đời
Thiên binh thiên tướng nhà trời
Quyền ông cai quản nơi nơi thái hoà
Danh lam thắng tích một toà
Sông tranh còn đó mặn mà sầu thương
Buồn buồn tủi tủi vấn vương
Con về bái yết dâng hương quan tuần
Quan về bảo hộ muôn dân
Thao quân võ lược điều quân trừ tà
Quan ban phúc lộc đề đa
Già trẻ trai gái nhà nhà ấm êm
1. Quan lớn tuần tranh là ai?
Quan lớn Tuần tranh là ai? Ngài chính là con trai của Vua Cha Bát Hải Đồng Đình
Và cùng 4 người anh của mình trong Thành Ngũ Vị Tôn Quan.
Ngài được Ngọc Hoàng Thượng Đế ban cho quyền phép cai quản địa binh giải oan nghiệp về sớ chương cho trần gian.
Trăng soi sáng tỏ đồi thông
Quan về soi xét thanh đồng ra sao
Mà sao lắm chuyện tào lao
Miệng trần bóng Thánh rêu rao hại đời
Mượn bóng Ông Thánh nơi nơi
Lạt người lấy của đất trời nổi giông
Năm nay thanh lọc thải đồng
Soi tài cắt lộc, phàm trần có hay ?
Năm nay vận hạn lắm thay
Bệnh dịch, nghèo đói, càng ngày nặng thêm
Bởi nay trời đất chẳng êm
Giận người hám của ngày đêm tội đầy
Trách sao cái nghiệp làm thầy
Dẫn người sai lối, nghiệp dầy chất cao
Trách ai cớ lại làm sao
Chưa ra mở phủ đã nào mượn uy
Giả danh lừa đảo thị phi
Làm lễ dân chúng, hỏi khi nào thành
Mà sao khắp chốn tung hoành
Gạ người làm lễ, tanh bành cả lên
Trời xanh kia đã chứng tên
Nhân quả muôn kiếp, bề trên chứng lòng
Sống sao đã đục chẳng trong
Cầu tài hám lợi tiền nong lộc tài
Nghiệp kia lại tiếp thêm dài
Đời này đời khác miệt mài gánh thêm
Bởi nay làm ác ngày đêm
Đời con đời cháu chẳng êm hận đời
Mà đâu nào phải do trời
Ăn mặn khát nước, suốt đời áy o
Quanh năm suốt tháng phải lo
Oan gia trái chủ hành cho suốt ngày
Bao giờ mới chịu đổi thay
Hay là phải trị tận tay mới thành
Thanh long đao đó tung hoành
Xưa kia giết giặc để giành nước Nam
Giờ đây dân chúng bình an
Phải biết báo hiếu, chứa chan lòng người
Mà sao trắng mắt con ngươi
Chỉ lo hám lợi, lại lười làm ăn
Thấy người túng thiếu khó khăn
Lấy cớ soi bói, rồi răn lễ làm
Tung thêm năm ba chuyện xàm
Người trần lo sợ miêm man xoay tiền
Mong là đúng cửa gặp Tiên
Cầu thần giúp đỡ được yên trong nhà
Ngờ đâu càng hại người ta
Người người oán hận, lòng tà phải mang
Năm nay Canh Tý đã sang
Lọc đồng, cắt lộc, rõ ràng không sai
Trị cho chẳng thiếu một ai
Ai làm nấy chịu, đôi vai chịu đòn
Khuyên ai tích đức cho tròn
Đúng đường đúng lối, mới còn lộc Thiên
Lộc kia Thánh dẫn con hiền
Đồng Quan bóng Thánh, mọi miền trợ nguy
Học điều nhân nghĩa từ bi
Ngày đêm tu học chẳng sân si đời
Trợ duyên tác phúc nơi nơi
Có tâm trời chứng, đất trời vang danh
Xứng con nhà Thánh tu hành
Kính trên nhường dưới mới thành đồng ngoan
Bao nhiêu cơ cực trái oan
Cơ hành gian khó khoan thai nên người
Con con cháu cháu vui cười
Gia đình sum họp vẹn mười khang ninh
Bản hát văn cổ Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh
2. Sự tích Quan Lớn Tuần Tranh
Trong hàng Ngũ Vị Tôn Ông, cùng với Quan Lớn Đệ Tam, Quan Lớn Đệ Ngũ cũng là một vị quan lớn danh tiếng hết sức lẫy lừng, được nhân dân xa gần tôn kính phụng thờ. Tuy đứng trong hàng năm của Ngũ Vị Tôn Ông, ông được thỉnh cuối cùng nhưng lại hay ngự về đồng nhất (bất cứ ai hầu Tứ Phủ, bất cứ dịp tiệc, đàn lễ nào đều phải thỉnh Quan Tuần Tranh về ngự).
Khi ngự đồng ông mặc áo lam thêu rồng, hổ phù; làm lễ tấu hương, khai quang, chứng sớ tán đàn rồi múa thanh long đao. Khi có đại đàn mở phủ hay bất cứ lễ tiệc nào, sau khi thỉnh các quan lớn về, đều phải đợi đến khi giá Quan Lớn Đệ Ngũ về chứng một lần hết tất cả các đàn mã sớ trạng rồi mới được đem đi hoá.
Quan lớn Tuần Tranh: Thần tích và quyền phép
Quan Lớn Tuần Tranh là ai? Sự tích Quan Lớn Đệ Ngũ Tuần Tranh
Quan lớn Tuần Tranh hay còn là vị tôn quan thứ 5 (Quan đệ ngũ) trong Ngũ Vị Tôn Ông. Vậy quan lớn tuần tranh là ai?
+ Ngày 25/5: Tiệc Quan Lớn Tuần Tranh ( đền Ninh Giang, đền Kì Cùng)
Nỗi oan da diết một vùng
Uy danh dũng mãnh Kỳ Cùng Lạng Sơn
Quan tuần chắc giáng nam sơn
Muôn dân ghi nhớ công ơn đời đời
Thiên binh thiên tướng nhà trời
Quyền ông cai quản nơi nơi thái hoà
Danh lam thắng tích một toà
Sông tranh còn đó mặn mà sầu thương
Buồn buồn tủi tủi vấn vương
Con về bái yết dâng hương quan tuần
Quan về bảo hộ muôn dân
Thao quân võ lược điều quân trừ tà
Quan ban phúc lộc đề đa
Già trẻ trai gái nhà nhà ấm êm
1. Quan lớn tuần tranh là ai?
Quan lớn Tuần tranh là ai? Ngài chính là con trai của Vua Cha Bát Hải Đồng Đình và cùng 4 người anh của mình trong hành Ngũ Vị Tôn Quan.
Ngài được Ngọc Hoàng Thượng Đế ban cho quyền phép cai quản địa binh, giải oan nghiệp về sớ chương cho trần gian.
Trăng soi sáng tỏ đồi thông
Quan về soi xét thanh đồng ra sao
Mà sao lắm chuyện tào lao
Miệng trần bóng Thánh rêu rao hại đời
Mượn bóng Ông Thánh nơi nơi
Lạt người lấy của đất trời nổi giông
Năm nay thanh lọc thải đồng
Soi tài cắt lộc, phàm trần có hay ?
Năm nay vận hạn lắm thay
Bệnh dịch, nghèo đói, càng ngày nặng thêm
Bởi nay trời đất chẳng êm
Giận người hám của, ngày đêm tội đầy
Trách sao cái nghiệp làm thầy
Dẫn người sai lối, nghiệp dầy chất cao
Trách ai cớ lại làm sao
Chưa ra mở phủ đã nào mượn uy
Giả danh lừa đảo thị phi
Làm lễ dân chúng, hỏi khi nào thành
Mà sao khắp chốn tung hoành
Gạ người làm lễ, tanh bành cả lên
Trời xanh kia đã chứng tên
Nhân quả muôn kiếp, bề trên chứng lòng
Sống sao đã đục chẳng trong
Cầu tài hám lợi tiền nong lộc tài
Nghiệp kia lại tiếp thêm dài
Đời này đời khác miệt mài gánh thêm
Bởi nay làm ác ngày đêm
Đời con đời cháu chẳng êm hận đời
Mà đâu nào phải do trời
Ăn mặn khát nước, suốt đời áy o
Quanh năm suốt tháng phải lo
Oan gia trái chủ hành cho suốt ngày
Bao giờ mới chịu đổi thay
Hay là phải trị tận tay mới thành
Thanh long đao đó tung hoành
Xưa kia giết giặc để giành nước Nam
Giờ đây dân chúng bình an
Phải biết báo hiếu, chứa chan lòng người
Mà sao trắng mắt con ngươi
Chỉ lo hám lợi, lại lười làm ăn
Thấy người túng thiếu khó khăn
Lấy cớ soi bói, rồi răn lễ làm
Tung thêm năm ba chuyện xàm
Người trần lo sợ miêm man xoay tiền
Mong là đúng cửa gặp Tiên
Cầu thần giúp đỡ được yên trong nhà
Ngờ đâu càng hại người ta
Người người oán hận, lòng tà phải mang
Năm nay Canh Tý đã sang
Lọc đồng, cắt lộc, rõ ràng không sai
Trị cho chẳng thiếu một ai
Ai làm nấy chịu, đôi vai chịu đòn
Khuyên ai tích đức cho tròn
Đúng đường đúng lối, mới còn lộc Thiên
Lộc kia Thánh dẫn con hiền
Đồng Quan bóng Thánh, mọi miền trợ nguy
Học điều nhân nghĩa từ bi
Ngày đêm tu học chẳng sân si đời
Trợ duyên tác phúc nơi nơi
Có tâm trời chứng, đất trời vang danh
Xứng con nhà Thánh tu hành
Kính trên nhường dưới mới thành đồng ngoan
Bao nhiêu cơ cực trái oan
Cơ hành gian khó khoan thai nên người
Con con cháu cháu vui cười
Gia đình sum họp vẹn mười khang ninh
Bản hát văn cổ Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh
2. Sự tích Quan Lớn Tuần Tranh
Trong hàng Ngũ Vị Tôn Ông, cùng với Quan Lớn Đệ Tam, Quan Lớn Đệ Ngũ cũng là một vị quan lớn danh tiếng hết sức lẫy lừng, được nhân dân xa gần tôn kính phụng thờ. Tuy đứng trong hàng năm của Ngũ Vị Tôn Ông, ông được thỉnh cuối cùng nhưng lại hay ngự về đồng nhất (bất cứ ai hầu Tứ Phủ, bất cứ dịp tiệc, đàn lễ nào đều phải thỉnh Quan Tuần Tranh về ngự).
Khi ngự đồng ông mặc áo lam thêu rồng, hổ phù; làm lễ tấu hương, khai quang, chứng sớ tán đàn rồi múa thanh long đao. Khi có đại đàn mở phủ hay bất cứ lễ tiệc nào, sau khi thỉnh các quan lớn về, đều phải đợi đến khi giá Quan Lớn Đệ Ngũ về chứng một lần hết tất cả các đàn mã sớ trạng rồi mới được đem đi hoá.
Mỗi vị trong Ngũ Vị Tôn Quan đều gắn một sự tích riêng cho mình. Vậy quan lớn đệ ngũ Tuần Tranh có sự tích, lịch sử như thế nào thì kính mời quý độc giả cùng xem chi tiết sau đây:
1. Thần tích qua Ngọc Phả, Truyền thuyết
Có một số truyền thuyết về gốc tích của ông nhất là qua Các ngọc phả thần tích và các điển tích, các đền phủ của tín ngưỡng Tam-Tứ Phủ, đền thờ Ông cũng như qua các bản văn chầu. Một truyền thuyết tương đối phổ biến và qua thần tích và ngọc phả đền Đồng Bằng thờ Vua cha Bát Hải gốc tích của ông như sau.
Ông là con trai thứ năm trong một gia đình lái đò trên dòng sông Vĩnh, phủ Ninh Giang (nay thuộc Hải Dương) thời Hùng triều thập bát (Hùng Duệ vương). Tuổi tác đã cao mà vợ chồng ông lái đò chưa có người nối dõi. Một lần ông bà bắt được bào thai trong có một ổ trứng trắng liền mang về nhà. Trải 9 mùa trăng đi qua, vào một ngày trời đầy mưa giông, sấm giật, 9 quả trứng nứt vỏ, 9 con rắn ra đời, ngày tháng thoi đưa, lũ rắn cũng lớn dần lên.
Năm ấy, đất nước có giặc, vua Hùng phải lập đàn khấn cầu các Thần linh giúp sức, lại sai sứ giả đi chiêu tập hiền tài huấn luyện binh nhung. Nghe tiếng loa truyền, 9 rắn hoá thành 9 chàng trai, cùng vào yết kiến nhà vua xin tham gia tiễu trừ quân giặc. 9 anh em nhất hô, bách ứng kéo theo cả thuồng luồng, thuỷ quái ra trận. Chỉ một ngày giặc tan, đất nước trở lại thanh bình. Vua Hùng truyền lệnh phong cho 9 chàng trai là 9 ông Hoàng.
Ngày 22/8 năm Bính Dần, bỗng một vầng hào quang chói loà, 9 chàng trai lại trở thành 9 con rắn trở về với dòng sông Tam Kỳ. Từ đó dân làng truy ơn lập 9 ngôi đền thờ các dũng tướng đã giúp vua trừ giặc ở dọc hai bờ sông, từ bến đò Tranh đến tận cửa biển Diêm Điền và đền Đồng Bằng là nơi thờ người cha chèo đò trên bến sông thuở ấy, với duệ hiệu Trấn Tây Tam Kỳ giang linh ứng, Vĩnh Công đại vương, Bát Hải động đình gọi nôm là vua cha Bát Hải.
Một truyền thuyết khác kể rằng: Ông là con trai thứ năm của vua cha Bát hải Động đình. Ông là vị tướng quân tài ba kiêm lĩnh thuỷ bộ, được giao quyền trấn giữ miền duyên hải sông Tranh. Ông đã lập được nhiều công lao to lớn nên được sắc phong Công hầu. Ông có cảm tình với một người thiếu nữ xinh đẹp là vợ lẽ của một viên quan, nhưng vốn không hạnh phúc với cảnh chồng chung, nàng cũng đáp lại tình cảm của ông mà không hề nói cho ông biết là nàng đã có chồng.
Ông vẫn đinh ninh đó là một tình cảm đẹp, hẹn ngày đưa nàng về làm vợ. Đến khi viên quan kia biết chuyện, vu cho ông đã quyến rũ vợ mình. Ông bỗng nhiên mắc hàm oan, bị đem đày lên chốn Kì Cùng, Lạng Sơn, trong bản văn trầu có câu ca sau:
"...Ngày hai nhăm tháng năm bắt đày chốn sơn cùng thủy kiệt,
Oan vì tuyết nguyệt bởi lòng ái ân..."
Tại bến sông Kỳ Cùng, để chứng tỏ mình vô tội, ông nhảy xuống dòng sông Kỳ Cùng mong rửa oan. Hồn Ông trở lại quê nhà, hiện thành đôi bạch xà. Rồi một ông bà lão nông bắt được đem về nhà nuôi nấng như thể con mình. Đến khi viên quan phủ biết chuyện ông bà nông lão mua gà để nuôi đôi bạch xà, liền bắt ông bà phải lên cửa công chịu tội và đòi giết chết đôi bạch xà. Hai ông bà thương xót, xin thả rắn xuống dòng sông Tranh, lạ thay khi vừa thả đôi bạch xà xuống thì chỗ đó tạo thành dòng xoáy dữ dội.
2. Câu chuyện truyền thuyết chi tiết về: “ Truyện ông Dài, ông Cụt”
Ngày xưa, có hai vợ chồng già làm ruộng một hôm đi ra ngoài đồng, thấy hai quả trứng lạ, nhặt đem về nhà. Được ít lâu, hai quả trứng nở ra hai con rắn rất khôn, hai vợ chồng đi đâu chúng nó thường bò theo. Hai người không con nên cứ nuôi chúng nó, xem như là con, thường ngày cho ăn uống tử tế.
Một hôm, người chồng cuốc vườn, vô ý cuốc đứt một khúc đuổi của một con. Sau đó, vợ chồng mới gọi hai con rắn đặt tên cho là con Dài con Cụt. Hai con rắn lớn lên, ăn rất tợn, nhà nghèo không đủ nuôi, chúng nó thường đi bắt gà, chó của hàng xóm mà ăn. Hai vợ chồng không nuôi nổi, mới đem thả xuống sông Tranh, bây giờ thuộc Hải Dương.
Hai anh em rắn Dài và Cụt được Thủy Vương nhận làm bộ hạ và cho cai quản cả một vùng sông rộng. Rắn Cụt tính khí dữ tợn hơn rắn Dài, hoành hành khắp vùng, làm cho dân chúng phải kiêng sợ gọi tên là ông Dài và ông Cụt. Có khi chúng bắt cả người, còn cướp súc vật là chuyện thường xảy ra. Ghe thuyền qua lại trên khúc sông, thường bị ông Cụt nổi sóng dữ tợn làm cho đắm. Cha mẹ nuôi ông Dài, ông Cụt thỉnh thoảng lại phải ra bờ sông van lơn xin con nuôi đừng làm hại người ta. Chúng cũng nghe theo được ít lâu, rồi lại đâu vẫn hoàn đấy.
Có lần hai vợ chồng họ Trịnh đi thuyền qua đó, ông Cụt thấy người vợ là Dương Thị nhan sắc xinh đẹp, muốn bắt về làm vợ, cho hai người con gái bưng lễ vật đến hỏi. Hai vợ chồng hoảng sợ bỏ thuyền lên bờ trốn tránh. Nhưng rồi ông Cụt cho bộ hạ theo dõi, thừa một đêm mưa gió, bắt Dương Thị đem về dưới Thủy Phủ. Sáng ngày, người chồng theo dấu ra đến bờ sông chỉ còn thấy quần áo của vợ trút bỏ lại đó.
Người chồng không biết làm thế nào, đành nuốt hận đi đây, đi đó tìm người phép tắc thần thôn để trừ ông Cụt. Một hôm, họ Trịnh gặp một ông già ngồi bói ở chợ, lân la hỏi mới biết là Bạch Long Hầu tức là Thần Mưa ở dưới Thủy Cung. Bạch Long Thần rẽ nước mời họ Trịnh về nhà mình ở dưới biển, giúp bàn việc kiện ông Cụt với Long Vương. Họ Trịnh đưa cái thoa của vợ nhờ người nhà Bạch Long hầu làm của tin để dò tìm Dương Thị ở dưới Thủy Phủ.
Khi đã bắt liên lạc được với Dương Thị rồi, họ Trịnh bèn cậy Bạch Long Hầu đưa đến triều đình Long Vương để tố cáo tình địch đã cướp vợ mình. Long Vương cho đòi ông Cụt tới. Ban đầu ông Cụt còn chối cãi, toan làm dữ với họ Trịnh, nhưng đến khi Dương Thị ra kể lại sự tình bị ông Cụt bắt cóc, ép duyên, thì họ Trịnh liền được kiện. Long Vương xử cho Dương Thị trở về mặt đất với họ Trịnh, con của nàng sinh với ông Cụt thì giao lại cho ông Cụt. Ông Cụt bị đày đến ở sông Kỳ Cùng, thuộc về Lạng Sơn ngày nay.
Ngày ông Cụt bị giáng chức đi đày, các loài thủy tộc đi theo tiễn chân đầy cả một khúc sông. Được biết hiện nay gần cầu Kỳ Lừa trên bờ sông Kỳ Cùng có ngôi đền thờ “ Thần sông nước” bị đuổi từ huyện Vĩnh Lại đất Hồng Châu lên, được nhiều người đến bái và cầu tài cầu lộc.
3. Theo lịch sử nghi chép.
Thời kỳ Thục Phán An Dương Vương, vua tập hợp thuyền bè để chống Nam Việt ở ngay bến sông Tranh, nhưng tại chỗ dòng xoáy đó, thuyền bè không tài nào qua được mà lại có cơn giông tố nổi lên giữa dòng. Vua bèn mời các vị lão làng đến lập đàn cầu đảo thì lập tức sóng yên bể lặng, hơn nữa, quân sĩ ra trận cũng được thắng to. Ghi nhớ công đức, vua Thục giải oan cho ông và phong là Giảo Long Hầu. Sau này ông còn hiển Thánh linh ứng, có phép nhà trời, cai quản âm binh, ra oai giúp dân sát quỷ trừ tà, dẹp hết những kẻ hại nước hại dân. Nhưng phép đó là gì thì chỉ những người nào đó trong tín ngưỡng Tam-Tứ Phủ sát bóng Quan Tuần mới có thể được ban ấn lệnh.
Trong tín ngưỡng Tam-Tứ Phủ thờ Nhạc Phụ của Kinh Dương Vương ( Kinh Xuyên ) là phụ vương của Sùng Lãm Tức Đại Thánh Lạc Long Quân cai quản Thủy phủ (Thoải Phủ) với vai trò là vua cha tức vua cha Bát hải Long vương (Thoải Phủ) hay Bát hải Động đình vương (Hồ Động Đình ở sông Dương Tử nay thuộc Trung Quốc). Nên Quan đệ ngũ Tuần Tranh chính là con trai của vua Lạc Long quân.
Trong hàng Ngũ vị Tôn quan, Ông là một vị quan lớn danh tiếng hết sức lẫy lừng, được nhân dân tôn kính phụng thờ. Trong các buổi lễ Mẫu Tam- Tứ Phủ, Ông đều giáng ngự đồng. Khi ngự đồng ông mặc áo lam thêu rồng, hổ phù làm lễ tấu hương, khai quang, chứng sớ, chứng đàn tiễn đàn. Rồi múa thanh long đao, khi có đại đàn mở phủ hay bất cứ lễ tiệc nào, sau khi thỉnh các quan lớn về, đều phải đợi đến khi giá Quan Lớn Đệ Ngũ về chứng một lần hết tất cả các đàn mã sớ trạng rồi mới được đem đi hoá.
Lại có tích Có tích kể rằng: “Tương truyền, Quan lớn Tuần Tranh là viên quan phủ Ninh Giang. Ngày xưa, tại bến sông Tranh, có hai con rắn dữ thường nổi lên quấy phá. Một hôm, chúng bắt đi nàng hầu xin đẹp của quan. Vị quan này khởi kiện Diêm Vương. Rắn bị xử thua phải mang cả dòng họ dời đi nơi khác.
Từ đó bến sông sóng yên nước lặng, nhân dân nhớ ơn vị quan phủ mà lập đền thờ, tôn là vị thần bảo vệ khúc sông "Rằng Người là vợ chồng một nông dân nghèo và vợ chồng viên Tri phủ. Thần là thuồng luồng, Bạch Long Hầu( thần mưa), Long cung” truyện đối tụng ở Long cung” còn một chi tiết sau khi thuồng luồng ra hầu tòa và bị đày lên phương bắc thì ngôi đền bên bờ sông tường siêu, vách đổ, bia gãy rêu trùm.
3. Đền thờ Quan Lớn Tuần Tranh ở đâu?
Các đền thờ ngài bao gồm các đền sau:
- Đền Tuần Tranh, Hải Dương
- Đền Kỳ Cùng Lạng Sơn
Quan Lớn Tuần Tranh cũng được thờ ở rất nhiều nơi nhưng phải kể đến hai nơi nổi tiếng bậc nhất: đầu tiên là Đền Ninh Giang và thứ hai là đền Kỳ Cùng.
Ninh Giang là đất anh hào
Linh thiêng dũng mãnh ai nào sánh hơn
Đời đời non nước ghi ơn
Quan tuần bảo vệ non sơn nước nhà
Thanh niên cho tới người già
Thành tâm bái yết ông trục tà cho
Đời đời sẽ được ấm no
Quan tuần lẫm liệt ông cho thái hoà
Bóng ông lịch sự nhất toà
Cứu nhân độ thế trung hoà nước non
Đền Ninh Giang lập bên bến sông Tranh ở xã Tranh Xuyên, tổng Bất Bế, huyện Vĩnh Lại thời Lê và Nguyễn nay thuộc thị trấn Ninh Giang, tỉnh Hải Dương (là nơi chính quán quê nhà của ông, nơi ông trấn giữ duyên hải sông Tranh, cũng là nơi ông hiển tích) và đền Kỳ Cùng lập bên bến sông Kỳ Cùng ở xã Vĩnh Trại - Châu Thoát Lãng, nay thuộc TP Lạng Sơn (cầu Kì Lừa là nơi ông bị lưu đày). Đền Tranh còn có tên gọi là đền Quan lớn Tuần Tranh.
Ngày tiệc chính của quan là ngày 25/5 âm lịch (là ngày ông bị lưu đày và bảo nhân dân quê ông làm giỗ vào ngày này), ngoài ra vào ngày 14/2, các đền thờ ông cũng mở tiệc đón ngày đản sinh của quan.
Lễ hội tại đền Tranh
Đền Tranh một năm có ba mùa lễ hội. Hội tháng 2 từ ngày 10-20 / 2 trọng hội vào 14 - ngày sinh của quan lớn Tuần Tranh đây là hội chính hàng năm
Hội tháng 5 từ ngày 20-26 / 5 trọng hội vào 25 - ngày hoá của Đức thánh.Lễ hội đền Tranh có quy mô rộng lớn thu hút khách nhiều tỉnh phía Bắc một trong những hội lớn của Hải Dương có sức hấp dẫn lạ thường đặc biệt với các bà các cô ở các thành phố bởi thế khách thập phương đến đây rất đông
Không chỉ trong những ngày hội (thường kéo dài tới 7 ngày) mà những ngày thường cũng không ít khách đến lễ và không thể thiếu tiết mục hát chầu văn.
Đền Kỳ Cùng Lạng Sơn
Nửa thế kỳ trôi qua, thị trấn đã trải qua những thăng trầm qua hai cuộc chiến tranh, đền Tranh được dựng lại và tôn tạo trên địa phận thôn Tranh Xuyên xã Đồng Tâm. Không những đền được tôn tạo lại rất bề thế uy nghiêm mà còn được mở rộng rất nhiều, bên cạnh còn có chùa Tranh mới được xây dựng thêm. Không chỉ ngày hội mà ngày thường khách đến lễ cũng rất đông.
Đền hiện nay có 11 ban thờ:
- 1- Ban thờ Phật
- 2- Ban thờ Thánh mẫu
- 3- Ban thờ Ngọc hoàng Thượng đế
- 4- Ban thờ Ngũ vị tôn ông
- 5- Ban thờ Tứ phủ chầu bà (Thiên phủ, Địa phủ, Thuỷ phủ, Nhạc phủ)
- 6- Ban thờ Quan lớn Tuần Tranh
- 7- Ban thờ Sơn trang.
- 8- Ban thờ Động chúa sơn lâm
- 9- Ban thờ Thành hoàng: Quý Minh và Vũ Đô Mạnh
- 10- Ban thờ Mẫu địa
- 11- Ban thờ Đức thánh Trần
Phần hội ở đây rất giản dị, đặc biệt phần lễ thì vô cùng phong phú và hấp dẫn. Những lời khấn ở đây hầu hết được viết thành thơ và được thể hiện bằng điệu chầu văn rất mượt mà, sôi nổi.Có thể nói, lễ hội đền Tranh là lễ hội hát chầu văn.
Văn QUAN ĐỆ NGŨ TUẦN TRANH
Trong khi thỉnh ông về, văn thường hát:
“Uy gia lẫm liệt tung hoành
Trừ tà sát quỷ nên danh tướng tài
Ninh Giang chính quán quê nhà
Dấu thiêng ghi để ngã ba Kì Cùng”
Hay nói về nỗi oan của ông, văn hát sử oán rằng:
“Nào ngờ đâu đất trời thay đổi
Người anh hùng mang tội xiềng gông
Tháng năm đày chốn Kì Cùng
Oan vì tuyết nguyệt đổi lòng ái ân
Trước cung điện triều đình tra xét
Bắt long hầu truyền hết mọi nơi
Oan vì bướm lả ong lơi
Triết hoa đoạt vũ tội trời không dung
Lệnh viễn xứ sơn cùng thuỷ kiệt
Nỗi oan này có thấu cao minh
Áo bào đã nhuộm chàm xanh
Tấm thân bách chiến tử sinh lẽ thường”
Hoặc có cả những đoạn ca ngợi công lao tài đức của ông:
“Loa đồng hỏi nước sông Tranh
Đao thiêng dẹp giặc, anh hùng là ai
Sông Tranh đáp tiếng trả lời
Anh hùng lừng lẫy là người Ninh Giang”
Còn khi quan ngự đồng, khai quang chứng sớ điệp, ra oai giúp dân trừ tà thì văn hát rằng:
“Ông về truyền phán các quan
Tả cơ hữu đội lưỡng ban đáo đàn
Quân thuỷ quân bộ đôi hàng
Chư binh vạn mã hằng hà kéo ra
Lệnh truyền thiên đội vạn cơ
Quan Tuần bây giờ trắc giáng anh linh
Trước là bảo hộ gia đình
Sau ra thu tróc tà tinh phen này
Ra oai trần thế biết tay
Ngự lên đồng tử cứu rày nhân gian
Cứu đâu thời đấy khỏi oan…”
Như vậy một vị quan trong Tín ngưỡng Tam- Tứ Phủ có rất nhiều lớp thần tích và điển tích khác nhau có thể là thật cũng có thể là huyễn hoặc nhưng tất cả đều nhuốm màu huyền bí.Điều này càng làm cho Tín Ngưỡng Tam -Tứ Phủ trở nên linh thiêng & gần gũi dần trở thanh một nét văn hoá sống động của dân tộc Việt Nam góp phần củng cố bảo tồn và truyền bá Nội Đạo ra ngoài lãnh thổ.
Chúc các bạn vui thân tâm an lạc.
Sự Thật Về Quan Lớn Tuần Tranh
CAO LỖ – VƯƠNG QUAN ĐỀ NGŨ TUẦN TRANH- SỰ THẬT LỊCH SỬ VỀ VỊ ANH HÙNG ĐẦU TIÊN CỦA VIỆT NAM CHỐNG NGOẠI XÂM
rong tín ngưỡng thờ hệ thống các vị Thánh trong Đạo Thánh Mẫu Việt, hiện vẫn có lễ hội tôn thờ Đức Thánh Quan đệ ngũ Tuần Tranh. Họ tên của Vị thánh này dần được sáng tỏ nhiều năm qua một số giá hầu đồng riêng biệt, khác nhau cả về địa điểm cũng như địa phương. Đã có những phương pháp đối chiếu đủ để chứng minh rằng không có sự liên hệ giữa các Thanh Đồng khi được Thánh giáng cho biết tên của Ngài là Cao Lỗ – Đây là một nhân vật lịch sử đã được ghi trong Đại Việt Sử ký toàn thư, Ngoại kỷ quyển I – Kỷ Nhà Thục như sau:” Vua ( An Dương Vương) sai bề tôi là Cao Lỗ (Có bản chép là Cao Thông) làm nỏ thần, lấy móng rùa làm lẫy nỏ, đặt tên là Linh quang kim trảo thần nỏ”.
Theo các chứng cứ này, đối chiếu thư tịch thì Cao Lỗ (Chưa rõ họ và năm sinh – mất 179 trước Công nguyên, có một số thư tịch cổ lại ghi tên ông là Cao Nỗ, Cao Thông, Đô Lỗ, Thạch Thần, hay Đại Thần Đô Lỗ Thạch Thần) là một Đại thần – Danh Tướng của Thục Phán An Dương Vương. Ông sinh ra tại xã Cao Đức, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh ngày nay (thời Hùng Vương là bộ Vũ Ninh, đời Tần thuộc Tượng quận, đời Hán thuộc quận Giao Chỉ là đất của hai huyện Long Biên và Luy Lâu. Qua nhiều triều đại đổi tên khác nhau. Xem bản đồ Hồng Đức năm thứ 21 ghi là xứ Kinh Bắc, sau đổi là Trấn.Năm Minh Mệnh thứ 3 đổi làm trấn Bắc Ninh. Minh mệnh năm thứ 13 gọi là Tỉnh Bắc Ninh).
Ông là người chế ra nỏ liên châu (bắn được nhiều mũi tên một phát) mà còn được gọi là nỏ thần. Ông là người khuyên Thục An Dương Vương dời đô xuống đồng bằng, tìm đất đóng đô tại nơi xưa là đất kinh đô nhà nước Việt Thường, và Cao Lỗ là người được An Dương Vương giao cho xây thành Cổ Loa. Xưa xã Cổ Loa thuộc huyện Đông Ngàn, tỉnh Bắc Ninh, sử viết thành Cổ Loa rộng ngàn trượng (1 trượng = 1,65 m, như vậy chiều rộng khoảng 1,650.mét) quanh co như hình trôn ốc nên gọi là Loa Thành, lại có tên là Tử Long Thành. Người Trung quốc gọi là Côn Lôn thành vì thành rất cao – Đại Nam nhất thống chí, sách đã dẫn.
Cũng theo một số truyền thuyết và một số bài hát văn chầu lễ Thánh Quan Lớn Tuần Tranh thì ông sinh ra tại Ninh Xá, Ninh Giang, tỉnh Hải Dương ngày nay.
Vào thời Hùng Vương thứ 18, Cao Lỗ là một vị Đại Tướng kỳ tài của nước Văn Lang độc lập, ông được giao hợp nhất quân với Tây Âu Lạc của Thục Phán để Cao Lỗ thống lĩnh chống 50 vạn quân Nhà Tần do Đồ Thư cầm đầu tiến quân vượt sông Dương Tử về phía nam xâm lược Bách Việt. Sau khi đã chiếm hết vùng Ngô Việt, Mân Việt, . . . Quân Tần tiến vào vùng đất của người Lạc Việt. Người Lạc Việt rút vào giữ nơi hiểm yếu cầm cự với quân Tần. Lâu ngày, quân Tần hết lương, người Việt ra đánh giết mấy chục vạn quân Tần cùng Đồ Thư. Nhà Tần phải rút chạy về nước ( Hoài nam Tử, Sử ký, sách đã dẫn).
Đây là cuộc kháng chiến chống ngoại xâm lần thứ nhất của người Việt được sách sử và thư tịch, truyền thuyết, tín ngưỡng dân gian cả Việt nam và Trung quốc đều có ghi chép.
Sau khi Thục Phán hợp nhất Văn Lang và Tây Âu Lạc thành nước Âu Lạc về đóng đô ở Cổ Loa theo ý kiến của Cao Lỗ. Ông được An Dương Vương trọng dụng giao cho việc xây đắp thành Cổ Loa, tổ chức và luyện tập quân đội trở nên hùng mạnh. Ông cũng là người phát minh ra nỏ liên châu, loại vũ khí đánh xa rất có uy lực thời cổ. Ông đã thống lĩnh quân đội Âu Lạc nhiều lần đánh thắng quân xâm lược của Triệu Đà lúc đó là Nam Việt Vương từ vùng Lưỡng Quảng tấn công xâm lược lãnh thổ Lạc Việt. Quân Việt Âu Lạc được ông rèn luyện, có vũ khí đánh xa là hàng nghìn nỏ liên châu có thể bắn ra cùng lúc hàng vạn mũi tên đồng đã đánh bại quân Triệu Đà.
Vì có công lớn nên ông được giao chức vụ đứng đầu trong Triều đình. Ông đem lòng yêu công chúa Mị Châu – con gái An Dương Vương Thục Phán, nhưng Mị Châu lại phải lòng Trọng Thủy là con Triệu Đà được nhiều lần đi sứ cầu hòa đến An Dương Vương. Thấy quân lực Âu Lạc hùng mạnh, biết không thể đánh bại bằng quân sự, Triệu Đà dùng mưu đưa con Trọng Thủy lấy công chúa Mị Nương để tìm bí mật về tổ chức quân sự và quy cách vũ khí nỏ liên châu. Cao Lỗ can ngăn An Dương Vương không cho Mị Châu lấy Trọng Thủy, vì thế An Dương Vương bắt đầu nghi ngờ Cao Lỗ, nên vẫn cho đồng ý kết thông gia với Triệu Đà mà tin rằng sự hòa hiếu để tránh được chiến tranh xâm lược của Nam Việt ( Sách đầu tiên ghi việc Trọng Thủy lừa Mị châu là sách Giao châu ngoại vực ký do Thủy Kinh chú đã dẫn quyển 14). Sau đó Trọng Thủy trở về Nam Việt trình lên vua Nam Việt Vương Triệu Đà tất cả bí mật về quốc phòng của Âu Lạc.
Quân Triệu Đà tấn công, nhưng không giành ngay được thắng lợi tuyệt đối. Nỏ liên châu cũng không còn phát huy tác dụng như trước vì quân Triệu Đà đã có cách chống lại. An Dương Vương cho rằng Cao Lỗ đã để lộ bí mật quân sự, lại thêm một số quyền thần vốn ghen ghét sàm tấu thêm khép ông vào tội chém. Nhưng vì ông có công lớn, trong án có những sự không sáng tỏ bởi vậy nên Triều đình chỉ bãi hết chức đầy Cao Lỗ lên vùng biên ải (nay là tỉnh Lạng Sơn).
Do bị oan ức không thể giãi bầy được, lại thêm tính cương trực không chịu khuất, khi đến nơi đi đầy, quân áp giải vừa mở gông cùm, Cao Lỗ đã thề lấy cái chết để rõ mình vô tội và nhẩy xuống sông Kỳ Cùng tự vẫn. Sau khi ông chết ngày 25/5 năm Nhâm Thân ( năm 179 Tr.CN), triều đình chia rẽ, quân đội Âu Lạc không có Cao Lỗ thống lĩnh đã thất bại hoàn toàn trước sức tấn công của quân Nam Việt của Triệu Đà vào năm Giáp Tý (năm 177 Tr.CN). An Dương Vương thua chạy đem theo con gái Mị Châu. Trên đường trốn chạy, theo ước hẹn, Mị Châu đã rắc lông ngỗng để báo cho Trọng Thủy tìm theo, vì vậy An Dương Vương không thể thoát, trước khi chết, An Dương Vương đã chém Mị Châu. Đây chính là truyền thuyết Mị Châu -Trọng Thủy nổi tiếng trong văn học dân gian Việt Nam còn lưu truyền đến ngày nay. Nước Âu Lạc bị diệt, rồi bị chiếm nhập vào Nam Việt của Triệu Đà mở đầu cho thời kỳ Bắc thuộc lần thứ nhất trong lịch sử Việt Nam.
Sau khi ông chết, dân Việt nhớ ghi công đức lập đền thờ ông tại nơi ông tuẫn tiết ở bên sông Kỳ Cùng và tại nơi ông hiển linh là bến Tranh xã Ninh Giang, huyện Vĩnh Lại (nay là Ninh Giang, tỉnh Hải Dương bây giờ). Nơi đây còn được coi là quê nhà của Quan Lớn Tuần Tranh vì cho rằng ông là quan văn ( Thái thú) ở Hồng Châu, có vợ là Dương thị, mà cơ sở là lấy từ truyện “ Chuyện đối tụng ở Long Cung” trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ viết vào thời nhà Mạc.
Hải Dương xưa vào thời Hùng Vương là bộ Thanh Tuyền, đời Tần Hán thuộc Giao Chỉ. Đến đời nhà Trần đổi là Lộ Hải Đông vì đất ấy có chỗ là biển. Năm Quang Thuận thứ 7 đặt Nam Sách thừa tuyên gồm 4 phủ là Thượng Hồng, Hạ hồng, Nam sách và Kinh Môn có tất cả 18 huyện. Phủ Hạ Hồng có 4 huyện là Trường Tân, Tứ kỳ, Vĩnh Lại, Thanh Miện – Theo Đại Nam nhất thống chí, sách đã dẫn.
Đại Nam nhất thống chí ghi về tỉnh Bắc Ninh có Đền Cao Công:” Ở bờ sông xã Đại Than, huyện Gia Bình, bên cạnh đền có tảng đá lớn dựng đứng. Ngoại kỷ Sử ký ghi đời Đường, Cao Biền đi đánh phương Nam qua châu Vũ Ninh, đêm mộng thấy thần về xưng là Cao Lỗ nói ngày trước ta giúp An Dương Vương chế nỏ thần gọi là Linh quang kim trảo thần nỗ, có công đánh lui giặc, rồi bị Lạc Hầu gièm pha, sau khi mất, Thượng Đế thương là người trung nghĩa cho cai quản ở đây. Cao Biền tỉnh dậy đêm việc ấy nói với thuộc hạ rồi đề thơ ở miếu. Sách Tục bác vật chí viết An Dương Vương có thần nhân là Cao Thông chế nỏ mỗi lần bắn giết được 200 người”.
Đền Tranh hay đền Quan Lớn Tuần Tranh thuộc xã Tranh Xuyên, tổng Bất Bế. Thời Lê và thời Nguyễn gọi là huyện Vĩnh Lại (thị xã Ninh Giang hiện nay). Hơn hai nghìn năm qua, hàng năm có lễ hội rất lớn ngày sinh của ông là ngày 14/2 Âm lịch, và ngày giỗ kỵ 25/5 Âm lịch. Ông hiển Thánh là một Vị quan lớn là Đức Thánh Vương quan đệ Ngũ của Đạo Thánh Mẫu Việt. Các giá hầu đồng về ông đều mặc áo bào mầu tím và cầm thanh đại đao như khi ông còn sinh thời đánh giặc ngoại xâm.
Văn lễ Đức Thánh Quan Lớn đệ ngũ Tuần Tranh có rất nhiều bản khác nhau, sau đây là một trong những bản văn chầu Ngài đã góp phần ghi công tích trong lịch sử chống ngoại xâm của Dân tộc Việt Nam:
Ra uy lẫm liệt tung hoành,
Trừ tà sát quỷ nên danh tướng tài,
Chỉ huy quân Việt diệt loài ngoại xâm,
Ninh Giang chính quán quê nhà.
Ông là Đại tướng danh là Tuần Tranh
Nào ngờ thời vận đổi thay
Án oan quy tội cho người trung lương
Không sao gỡ tội phải ra tội tù.
Sơn cùng thủy tận ngã ba Kỳ cùng.
Anh hùng mang nặng xiềng gông,
Áo chiến bào giờ đã nhuốm mầu chàm xanh
Lòng trung lương nào ai hay biết,
Có trời xanh mới tỏ tâm can
Trẫm mình đáy nước minh oan
Sông Kỳ Cùng rửa hết nhục oan cho người
Ninh Giang chính quán quê nhà,
Danh lam Thánh tích một tòa ngôi cao.
Cảnh Thiên thai Quan Tuần ngự giá
Trừ tà sát quỷ nổi danh tướng tài.
Nước Âu Việt vào đời Thục phán,
Giặc Triệu Đà có ý xâm lăng
Triều đình ra lệnh tiến binh
Thuyền về một bến sông Tranh rợp trời.
Anh hùng mở mặt giang sang
Sông Tranh ơi hỡi bến sông Tranh,
Non nước còn ghi trận tung hoành,
Lẫm liệt oai hùng gương tráng sĩ,
Ngàn thu ghi nhớ dấu oai linh,
Nhớ người tráng sỹ tài danh tuyệt vời.
Hơn 2,180. năm sau khi vị Anh hùng chống ngoại xâm của Dân tộc Việt Nam Cao Lỗ chết oan, danh tính chính thức tên ông mới được xác nhận qua nhiều Thánh Lễ hầu đồng của Đạo Thánh Mẫu Việt. Tên của Ngài – Cao Lỗ đã hy sinh vì Nước rồi hiển linh là một trong 72 Vị Thánh trong Đạo Thánh Mẫu Việt đã làm vinh danh cho tinh thần quật khởi chống ngoại xâm dân tộc và tiêu biểu cho nền Văn minh rực rỡ của Dân tộc Lạc Việt. Sự xác nhận chính danh của Quan Lớn Tuần Tranh là Cao Lỗ đã làm vinh quang rạng rỡ cho Vị Anh Hùng cứu nước đầu tiên của Dân tộc Việt Nam. Kết quả nghiên cứu thực nghiệm này là cơ sở để xác nhận chính xác nguồn gốc, họ tên, thánh tích của Vị Anh Hùng Dân tộcViệt đã hiển Thánh trong Đạo Thánh Mẫu Việt, đồng thời cũng là thực hiện tâm nguyện của các bậc Tiên Liệt là không có ai là người anh hùng vô danh.
Đền thờ Vương Quan đệ ngũ Tuần Tranh
Đền Tranh, còn gọi là đền Quan Lớn Tuần Tranh, là một ngôi đền cổ Việt Nam, thờ vị thần sông nước cai quản khúc sông ở gần bến đò Tranh, thuộc xã Đồng Tâm, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương.
Thời Trần, tại vùng ngã ba sông Tranh giao với sông Luộc, người dân đã lập ra một ngôi đền thờ vị thủy thần cai quản khúc sông này. Ngôi đền này ban đầu chỉ là ngôi miếu nhỏ nằm sát bến sông, vì vậy thường bị tác động của thủy triều và dòng nước xoáy. Do bờ sông thường bị xói lở nên đến năm 1935, người dân lập một đền thờ mới tại làng Tranh Xuyên (nay thuộc thị trấn Ninh Giang). Ngôi đền mới này vẫn được dân chúng giữ tên cổ gọi là Đền Tranh.
Đến giữa thập kỷ 40 của thế kỷ XX, đền Tranh được tôn tạo với quy mô khá lớn, kiến trúc theo kiểu Trùng thiềm điệp ốc với những cung và gian thờ khác nhau. Năm 1946, thực hiện tiêu thổ kháng chiến, nhiều hạng mục ngôi đền bị tháo gỡ.
Đến những năm 60 của thế kỷ XX, đền được chuyển về phía bắc của thị trấn Ninh Giang cách đền cũ khoảng 300m, nay thuộc địa phận thôn Tranh Xuyên, xã Đồng Tâm, huyện Ninh Giang. Đền Tranh qua ba lần chuyển dời cùng nhiều lần trùng tu tôn tạo, đã chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử và tích hợp được nét đẹp của văn hóa Việt. Căn cứ vào hệ thống bia ký tại đền cho biết, vào năm Tự Đức thứ 5 (1852) đền đã có nhiều người công đức để tu tạo.
Khi thực dân Pháp chiếm tỉnh Hải Dương và Ninh Giang, xây đồn bốt gần khu vực đền nên nhân dân chuyển đền về phía Bắc đền cũ ( hiện nay là doanh trại Lữ đoàn 513 Quân khu 3). Từ năm 1941 đến 1945, đền Tranh được tôn tạo rộng lớn, kiến trúc theo kiểu “trùng thiềm điệp ốc”, 5 nếp nhà nối liền nhau.
Năm 1946, thực hiện chủ trương “tiêu thổ kháng chiến” các nếp nhà của đền lần lượt được tháo dỡ, chỉ để lại cung cấm làm nơi thờ tự.
Năm 1954, đền Tranh được phục dựng lại để đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng của nhân dân.
Năm 1966, do nhu cầu mở rộng doanh trại của quân đội, nên nhân dân địa phương cùng Lữ đoàn 513 chuyển 3 gian hậu cung về dựng tại địa điểm mới, cách đền cũ 300m về phía Bắc như vị trí hiện nay.
Năm 1996, được phép của UBND tỉnh Hải Hưng, đền được xây dựng 7 gian tiền tế; Ngày 3 tháng 6 năm 1999, khởi công xây dựng nhà trung từ; năm 2004 hoàn thành việc xây dựng nghi môn và tòa hậu cung, năm 2006 xây dựng đông vu và nhà hóa sớ. Công trình hiện nay khá hoành tráng với kinh phí xây dựng do nhân dân công đức. Đền Tranh là nơi tập trung và phong phú nhất về tín ngưỡng dân gian mà điển hình là nhân vật huyền thoại Quan Lớn Tuần Tranh.
Một công trình làm nổi bật diện mạo thị trấn Ninh Giang trước năm 1947 đó là ngôi đền uy nghi nằm ở phía Tây Bắc, nay nằm ở khuôn viên đơn vị công trình. Đền Tranh thờ thần và đặt trong khám và đây đó trên xà trên khung cửa được gắn những rắn thần bằng vải nhồi bong màu sặc sỡ, ban đêm được ánh điện soi sang lấp lánh cửa đồ thờ, hương án làm tăng thêm vẻ uy nghi vốn có của nơi thờ tự.
Trong dân gian truyền tụng là” đền thiêng lắm, linh ứng lắm, cầu gì được lấy”nên hàng năm kỳ mở hội, khách thập phương từ Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định vv… về trẩy hội khá đông. Lễ hội được mở từ ngày 14/2 âm lịch. Ngày rước thần có những ông đồng, bà đồng “xiên lình” thủng qua hai má của con người khi được Thánh linh ứng, sau khi rút thanh thép xiên qua mặt ra lại liền như cũ không có sẹo, không chẩy máu.
Những sai lầm nghiêm trọng về sự thật lịch sử Quan Lớn Tuần Tranh
Câu chuyện truyền thuyết chi tiết về: “ Truyện ông Dài, ông Cụt” – Sự sai lầm này xuất phát từ việc lấy truyện của Nguyễn Dữ ( thời nhà Mạc) gán ghép vào lịch sử sự nghiệp Quan Lớn Tuần Tranh, chúng ta tham khảo dưới đây:
Đền Tranh còn có tên gọi là đền Quan lớn Tuần Tranh. Có tích kể rằng: “Tương truyền, Quan lớn Tuần Tranh là viên quan phủ Ninh Giang. Ngày xưa, tại bến sông Tranh, có hai con rắn dữ thường nổi lên quấy phá. Một hôm, chúng bắt đi nàng hầu xinh đẹp của quan. Vị quan này khởi kiện Diêm Vương. Rắn bị xử thua phải mang cả dòng họ dời đi nơi khác. Từ đó bến sông sóng yên nước lặng, nhân dân nhớ ơn vị quan phủ mà lập đền thờ, tôn là vị thần bảo vệ khúc sông”
Rằng Người là vợ chồng một nông dân nghèo và vợ chồng viên Tri phủ. Thần là thuồng luồng, Bạch Long Hầu( thần mưa), Long cung” truyện đối tụng ở Long cung” còn một chi tiết sau khi thuồng luồng ra hầu tòa và bị đày lên phương bắc thì ngôi đền bên bờ sông tường siêu, vách đổ, bia gãy rêu trùm.
Ngày xưa, có hai vợ chồng già làm ruộng một hôm đi ra ngoài đồng, thấy hai quả trứng lạ, nhặt đem về nhà. Được ít lâu, hai quả trứng nở ra hai con rắn rất khôn, hai vợ chồng đi đâu chúng nó thường bò theo. Hai người không con nên cứ nuôi chúng nó, xem như là con, thường ngày cho ăn uống tử tế. Một hôm, người chồng cuốc vườn, vô ý cuốc đứt một khúc đuổi của một con. Sau đó, vợ chồng mới gọi hai con rắn đặt tên cho là con Dài, con Cụt. Hai con rắn lớn lên, ăn rất tợn, nhà nghèo không đủ nuôi, chúng nó thường đi bắt gà, chó của hàng xóm mà ăn. Hai vợ chồng không nuôi nổi, mới đem thả xuống sông Tranh, bây giờ thuộc Hải Dương.
Hai anh em rắn Dài và Cụt được Thủy Vương nhận làm bộ hạ và cho cai quản cả một vùng sông rộng. Rắn Cụt tính khí dữ tợn hơn rắn Dài, hoành hành khắp vùng, làm cho dân chúng phải kiêng sợ gọi tên là ông Dài và ông Cụt. Có khi chúng bắt cả người, còn cướp súc vật là chuyện thường xảy ra. Ghe thuyền qua lại trên khúc sông, thường bị ông Cụt nổi sóng dữ tợn làm cho đắm. Cha mẹ nuôi ông Dài, ông Cụt thỉnh thoảng lại phải ra bờ sông van lơn xin con nuôi đừng làm hại người ta. Chúng cũng nghe theo được ít lâu, rồi lại đâu vẫn hoàn đấy. Có lần hai vợ chồng họ Trịnh đi thuyền qua đó, ông Cụt thấy người vợ là Dương Thị nhan sắc xinh đẹp, muốn bắt về làm vợ, cho hai người con gái bưng lễ vật đến hỏi. Hai vợ chồng hoảng sợ bỏ thuyền lên bờ trốn tránh. Nhưng rồi ông Cụt cho bộ hạ theo dõi, thừa một đêm mưa gió, bắt Dương Thị đem về dưới Thủy Phủ. Sáng ngày, người chồng theo dấu ra đến bờ sông chỉ còn thấy quần áo của vợ trút bỏ lại đó.
Người chồng không biết làm thế nào, đành nuốt hận đi đây, đi đó tìm người phép tắc thần thông để trừ ông Cụt. Một hôm, họ Trịnh gặp một ông già ngồi bói ở chợ, lân la hỏi mới biết là Bạch Long Hầu tức là Thần Mưa ở dưới Thủy Cung. Bạch Long Thần rẽ nước mời họ Trịnh về nhà mình ở dưới biển, giúp bàn việc kiện ông Cụt với Long Vương. Họ Trịnh đưa cái thoa của vợ nhờ người nhà Bạch Long hầu làm của tin để dò tìm Dương Thị ở dưới Thủy Phủ. Khi đã bắt liên lạc được với Dương Thị rồi, họ Trịnh bèn cậy Bạch Long Hầu đưa đến triều đình Long Vương để tố cáo tình địch đã cướp vợ mình. Long Vương cho đòi ông Cụt tới. Ban đầu ông Cụt còn chối cãi, toan làm dữ với họ Trịnh, nhưng đến khi Dương Thị ra kể lại sự tình bị ông Cụt bắt cóc, ép duyên, thì họ Trịnh liền được kiện. Long Vương xử cho Dương Thị trở về mặt đất với họ Trịnh, con của nàng sinh với ông Cụt thì giao lại cho ông Cụt. Ông Cụt bị đày đến ở sông Kỳ Cùng, thuộc về Lạng Sơn ngày nay. Ngày ông Cụt bị giáng chức đi đày, các loài thủy tộc đi theo tiễn chân đầy cả một khúc sông.
Đền Tranh một năm có ba mùa lễ hội. Hội tháng 2, từ ngày 10/2 đến ngày 20 / 2 âm lịch, trọng hội vào 14/2 âm lịch là ngày sinh của Quan lớn Tuần Tranh, đây là hội chính hàng năm. Hội tháng 5, từ ngày 20/5 âm lịch đến 25 / 5, trọng hội vào 25 là ngày hoá của Đức Thánh. Lễ hội đền Tranh có quy mô rộng lớn có nhiều khách ở các tỉnh phía Bắc và cả ở miền Nam ra dự Lễ, là Lễ hội lớn của Hải Dương, có sức hấp dẫn lạ thường, bởi thế khách thập phương đến đây rất đông. Không chỉ trong những ngày hội kéo dài tới 7 ngày. Những ngày thường cũng đông khách thập phương đến lễ và hát chầu văn.
Đền Tranh được dựng lại và tôn tạo trên địa phận thôn Tranh Xuyên xã Đồng Tâm. Không những đền được tôn tạo lại rất bề thế uy nghiêm mà còn được mở rộng rất nhiều, bên cạnh còn có chùa Tranh mới được xây dựng thêm. Không chỉ ngày hội mà ngày thường khách đến lễ cũng rất đông.
Đền hiện nay có 11 ban thờ:
3- Ban thờ Ngọc hoàng Thượng đế
4- Ban thờ Ngũ vị tôn ông
5- Ban thờ Tứ phủ chầu bà ( Thiên phủ, Địa phủ, Thuỷ phủ, Nhạc phủ)
6- Ban thờ Quan lớn Tuần Tranh
8- Ban thờ Động chúa sơn lâm
9- Ban thờ Thành hoàng: Quý Minh và Vũ Đô Mạnh
11- Ban thờ Đức thánh Trần
Phần hội ở đây rất giản dị, đặc biệt phần lễ thì vô cùng phong phú và hấp dẫn. Những lời khấn ở đây hầu hết được viết thành thơ và được thể hiện bằng điệu chầu văn rất mượt mà , sôi nổi.Có thể nói, lễ hội đền Tranh là lễ hội hát chầu văn. Dưới đây là một trong những bài chầu văn hiện nay tại đền:
Văn hầu Quan Lớn Tuần Tranh
Chính quán quê nhà Ninh Giang,
Danh lam thắng tích một toà ngôi cao.
Lẫm liệt tung hoành uy gia,
Trừ tà sát quỷ nổi danh tướng tài.
Cảnh Thiên thai Quan Tuần ngự giá,
Bộ tiên nàng thứ tự dâng huê.
Truyền quân dâng nước Thuỷ tề mênh mông.
Cảnh am thanh nhiều bề lịch sự,
Vốn đặt bầy tự cổ vu lai.
Có phen xuất nhập trang đài,
Đào lan quế huệ xum vầy xướng ca.
Nước Văn Lang vào đời Thục Phán,
Giặc Triệu Đà có ý xâm lăng,
Triều đình ra lệnh tiến binh,
Thuyền bè qua bên sông Tranh rợp trời.
Công hộ quốc gia phong thượng đẳng,
Tước phong hầu truy tặng Đại vương,
Bảng vàng thánh thọ vô cương
Hiếu trung tiết nghĩa đôi đường vẹn hai.
Đấng anh hùng cổ kim lừng lẫy,
Khắp xa gần đã dậy thần cơ,
Cửa sông đâu có phụng thờ,
Ninh Giang lại nổi đền thờ Tuần Tranh
Gương anh hùng muôn đời soi tỏ,
Đất Văn Lang thiên cổ anh linh,
Bao phen đắp luỹ xây thành,
Khắc miền duyên hải, sông Tranh nức lòng.
Sông Tranh ơi hỡi bến sông Tranh,
Non nước còn ghi trận tung hoành,
Lẫm liệt oai hùng gương tráng sĩ,
Ngàn thu ghi nhớ dấu oai linh.
Ai về qua bến sông Tranh,
Nhớ người tráng sĩ tài danh tuyệt vời.
Dẫu rằng nước chảy hoa trôi,
Bến sông Tranh dù cạn, ơn người còn ghi.
Loa đồng hỏi nước sông Tranh,
Thanh long đao năm xưa cứu nước, anh hùng là ai?
Sông Tranh đáp tiếng trả lời,
Chỉ có thanh long đao Quan đệ ngũ, chính người trong phủ Ninh Giang
Nhưng nào ngờ đâu khi đất trời thay đổi,
Người anh hùng cổ mang nặng xiềng gông.
Ngày hai nhăm tháng năm, Quan lớn bị bắt giam ở chốn Kỳ Cùng.
Quan oan vì tuyết nguyệt, bởi lòng ái ân.
Trước cung điện, triều đình xét hỏi,
Bắt long hầu chuyển khắp mọi nơi.
Quan lớn Tuần oan vì ong bướm lả lơi,
Chiết hoa, đoạt phụ tội trời không dung.
Bắt đày chốn sơn cùng, thuỷ kiệt,
Nỗi oan này thấu tỏ hỡi cao minh.
Gió lạnh sương sa vì đời bội bạc,
Sự ngay gian đảo lộn trắng đen.
Hỏi cây cỏ sao mưa dầu nắng dãi,
Lỡ hại người trong lúc phong ba.
Cỏ cây ơi có thấu tỏ lòng ta,
Sơn cùng thuỷ kiệt sương sa lạnh lùng.
Đường thiên lý quan san bỡ ngỡ,
Nợ trần hoàn quyết trả cho xong.
Tháng hai vừa tiết trung tuần,
Thử lòng ông lão, mộng trần ứng ngay.
Tỉnh giấc mộng mới hay sự lạ,
Đôi bạch xà tựa cửa hôm mai.
Trí đã quyết khỏi vòng cương toả,
Hay đâu còn mắc nợ oan khiên.
Ngài vừa hay có lệnh ban truyền,
Quan quân tầm nã khắp miền sông Tranh.
Thà thác vinh còn hơn sống nhục,
Cho sông Kỳ Cùng tắm ngọc Côn Sơn.
Trải hơn hai nghìn năm với vô cùng các biến cố đã phần nào che lấp sự thật về Vị Anh hùng đầu tiên chống ngoại xâm trong lịch sử Dân tộc Việt Nam – Cao Lỗ, nhân vật đã được ghi rõ trong sách sử và thư tịch cổ. Nhưng trong một số câu trong các bài văn lễ Quan Lớn Tuần Tranh cũng còn cho thấy phảng phất dấu ấn của một phần nào đó sự thật lịch sử như các đoạn văn sau trích dưới đây:
Những câu như : “Trừ tà sát quỷ nổi danh tướng tài”, cho ta thấy đây không những là một vị Tướng, mà còn là tướng tài. Hình ảnh của Vị Tướng tài này càng rõ hơn với những câu:’ Gương anh hùng muôn đời soi tỏ, Thanh long đao năm xưa cứu nước, anh hùng là ai? Chỉ có thanh long đao Quan đệ ngũ, chính người trong phủ Ninh Giang” chính những câu này làm rõ hơn hình ảnh một vị Võ Tướng, vậy nên sự truyền thuyết về Ngài nguyên xưa là Quan văn – huyện lệnh Ninh Giang, đấu tranh với Thần sông ( Ông Cụt) rất sai lệch, có lẽ đây là sự thêu dệt từ nguyên truyện “ Chuyện đối tụng ở Long cung” của Nguyễn Dữ người làng Đỗ Tùng, huyện Trường Tân nay là làng Đỗ Lâm, huyện Ninh giang, tỉnh Hải Dương. Ông là học trò giỏi của Nguyễn Bỉnh Khiêm, ông có đi thi Hội và ra làm quan dưới thời nhà Mạc ( từ năm 1530 đến năm 1627).Sau vì bất mãn, ông bỏ quan về dậy học. Trong 20 truyện viết dưới hình thức như thần thoại cổ tích, bên trong câu chuyện là sự phản ánh tình trạng xã hội đương thời qua cái nhìn bất mãn của nhà Nho với tư tưởng “Trung quân” cho rằng Nhà Mạc lên làm vua là sự thoán đạt, cướp ngôi nhà Lê, mà không thấy rằng lúc đó nhà Lê đến Lê Chiêu tông và Lê Cung Hoàng, anh em chém giết lẫn nhau, không biết gì đến chính sự, hoang dâm vô độ. Xã hội lúc đó đã suy sụp, thối nát cần phải thay đổi.
Có lẽ trong nội dung truyện” Chuyện đối tụng ở Long cung” có viết:” Huyện Vĩnh Lại ở Hồng Châu khi xưa có nhiều giống thủy tộc. Men sông người ta lập đền thờ đến hơn mười chỗ,… Về đời Minh tông nhà Trần, có quan Thái thú họ Trịnh làm quan ở Hồng Châu,…” Chỉ qua một đoạn ngắn mở đầu cho ta thấy:
1/ Thứ nhất là sự ngộ nhận từ địa danh “ Huyện Vĩnh Lại” trong truyện của Nguyễn Dữ mà gán ghép vào sự tích Quan Tuần Tranh vốn là một vị tướng trở thành quan văn.
2/ Thứ hai là khi đưa vào truyền thuyết dân gian đã không nhận thấy sự sai lệch ngay ở các đền thờ:” có hơn mười chỗ” thì việc thờ thần sông đâu phải là đền Quan Lớn Tuần Tranh.
Cũng cần phải thấy đây là câu chuyện văn học, bởi vậy sự phóng tác cũng như tiểu thuyết hóa câu chuyện là chính, tác giả không quan tâm đến sự thật lịch sử là vào đời nhà Trần (ghi rõ là Trần Minh Tông làm vua nhà Trần từ năm 1314 đến 1329), thì không có chức quan Thái thú.
Chức vị này chỉ có trong thời Bắc thuộc lần thứ nhất dưới sự thống trị của nhà Tây Hán và Đông Hán, đến thời Tam quốc, nước ta thuộc về nhà Đông Ngô (Ngô Cam lộ năm thứ 1 – Ất Dậu 265 sau CN) là còn gọi là Thái Thú (giống như chức Toàn quyền Đông dương thời Pháp thuộc). Năm Mậu Tý (năm 265 sau CN – Ngô Bảo đình năm thứ 3) Nước Ngô lấy Lưu Tuấn làm Thứ sử Giao châu, từ đó về sau thời Tấn, Tống, Tê, Lương,… kết thúc năm Canh Thân ( năm 540 sau CN) cộng lại 314 năm gọi chức quan này là Thứ sử. Sau từ thời Bắc thuộc lần thứ 3 dười các triều Tùy, Đường,… từ năm Quý Hợi ( năm 603 sau CN) đến năm Đinh Mão ( năm 907 sau CN) tổng cộng là 304 năm và 32 năm Nam Bắc phân tranh ở Trung Quốc thì chức quan này gọi là Đô hộ phủ, Tiết độ sứ,…không còn gọi chức quan này là Thái thú. Vậy nên nếu xét về sự thật lịch sử truyện “” Chuyện đối tụng ở Long cung” của Nguyễn Dữ không có giá trị gì về lịch sử, chỉ có thể đánh giá về văn học sáng tác mà thôi.
3/ Thứ ba là trong các câu thơ còn nhắc lại thời Văn Lang và Thục phán An Dương Vương của nhà nước Âu Lạc, đó là những hiện thực lịch sử thời đại của Người anh hùng Cao Lỗ lãnh đạo quân Việt kháng chiến đánh thắng quân 50 vạn quân xâm lược của nhà Tần, rồi sau đó là thời kỳ đầu đánh thắng quân xâm lược Triệu Đà. Sau vì bị án tình oan mà phải chết. Xin trích một số câu thơ dưới đây có sót lại tàn dư của hiện thực lịch sử của Vị anh hùng Cao Lỗ:
“Nước Văn Lang vào đời Thục Phán,
Công hộ quốc gia phong thượng đẳng,
Đất Văn Lang thiên cổ anh linh,
Quan oan vì tuyết nguyệt, bởi lòng ái ân.
Trước cung điện, triều đình xét hỏi,
Quan lớn Tuần oan vì ong bướm lả lơi,
Người anh hùng cổ mang nặng xiềng gông.
Ngày hai nhăm tháng năm Quan lớn bị bắt giam ở chốn Kỳ Cùng”
Lịch sử, nhất là thời cổ đại, thường trở thành truyền thuyết cũng là lẽ thường không chỉ ở Việt Nam mà ở hầu khắp các nước trên thế giới. Đánh giá lại chiến tích, công trạng của Cao Lỗ, năm 2005 Ủy Ban Nhân dân thành phố Hà Nội đã lấy tên Ngài đặt cho một trong những đường phố lớn nhất tại Đông Anh, nơi xưa kia Ngài đã tổ chức xây dựng tòa thành Cổ Loa, tòa thành lớn nhất trong lịch sử dựng nước, giữ nước Việt Nam và cũng tại đây Ngài đã phát minh ra nỏ liên châu nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam và Thế giới. Án tình oan của Ngài truyền kỳ trong dân gian trở thành một thiên tình sử của người Anh Hùng giữ nước mãi mãi còn lưu truyền trong tâm thức người Việt.
Quan Lớn Đệ Ngũ Tuần Tranh
+ Ngày 25/5: Tiệc Quan Lớn Tuần Tranh (Đền Ninh Giang - Đền Kì Cùng)
Tên đầu đủ: Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh.Ngoài ra còn gọi Quan Lớn Tuần,Quan Tuần,Quan Tuần Tranh
Quan Lớn Tuần Tranh là Quan thứ năm trong Ngũ vị Tôn Ông.
Tước phong: Đệ ngũ tôn quan thượng đẳng tối linh thần – Cao Lỗ đại vương – Đệ ngũ Tuần Tranh.
Nhiệm vụ: Ngọc Hoàng ban cho Ngài thống lĩnh thiên địa binh thay quyền tam tứ phủ đại diện cho con người (nhân vi chúa tể)
Thu chấp kim ngân tài mã giải oan nghiệp sớ cho trần gian.
Thân thế: Quan Lớn Đệ Ngũ Tuần Tranh hay còn gọi là Ông Lớn Tuần Tranh.Ông là con trai thứ năm của Vua Cha Bát Hải Động Đình.Ông cũng giáng dưới thời Hùng Định Vương (Hùng Triều Thập Bát) trong một gia đình ở phủ Ninh Giang (Nay là Hải Dương) Ông cũng là vị tướng quân tài ba kiêm lĩnh thuỷ bộ được giao quyền trấn giữ miền duyên hải sông Tranh.Ông đã lập được nhiều công Lao to lớn nên được sắc phong công hầu.Tại quê nhà ông có cảm tình với một người thiếu nữ xinh đẹp người thiếu nữ ấy vốn là vợ lẽ Của quan huyện ở đó nhưng vốn không hạnh phúc với cảnh “chồng chung” nàng cũng đáp lại tình cảm của ông mà không hề nói cho Ông biết là nàng đã có chồng.Vậy nên Quan Lớn Tuần Tranh vẫn đinh ninh đó là một tình cảm đẹp hẹn ngày đưa nàng về làm vợ
Đến khi viên quan huyện kia biết chuyện vu oan cho ông đã quyến rũ vợ mình.Quan Tuần Tranh bỗng nhiên mắc hàm oan bị đem đày Lên chốn Kì Cùng Lạng Sơn.Tại đây ông đã tự sát mong rửa oan chứng tỏ mình vô tội ông hoá xuống dòng sông Kì Cùng.Về lại nơi Quê nhà ông hiện thành đôi bạch xà thử lòng ông bà nông lão sau đó được ông bà nông dân nuôi nấng như thể con mình.Nhưng khi Quan phủ biết chuyện ông bà nông lão tậu gà để nuôi đôi bạch xà liền bắt ông bà phải lên cửa công chịu tội và giết chết đôi rắn kia đi Hai ông bà thương xót xin thả rắn xuống dòng sông Tranh lạ thay khi vừa thả đôi bạch xà xuống thì chỗ đó tạo thành dòng xoáy dữ Dội.Đến thời Thục Phán An Dương Vương vua tập hợp thuyền bè để chống Triệu Đà ở ngay bến sông Tranh nhưng tại chỗ dòng xoáy Đó thuyền bè không tài nào qua được mà lại có cơn giông tố nổi lên giữa dòng.Vua bèn mời các vị lão làng đến lập đàn cầu đảo thì Lập tức sóng yên bể lặng hơn nữa quân sĩ ra trận cũng được thắng to.Ghi nhớ công đức vua Thục giải oan cho ông và phong là Giảo Long Hầu.Sau này ông còn hiển thánh linh ứng có phép nhà trời cai quản âm binh ra oai giúp dân sát quỷ trừ tà dẹp hết những kẻ hại Nước hại dân.
Trong hàng Ngũ Vị Tôn Ông cùng với Quan Lớn Đệ Tam Quan Lớn Đệ Ngũ cũng là một vị quan lớn danh tiếng hết sức lẫy lừng được Nhân dân xa gần tôn kính phụng thờ.Tuy đứng trong hàng năm của Ngũ Vị Tôn Ông ông được thỉnh cuối cùng nhưng lại hay ngự về Đồng nhất (bất cứ ai hầu Tứ Phủ bất cứ dịp tiệc đàn lễ nào đều phải thỉnh Quan Tuần Tranh về ngự).Khi ngự đồng ông mặc áo lam Thêu rồng hổ phù; làm lễ tấu hương khai quang chứng sớ tán đàn rồi múa thanh long đao.Khi có đại đàn mở phủ hay bất cứ lễ tiệc Nào sau khi thỉnh các quan lớn về đều phải đợi đến khi giá Quan Lớn Đệ Ngũ về chứng một lần hết tất cả các đàn mã sớ trạng rồi mới Được đem đi hoá.
Đền thờ chính thờ Quan Lớn Tuần Tranh
Quan Lớn Tuần Tranh cũng được thờ ở rất nhiều nơi nhưng phải kể đến hai nơi nổi tiếng bậc nhất:
+ Đền Ninh Giang hay Đền Quan Lớn Tuần Tranh lập bên bến sông (bến đò) Tranh ở Ninh Giang Hải Dương.
Đây là nơi chính quán quê nhà của ông nơi ông trấn giữ duyên hải sông Tranh cũng là nơi ông hiển tích.
+ Đền Kì Cùng lập bên bến sông Kì Cùng qua cầu Kì Lừa (là nơi ông bị lưu đày).Ngày tiệc chính của quan là ngày 25/5 âm lịch (là ngày ông bị lưu đày và bảo nhân dân quê ông làm giỗ vào ngày này)ngoài ra vào ngày 14/2 các đền thờ ông cũng mở tiệc đón ngày đản sinh của quan.
Một sự tích khác về Quan Lớn Tuần Tranh
Theo truyền thuyết ngày xưa lưu truyền tại khu vực Đền Ninh Giang ngày nay:Ngày xưa ở làng Lạc Dục huyện Tứ Kỳ có hai vợ chồng nhà nghèo đã già mà chưa có con.Một hôm người chồng cuốc vườn bắt được ở cạnh bụi cây 2 quả trứng ngỡ là trứng chim nên đem đi cất cẩn thận.Ngờ đâu 2 quả trứng nở thành 2 con rắn.Người vợ sợ quá định đem giết đi nhưng người chồng không nghe nói rằng có lẽ trời cho ta khuây khỏa cảnh già đây.Quả nhiên hai con rắn quấn quýt với 2 vợ chồng ông già.Một hôm ông cuốc đất 1 con nhảy vào đùa nghịch bị ông cuốc cụt đuôi (Về sau khi linh ứng dân làng lập miếu thờ gọi là miếu Ông Cộc Ông Dài).Nhưng phải một nỗi 2 con rắn ấy chỉ ăn gà thôi.Ông già đi ăn trộm gà cho chúng ăn nhiều rồi sau sợ hàng xóm biết thì phải tội nên đành phải mang 2 con rắn vứt xuống sông Tranh.Chỗ vứt 2 con rắn ấy về sau sóng xoáy dữ lắm.Một hôm có bà công chúa muốn qua sông nhưng nước xoáy dữ thuyền không qua được.Sau theo lời quan dân sở tại đòi 2 vợ chông ông già đến hỏi chuyện.Bà lão sợ quá bèn lấy 2 nắm cơm vứt xuống sông và nói rằng "con ơi con có thương mẹ thì đừng nổi sóng nữa để mẹ khỏi tội".Bà vừa nói xong thì sóng yên lặng.
Về sau có ông quan phủ tên là Trịnh Thường Quân được bổ về Ninh Giang.Ông lấy một người vợ lẽ đẹp lắm.Một hôm bà đi chơi thuyền trên sông Tranh gặp một người dưới nước lên đòi lấy bà làm vợ.Bà nhất định không nghe.Đêm về đang ngủ bỗng lại thấy người đó hiện vào phòng nhất định đòi lấy.Bà đem chuyện này nói với quan Phủ.Quan Phủ cũng lấy làm lạ nên phòng giữ cẩn thận. Một hôm ngài có việc quan đi vắng đến lúc về thì thấy buồng không.Quan Phủ lấy làm phiền lắm bèn từ chức ngày ngày ra bờ sông Tranh tìm vợ.Sau gặp một ông Tiên tên là Quỷ Cốc ở miền Hải Quốc mách rằng bà Phủ đã bị Hoàng tử thứ 5 của Vua Thủy bắt xuống làm vợ rồi.Tiên Quỷ Cốc nghĩ thương tình quan Phủ nên giúp sức cho xuống được điện Vua Thủy mà kêu Tiên cũng kêu hộ.Sau Vua Thủy cho cả hai vợ chồng về rồi bắt Hoàng tử thứ 5 đem đày ra sông Tranh.Từ đó dân ở 2 bên bờ thấy có nhiều điều kỳ dị nên lập đền thờ gọi là đền Tranh.Dân quanh bến hoặc thuyền bè xuôi ngược qua đây nếu gặp sóng gió đều kêu cầu sóng gió sẽ êm.Ai có cầu kiểu gì cũng đều linh ứng.Thỉnh thoảng những đêm trong sáng có người trông thấy một thanh niên mũ áo từ trong đền đi ra.Người ta liền kháo nhau đó là Quan lớn Tuần Tranh.Về sau do có nhiều công giúp dân buôn thuyền bán bè qua sông bình an may mắn nên vị thần được tôn là: Quan "đệ ngũ Tranh Giang Hoàng hợp tôn thần".Đền Tranh có tiếng linh thiêng cầu việc gì được việc ấy nên khách đến lễ ngày càng đông
Trong khi thỉnh ông về,văn thường hát:
“Uy gia lẫm liệt tung hoành
Trừ tà sát quỷ nên danh tướng tài
Ninh Giang chính quán quê nhà
Dấu thiêng ghi để ngã ba Kì Cùng”
- Hay nói về nỗi oan của ông, văn hát sử oán rằng:
“Nào ngờ đâu đất trời thay đổi
Người anh hùng mang tội xiềng gông
Tháng năm đày chốn Kì Cùng
Oan vì tuyết nguyệt đổi lòng ái ân
Trước cung điện triều đình tra xét
Bắt long hầu truyền hết mọi nơi
Triết hoa đoạt vũ tội trời không dung
Lệnh viễn xứ sơn cùng thuỷ kiệt
Nỗi oan này có thấu cao minh
Áo bào đã nhuộm chàm xanh
Tấm thân bách chiến tử sinh lẽ thường”
- Hoặc có cả những đoạn ca ngợi công lao, tài đức của ông:
“Loa đồng hỏi nước sông Tranh
Đao thiêng dẹp giặc anh hùng là ai
Sông Tranh đáp tiếng trả lời
Anh hùng lừng lẫy là người Ninh Giang”
- Còn khi quan ngự đồng, khai quang chứng sớ điệp, ra oai giúp dân trừ tà thì văn hát rằng:
“Ông về truyền phán các quan
Tả cơ hữu đội lưỡng ban đáo đàn
Quân thuỷ quân bộ đôi hàng
Chư binh vạn mã hằng hà kéo ra
Lệnh truyền thiên đội vạn cơ
Quan Tuần bây giờ trắc giáng anh linh
Sau ra thu tróc tà tinh phen này
Ngự lên đồng tử cứu rày nhân gian
Cứu đâu thời đấy khỏi oan…”
Đệ tử con khấu đầu cung thủ
Tiến văn chầu quan đệ ngũ tuần tranh
Ninh Giang chính quán quê nhà ,
Danh lam thắng tích một toà ngôi cao.
Uy ra lẫm liệt tung hoành
Trừ tà sát quỷ nổi danh tướng tài.
Cảnh Thiên thai Quan Tuần ngự giá,
Các tiên nàng thứ tự dâng huê.
Truyền quân dâng nước Thuỷ tề chan chan .
Cảnh am thanh nhiều bề lịch sự
Vốn đặt bầy tự cổ vu lai.
Có phen xuất nhập trang đài,
Đào lan quế huệ xum vầy xướng ca.
Nước Văn Lang vào đời Thục trị,
Giặc Triệu Đà cố ý xâm lăng,
Triều đình ra lệnh tiến binh,
Thuyền bè qua bến sông Tranh rợp trời.
Bỗng nổi trận phong lôi bão táp
Ba quân đều sợ hãi khiếp kinh
Thiết bày hương án lễ trình bên sông.
Mời trưởng lão trong vùng thôn xóm
Khấn vừa xong gió lặng sóng yên
Lệnh truyền dân xã lập đền bên sông.
Gương anh khí sáng ngời muôn thủa
Trí hào hùng rạng rỡ non sông
Vinh quang thay nòi giống tiên rồng
Muôn dân còn ghi nhớ quan tuần tài cao.
Đấng anh hào cổ kim lừng lẫy
Khắp mọi miền đã dậy thần cơ
Nhân dân trung nam bắc phụng thờ
Ninh Giang lại nổi đền thờ Tuần Tranh.
Công hộ quốc gia phong thượng đẳng,
Tước phong hầu truy tặng Đại vương,
Bảng vàng thánh thọ vô cương
Hiếu trung tiết nghĩa đôi đường vẹn hai.
Sông Tranh ơi hỡi sông Tranh,
Non nước còn ghi trận tung hoành,
Lẫm liệt oai hùng đao tráng sĩ,
Ngàn thu ghi nhớ dấu oai linh.
Hỡi Ai về qua bến sông Tranh,
Nhớ người tráng sĩ tài danh tuyệt vời.
Dẫu rằng nước chảy hoa trôi,
Sông Tranh dù cạn, ơn người còn ghi.
Loa đồng hỏi nước sông Tranh,
Long đao cứu nước, anh hùng là ai?
Sông Tranh đáp tiếng trả lời,
Là Quan đệ ngũ, chính người Ninh Giang .
Nào ngờ đâu khi đất trời thay đổi,
Người anh hùng cổ nặng xiềng gông.
Ngày hai mươi lăm tháng năm, Quan lớn bị bắt giam ở chốn Kỳ Cùng.
Quan lớn oan vì tuyết nguyệt, bởi lòng ái ân.
Trước cung điện, triều đình tra xét,
Bắt long hầu chuyển khắp mọi nơi.
Ngài oan vì ong bướm lả lơi,
Chiết hoa, đoạt phụ tội trời không dung.
Lệnh viễn xứ sơn cùng, thuỷ kiệt,
Nỗi oan này thấu tỏ hỡi cao minh.
Hoàng bào đã nhuộm chàm xanh
Tấm thân đành chịu nhục vinh lẽ thường.
Đường thiên lý quan san bỡ ngỡ
Hỏi trăng già có tỏ trăng ơi
Hỏi rằng nguyệt lão trêu người vì đâu.
Hỏi cây cỏ sao mưa dầu nắng dãi,
Vẫn vươn mình há ngại phong ba.
Cỏ cây ơi có thấu tỏ lòng ta,
Sơn cùng thuỷ kiệt sương sa lạnh lùng .
Thà thác vinh còn hơn sống nhục,
Nước sông Kỳ Cùng tắm ngọc Côn Sơn .
Kiệt cùng hiu hắt trăng non
Sông Cùng trong đục nước tuôn đôi dòng
Ngẫm cảnh vật lòng đau như cắt
Nợ trần hoàn quyết dứt cho xong
Lòng riêng đã quyết với lòng
Mượn dây oan nghiệt cho xong tội trời
Rừng hoa cỏ thương người đã khuất
Bỗng đùng đùng gió giật mưa sa
Nỗi oan chuyển động đất trời
Dây oan kia kết lại thành đôi bạch xà .
Đất Ninh Giang tìm nhà hữu phúc
Thử lòng người trong lúc lánh thân
Tháng hai vừa tiết trung tuần
Thử lòng ông lão mộng thần ứng ngay
Tỉnh giấc mộng mới hay sự lạ
Đôi bạch xà tựa cửa hai bên
Từ khi xuất hiện vui thêm cửa nhà
Ba tháng sau đàn gà đã hết
Thương rắn hiền không biết lo sao
Khó khăn âu cũng tính liều
Ông bà nông lão sớm chiều đông tây
Bỗng một buổi tai bay hoạ rủi
Hai ông bà mắc tội cửa công
Lệnh nghiêm sấm sét đùng đùng
Tậu gà nuôi rắn không dung tội này
Lệ nuốt lệ đắng cay xiết kể
Thương rắn thần tựa thể thương con
Khấu đầu tạ trước công môn
Xin đem đôi rắn thả luôn giữa dòng
Cơn phong vũ ầm ầm nổi dậy
Sóng bạc đầu nước xoáy mênh mông
Long xà thoát xuống thuỷ cung
Nước rẽ đôi dòng cuồn cuộn chứa chan
Khắp duyên hải sấm ran từ đấy
Bóng long hầu nổi dậy nơi nơi
Những phường bán nước hại nòi
Gian tà quỷ quyệt tội trời không tha
Dìm đáy nước về toà thuỷ tộc
Tội gia hình bõ lúc sai ngoa
Lẽ thường tội báo oan gia
Hại nhân nhân hại sự đà không sai
Nước Văn Lang vào đời Thục trị,
Giặc Triệu Đà có ý xâm lăng,
Triều đình ra lệnh tiến binh,
Thuyền bè qua bến sông Tranh rợp trời.
Bỗng nổi trận phong lôi bão táp
Ba quân đều sợ hãi khiếp kinh
Thiết bày hương án lễ trình bên sông
Mời trưởng lão trong vùng thôn xóm
Khấn vừa xong gió lặng sóng yên
Lệnh truyền dân xã lập đền bên sông.
Công hộ quốc gia phong thượng đẳng,
Tước Long hầu truy tặng Đại vương,
Bảng vàng thánh thọ vô cương
Hiếu trung tiết nghĩa đôi đường vẹn hai.
Trên bát ngát long chầu hổ phục
Dưới tam đầu cửu vĩ chầu lên
Lân rờn phượng múa đôi bên
Quan tuần trắc giáng ngự lên sập rồng.
Sắc vua phong kiêm chi tam giới
Hay tróc tà sát quỉ trừ tinh
Quan tuần vạn phép muôn linh
Quyền ngài cai quản âm binh nhà trời.
Ngự đồng ai mình quyền bóng quý
Nương uy trời thụy khí đoan trang
Quan tuần hiển hách uy vang
Ra tay tế độ trần gian được nhờ.
Lúc bấy giờ ngài ra uy hùng hổ
Nương oai trời cứu độ muôn dân
Đùng đùng nổi trận phong vân
Ngự đồng ban phép cứu dân trừ tà.
Cánh dấu thiêng đem về mà trấn
Ai có tà xin quan trục tà ma
Kêu quan đệ ngũ bệnh đà tan ngay.
Nay dốc lòng ơn ông vạn bội
Hoặc ai mà nhầm lỗi truyền tha
Cầm cờ chỉ núi núi đà tan không .
Tiếng nức danh tung hoành dũng lược
Cảnh non bồng nước nhược bồng lai
Khi chơi bạn trúc bạn mai
Bạn loan tiệc ngọc xum vầy xướng ca.
Các bộ nàng ra tay bẻ quế
Quan dạo chơi thành thị hồ tiên
Ba ngàn thế giới dư thiên
Tiếng quan đệ ngũ khắp miền đông tây.
Bốn phương trời đội ơn đức cả
Ai có lòng quan hỉ xả từ bi.
Thiên sinh văn võ gồm tài
Quan tuần lịch sự đáng trai anh hùng.
Một nguyện ngài giáng phúc trừ tai
Đồng gia bản hội ai ai cũng thịnh cường.
Nguyện thứ hai buôn bán đủ trăm đường
Tiền tài lưu loát bạc vàng đề đa.
Nguyện thứ ba công hầu các lễ
Hộ tiểu con phú quí sang giàu
Độ tiểu con nay sống dài lâu
Nhờ ơn quan lớn phúc lâu giầu bền.
Nguyện thứ tư cho quốc phú dân an
Qua cơn binh lửa dân an thái bình.
Nguyện thứ năm ông giáng phúc bản đền
Thủ nhang họ…… cung văn nương nhờ.
Con Nam Mô A Di Đà Phật(3lần)
Về cửa Phật thánh Con xin sám hối lầm lỗi đã gây ra sai đâu con cúi đầu nhận lỗi.
Con lạy chín phương Trời
Con lạy mười phương Đất
Con lạy mười phương chư Phật Chư Phật mười phương
- Nam Mô Bản sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
- Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật.
- Nam Mô Đương Lai Hạ Sinh Di Lặc Tôn Phật
- Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát
Con Lạy Chư Đại Bồ Tát
Chư Hiền Thánh Tăng
Hộ Pháp Chư Thiên
Thiện Thần Bồ Tát
Con lạy Tam Vị Đức Vua Cha Đức Tam Thập Tam Thiên Thiên Chúa Đế Thích Đề Hoàn Nhân Thánh Đế Ngọc Bệ Hạ
Con Lạy Hiệu Thiên chí tôn Kim Quyết Ngọc Hoàng Huyền Cung Đại Đế Ngọc Điện Hạ.
Con lạy Đức Phật Mẫu Hoàng Thiên
Con Lạy Đức Vua Cha Bát Hải Động Đình Thủy Quốc Long Vương.
Con lạy Tam Tòa Thánh Mẫu:
Con Lạy Mẫu Đệ Nhất Thượng Thiên
Con Lạy Mẫu Đệ Nhị Thượng Ngàn
Con Lạy Mẫu Đệ Tam Thoải Phủ
Con Lạy Mẫu Đệ Tứ Khâm Sai
Con Lạy Hội Đồng Quan Tứ Trụ Triều Đình
Con Lạy Tam Phủ Công Đồng
Tứ Phủ Vạn Linh hội Đồng Tiên Thánh
Con lạy Trần Triều Hiển Thánh Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương
Con lạy Trần Triều Khải Thánh Vương Phụ,Vương Mẫu,Vương Phi Phu Nhân,
Trần Triều Vương Huynh
Vương Đệ.Vương Tử
Vương Tế .Vương Nữ Vương Tôn
Con Lạy văn võ bá quan quân thần trần triều
Con lạy Ngũ Vị Vương Quan, Tôn Quan Đệ Nhất Thượng Thiên, Tôn quan Đệ Nhị Giám Sát
Tôn Quan Đệ Tam Thoải Phủ
Tôn quan Đệ Tứ Khâm Sai
Tôn Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh.
Con lạy Tôn Quan Điều Thất.
Con cung thỉnh mời Tứ Phủ Chầu Bà
Chầu Đệ Nhất Thượng Thiên
Chầu Đệ Nhị Thượng Ngàn Đông Cuông
Chầu Đệ Tam Thoải Phủ
Chầu Đệ Tứ Khâm Sai
Chầu Năm Suối Lân
Chầu Lục Cung Nương
Chầu Bảy Tiên La
Chầu Bát Nàn Đông Nhung Đại Tướng Quân
Chầu Cửu Sòng Sơn
Chầu Mười Đồng Mỏ
Con lạy Hội Đồng Chầu Bé
Con Lạy Chầu Bé Thượng Ngàn Quyền Cai Bắc Lệ
Con lạy Tam Tòa chúa bói
Hội đồng Chúa bói Chúa chữa - Chúa Mán - Chúa Mường
Con Lạy Chúa Đệ Nhất Tây Thiên
Chúa Đệ Nhị Nguyệt Hồ
Chúa Đệ Tam Lâm Thao
Tiên Chúa Thác Bờ
Con Lạy Ngũ Phương Bản Cảnh Vũ Quận Bạch Hoa - Năm Phương Chúa Bà
Con cung thỉnh mời Tứ Phủ Thánh Hoàng.Thập vị quan Hoàng
Con lạy 36 tòa Sơn Trang
Sơn Trang
Tám Tướng Thập Nhị Tiên Nàng
Con lạy Tứ Phủ Thánh Cô
Con xin kính lạy Cô Nhất Thượng Thiên- Cô Cả đền Dùm
Con lạy Cô đôi Thượng Ngàn
Cô bơ Thoải
Con lạy cô tư Ỷ La
Cô năm suối lân
Cô Sáu sơn trang
Cô bảy Tân La
Cô Tám Đồi Chè
12 cô Chín
Cô chín thượng Ngàn Cô chín Sòng sơn
Cô Mười mỏ Than,Hội đồng cô bé
Con Lạy cô bé Thượng ngàn cô bé Thoải
Con lạy cô Bé Bản Đền (bản điện)
Con lạy Tứ Phủ Thánh Cậu trên Ngàn dưới Thoải
Con lạy Cậu đệ nhất Hoàng Thiên
Cậu Hoàng Đôi Thượng Ngàn
Cậu Hoàng Ba Thoải
Cậu Hoàng Tư Long Thành
Con Lạy Cậu Bé Hoàng Thiên
Cậu Bé Thượng Ngàn
Cậu Quận Phủ Dầy
Cậu Đồi Ngang Phố Cát
Con lạy cậu bé bản Đền( Bản Điện).
Con Lạy Hội Đồng Quan Ngũ Dinh, Đôi quan Thanh Xà Bạch Xà, Sơn Thần Bản Thổ Ngũ Hổ Thần Tướng-
-Con cung thỉnh mời chư vị Chúa Chầu các Quan thủ Đền thủ Điện Chư vị Thành Hoàng Bản Thổ
Chư vị Thần thổ cư đồng ngự dải đất này.
-Đệ tử con tên là:............. tuổi:..........
Ngụ tại:.................................
Kim niên kim nguyệt cát nhật lương thời. Hôm nay ngày:... Tháng:... Năm:...
( Dâng gì cầu gì khấn nấy hoặc theo bài bên dưới)
Nhân …………..
Đệ tử con nhất tâm 1 lòng nhất tòng 1 đạo nhất tâm trí thiết nhất dạ chí thành đêm tưởng ngày mong tu thiết hương,hoa,đăng,trà,quả,thực
(Mang miệng về tâu mang đầu về bái) trên con tấu thượng thiên dưới con đệ trình long cung thuỷ phủ cùng đồng gia quyến đăng cung phụng cửa đình thần tam tứ phủ
Mong trên Cha độ dưới Mẫu thương đèn trời đuốc biển soi đường dẫn lối phù hộ độ trì cho quốc thái dân an mưa thuận gió hoà vuốt ve che trở cho gia chung chúng con trong 3 tháng hè
9 tháng đông tai qua nạn khỏi
Đầu năm chí giữa nửa năm chí cuối được bình an vô sự cửa nhà khang ninh cầu danh đắc danh cầu phúc đắc phúc đắc tài sai lộc......
Dãi tấm lòng thành cúi xin Phật Thánh Chúa Tiên anh linh chứng giám!!!
Cung thỉnh công đồng Lục Cung Tiên Tổ dòng họ nguyên quán
Tổ Cô Mãnh Tướng cậu bé cô bé tại gia chư vị tiên linh trong dòng họ theo hầu Phật Thánh cửa
Đình Thần Tam Tứ Phủ trên tấu tòa vàng Thượng Thiên dưới tấu Thủy Cung Địa Phủ cho con cháu nhất một lòng Tòng một đạo Sở cầu tất ứng sở nguyện tòng tâm…
NGHE THẦY PHÁN BỪA VỘI VÀNG TRÌNH ĐỒNG MỞ PHỦ
Nhiều người đi xem bói được các thầy phán có 'căn đồng' của ông này
Cô nọ và phải mở phủ rất tốn kém chưa kể rất nhiều việc mê tín dị đoan gây hệ lụy xã hội khác
Cứ khổ sở vất vả đi xem bói là “có căn”?
“Cuộc sống của em rất khó khăn hay mơ thấy ma quỷ nên em đi xem bói
Thầy phán em có căn Cô Chín, căn Ông Hoàng Bảy phải mở phủ để hầu đồng nếu không sẽ chết sớm giống bố em
Mẹ em cũng đi xem bói cho em, thầy cũng bảo em bị “bắt đồng” rất sát
Thấy bảo có căn tứ phủ phải đi trình đồng hoặc tiễn căn nếu không cuộc sống sẽ gặp nhiều khó khăn trắc trở tai ương bất ngờ
Em chưa biết gì nhà lại nghèo làm đâu hết đó nên cũng muốn tìm một thầy đồng giỏi có tâm với trò để giúp em ra đồng hầu
Nhưng em rất lo vì việc được biết việc mở phủ tốn rất nhiều tiền khoảng 70 triệu đồng.Mở phủ xong còn lo các vấn hầu
Em rất muốn khất đồng vì chưa thể có khả năng để hầu”
Đó là tâm sự của một cô gái 29 tuổi và cũng là tâm sự của nhiều người đang gặp phải vấn đề
“Căn cao số nặng”
Theo tín ngưỡng thờ Mẫu (đạo Mẫu - hay đạo thánh Tứ phủ)
Lưu truyền trong dân gian thì người có “căn đồng” là người đã được các thánh “chấm đồng bắt lính”
Hiểu đơn giản theo dân gian thì “có căn” là người có những nghiệp duyên, nghiệp chướng tiền kiếp
Khi “quả chín” sẽ phải chịu kiếp khổ sở nhưng may mắn họ được các thánh chấm chọn cứu giúp
Trong đời này để có cơ hội làm công đức, làm việc phúc thiện để trả nghiệp dần
(Như người có tội được pháp luật cho phép đi làm công ích để giảm tội) nhằm chuộc lỗi lầm tiền kiếp để có cuộc sống an nhiên và sẽ viên mãn sau khi thoát sinh
Cũng theo ông Đàm Quang Vinh, đạo Mẫu còn có thuật ngữ “có căn” hay “sát căn”, “nặng căn” tương tự như “nghiệp quả”, “nghiệp chướng” hay “căn nghiệp” trong đạo Phật - để chỉ những người nhạy cảm, dễ cảm nhận và tiếp xúc với sự linh ứng tâm linh
Có 3 cấp độ “căn đồng, số lính”.Nhẹ nhất là đội bát hương - trình trầu; cấp 2 là tiễn căn,cấp 3 là phải hầu đồng 1 năm vài vấn; cấp 4 là thờ Thánh tại gia (lập Điện thờ Thánh) - hoặc phải đến chùa,đền,phủ ở.Người có “căn” thường mạnh khỏe cả thể chất và tinh thần, nhưng hay rơi vào cảm giác ảo thân mình bay bổng hay mơ thấy thần thánh.Họ cứ đến nơi đền phủ có hương khói đàn ca, múa hát hầu đồng là thấy phiêu phiêu, mất kiểm soát nên phải múa may… có thể mất tự chủ - dấu hiệu này hoàn toàn khác với người bị bệnh tâm thần phân liệt
Làm sao biết mình “có căn”?
Cũng theo ông Đàm Quang Vinh, trình đồng, mở phủ là nghi lễ trình diện - như lễ kết nạp người được chọn mới
Sau đó họ phải tìm thầy – là những thanh đồng lâu năm để học các lễ nghi, vũ đạo, hát văn, các lề lối vào giá, ra giá, trang phục, bày lễ
Sau khi được thừa nhận, họ sẽ làm lễ ra đàn để trở thành thanh đồng mỗi năm phải lên đồng ít nhất một lần (Vấn khóa)
“Ngày nay do nhiều người không hiểu về “căn đồng”
Lại nhiều thầy tứ phủ xem bói vì tiền hơn vì tâm đã phán bảo về căn số để người dân phải trình đồng mở phủ
Khiến nhiều người sai lầm tâm linh tự mua dây buộc mình gia đình bất hòa làm nhiều việc mê tín dị đoan sinh ra hao tiền tốn của và thời gian
Khi cứ nghe các thầy phán mình có “căn đồng” mà cố tình làm theo sẽ rất tốn kém
Vì một số thầy đồng không theo đạo Mẫu đúng đắn đã lôi kéo người dân tham gia để thu nhận đệ tử vụ lợi làm tiền
Việc biện lễ lớn còn làm mở rộng cái tâm tham đua tranh giữa các tín đồ và như thế càng có nhiều tội
Đi ngược lại sở nguyện thánh thần là giúp con người vơi bớt tội lỗi” ông Đàm Quang Vinh nhận xét
Theo GS.TS Ngô Đức Thịnh Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Bảo tồn văn hóa tín ngưỡng Dân gian
Phó Chủ tịch Hội đồng Folklore châu Á cũng nhận định xưa kia chỉ những người được cho là có căn có quả
Thì mới ra hầu đồng lập phủ với mong muốn người có căn quả được thanh thản, nhẹ nhàng
Nhưng nay lượng người ra hầu đồng ngày một nhiều với không ít tư tưởng là hầu đồng để mà xin lộc Mẫu trong tiền tài, danh vọng thăng quan tiến chức
Từ đó kéo theo một chuỗi những sự trục lợi làm méo mó đi nghi thức hầu đồng – một bộ phận của loại hình thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu tốt đẹp vốn có
“Việc bói toán bảo người này người kia có “căn”
Nhưng việc này chưa ai chứng? Xã hội tuy biến đổi nhưng việc đạo đều có nền tảng gốc rễ
Người dân không nên coi việc đạo là trừu tượng mơ hồ xa rời cuộc sống
Thực tế việc đạo tâm linh cần vận dụng gần gũi đời thường sẽ chính đáng, quý giá hơn nhiều
Tín tâm thì việc đạo sẽ trang nghiêm thanh cao Nhưng sai lệch một chút là đạo sẽ không gần gũi với đời, còn bị mê hoặc nhạo báng thì xấu hổ ảnh hưởng tới cuộc sống và đạo”
Hiện nay tình trạng đua đồng.đua bóng đang là vấn nạn của Đạo Mẫu
Người hầu đồng chỉ mong hầu để có Lộc mà quên rằng ra hầu để tu căn, giải nghiệp
Thậm chí mê muội với những chiêm bao Ngài báo mà dẫn đến lỗi Đạo lỗi Đồng.Chỉ vì hám LỘC mà dốc tiền hầu
LỘC đâu chẳng thấy chỉ thấy con chê chồng giận
Thậm chí tan cửa nát nhà khuynh gia bại sản.
Hầu Đồng như nào để có Phúc có Lộc
Trang nghiêm thanh tịnh bình đẳng không lãng phí xa hoa ấy là Phúc của Đạo
Đàn lễ càng tốn kém bao nhiêu càng thể hiện sự hoành tráng bao nhiêu thì càng đi xa Đạo bấy nhiêu và tổn Phúc bấy nhiêu.
Đạo chỉ cần trang nghiêm thanh tịnh bình đẳng.
Sự bình đẳng chính là ở sự dung hòa.Đạo ở đây làm cho ai cũng có thể nhìn mà tu theo được;
Đồng giầu, lính khó không có sự phân biệt xa cách đấy mới là Đạo, là Phúc là Lộc.
"Tứ chúng đồng tu xuất phàm thì nhập thánh".Phật Thánh không phân biệt mâm cao cỗ đầy giầu sang quý tiện hiền ngu
Chỉ có trần gian u mê mới có tâm phân biệt cái gọi là sang chảnh.
Khi chúng ta biết tu lễ sắp đặt bài trí cho một vấn hầu đồng dù đàn sơ lễ mỏng nhưng tâm thành ấm cúng trang nghiêm
Đồ lễ thanh tịnh không cần phải mâm cao cỗ đầy.
Trước vấn hầu đồng đền điện bao sái tẩy uế sạch sẽ gọn gàng
Những ngôi Điện nhỏ khi hầu mũ đàn và bài vị chúng ta có thể để lại hầu xong hóa cũng được
Như vậy nhìn sẽ ấm cúng trang nghiêm vì tán đi trên điện nhìn rất trống trải hương hoa đồ lễ không nhiều
Chúng ta chỉ cần hóa sớ và mã bốn phủ là được không phạm lỗi gì cả
Hóa sơ đi là khỏi phạm lỗi, sớ sách chu phê xét duyệt là của Quan bốn Phủ
Thế nên khóa lễ mà hầu để tấu đối về bốn Phủ bao giờ Thanh Đồng cũng phải hầu Ngũ Vị Tôn Ông trước
Các Quan về chấp bút chu phê Hội Đồng chuẩn nạp tá khẩu thông truyền;
Chấp lễ chấp bái chấp kêu chấp cầu; ban khen ban thưởng cho bách gia lính ghế bốn phủ
Khi Quan bốn Phủ đã chứng sớ,chứng mã giá Quan Tuần về tiễn đàn hóa sớ là xong
Sau đó các Chầu các Ông Hoàng các Cô các Cậu về ngự đồng tỏa bóng ban tài tiếp lộc chữa bệnh hành phù....
Chầu, Hoàng, Cô, Cậu không phải chứng sớ chu phê
Thế nên mũ đàn và bài vị để lại không phạm luật phạm lỗi
Hầu theo Ngài báo, sao lại sai Đạo tổn Phúc
Nhiều cô, cậu đồng hay nói hầu vị này vị kia để có lộc mà những vị đấy không phải hàng Thánh trong Tứ Phủ
Chúng ta là lính ghế con Bốn Phủ nhất nhất không gì có gì có thể lôi kéo dụ dẫn ta được.Cái đó gọi là lộc phù du.
Dù Phật Bồ Tát có hiện ra bảo hầu ta theo ta ta cho núi bạc non vàng thì cũng sám hối đảnh lễ khước từ! Làm được như vậy gọi đó là "Định Tuệ ".
Đây là thử thách lớn nhất trong đạo chúng ta phải vượt qua cám dỗ cái gọi là LỘC
Nhiều người bước qua khỏi cơ hành có duyên được làm con bốn phủ để thay bề trên giúp bách gia trăm họ
Tu thân tốt đời đẹp Đạo nhưng không vượt qua được thử thách thì lại lạc vào trong lục Đạo Luân Hồi nhân quả báo ứng.
Nhiều người khi ngủ mê được ngài báo, bảo sắm sử tu lễ để hầu ta, ta cho lộc
Nghe thấy từ LỘC, không có ngân có xuyến cũng đi vay đi mượn về tu lễ để bắc ghế hầu. Cứ ngỡ rằng hầu xong Ngài cho đắc lễ như trong mê thật.
Sau cứ thấy Ngài báo là lại hầu.Chỉ ăn rồi với hầu khuynh gia bại sản
Mấy vấn đầu hầu thì có lộc đấy, nhưng là cái LỘC giả họ cho mình, sau họ lại đòi lại
Oan Gia và Tà Thần họ dử mình cho mình thích rồi khởi tâm tham sau dần dần càng ngày càng xa Đạo lỗi Đạo
Lúc đó quay lại hối hận thì đã muộn anh em bạn bè xa lánh con nhang đệ tử họ bỏ.
Đạo luôn luôn có thử thách cám dỗ như Danh vọng tiền tài ai không vượt qua được sẽ bị Quỷ Thần Oan Gia họ dẫn đi sai đạo tạo nghiệp cho đời, cho mình
Đi lễ nên cầu như thế nào
"Đi lễ cầu gì, khấn gì cho có lộc". Đó là điều nhiều bạn đã hỏi tôi. Vì công việc bận bịu, nên chưa trả lời được, nay có đôi lời xin chia sẻ.
Có người nói đùa: Thầy đi cúng chắc thầy biết khấn, thầy xin cho thầy được nhiều lộc.
Các bạn à, mình đi lễ cho bách gia thì có sớ trạng khoa giáo mà hành sự. Còn khi mình đi lễ cho mình thì ít khi cầu xin nếu như không quá quan trọng.
Mình vào Chùa vào Đền chiêm bái, quỳ xuống vái 5 vái. Mọi ưu phiền chuốc bỏ; xả bỏ phiền não sân si tham vọng thân tâm thấy nhẹ nhàng an lạc một cảm giác bình an vô cùng ...
Sau sám hối: Thân căn khẩu ý.
Do vô tình hoặc cố tình tạo nên ác nghiệp, nay con xin sám hối chư Phật chư Thánh cùng hết thẩy Chúng Sinh hữu hình và vô hình cùng oan Gia trái Chủ trong nhiều đời nhiều kiếp mà con đã tạo nên tội nên nghiệp...
Và sau một buổi đi lễ Phật lễ Thánh nên hồi hướng cho: Cửu huyền thất tổ và oan gia trái chủ.
Các bạn ạ cách kêu cầu tốt nhất là sám hối nghiệp trướng.Nghiệp dầy phúc mỏng thì ta cầu xin gì cũng không được.Có được rồi cũng mất vì oan gia họ đến đòi nợ mình phải trả nghiệp.Nay tạm thời được, sau lại mất. Danh lợi ái tình sau cũng đội nón ra đi.
Nghiệp là họa Nghiệp là kẻ thù ta.Rũ bỏ được Nghiệp thì tài lộc sẽ đến và đến bền vững.
Chúng ta không có điều kiện và thời gian làm các việc thiện thì hãy nghĩ Thiện là cách tốt nhất để gieo trồng quả lành trong tâm mình.
Tự nhiên cũng giảm nghiệp thiện căn tri tuệ tăng trưởng
TÌM THẦY
A di đà phật!!! Các cụ thường dạy (không thầy đố mày làm nên) trong tâm linh việc tìm thầy
Lại là đòi hỏi cấp thiết và tiên quyết trên con đường tu thân học đạo của lính ghế nhà ngài
Mỗi người có quan điểm tìm thầy học đạo khác nhau, có người tùy duyên gặp thầy nào hợp tình hợp lý là thầy trò nhận nhau
Có bạn thấy thầy hot quá hầu đẹp múa dẻo đông con nhang sang đệ tử mà đem lòng tôn kính mà nhận là sư phụ
Lại có bạn vừa bước vào cửa đạo, nghe sự hứa hẹn làm lễ sẽ đắc tài sai lộc mà sinh tâm mong cầu nhận lầm ma qủy làm thầy.
Vậy việc chọn thầy phải chăng khó thế!!!
Trước tiên TPTM đề cập đến vai trò của người thầy trong đạo Mẫu của Chúng ta.
Trong đạo Mẫu chúng ta thường nghe câu « kính thánh - trọng thâỳ» hay (trên theo phật thánh dưới theo đồng thầy)
Điều này chứng tỏ người thầy đóng vai trò rất quan trọng trong hệ thống tín ngưỡng của đình thần tam tứ phủ
Thầy là người tái sinh là người mẹ thứ hai trong cuộc sống của chúng ta thông qua việc khai đàn mở phủ, xuất thủ trình đồng
Sau cái lễ tái sinh trong thế giới tâm linh ấy, chúng ta như những cô cậu học sinh cắp sách tới trường bắt đầu làm quen với ngôi nhà của Mẫu
Thông qua sự dìu dắt của thầy, từ các quy định, lề lối phép tắc, sự kiêng khem, đến lời ăn tiếng nói, lời kêu tiếng khấn phải chuẩn chỉ
Nghiêm túc theo đúng khuôn khổ mà thầy đặt ra..Thầy cũng chính là người kêu thấu, tấu nổi
Dẫn trình đồng tân lính mới đến các cung các cửa đến đền to phủ lớn mà kêu thay, lạy đỡ trình khăn trình áo xin bề trên cởi trói cho lính ghế nhà ngài
Thầy cũng là người dìu dắt những canh đàn khóa lễ đầu tiên của đồng tân lính mới như là một cách truyền pháp để thực hiện nhiệm vụ cứu khổ, độ mê...
Quan trọng hơn cả cha mẹ ruột cho chúng ta thể xác, thầy là người cho chúng ta đạo đức ở đời!!!
Là chỗ dựa cho chúng ta khi khó khăn là động lực cho chúng ta khi được cha mẹ đề tâm khai sáng...
Việc chúng ta cư xử có chuẩn mực có đạo đức có lề lối hay không chính là sự phản chiếu thái độ của Chúng ta với thầy
Và khả năng, trình độ và cái tâm cái đức của người thầy
Ví thử như chúng ta thấy những cảnh hầu đồng nhảy nhót như ma nhập
Những khóa lễ không thể diễn tả thành lời thì than ôi phù hợp lắm với câu:
Trứng rồng lại nở ra rồng
Liu điu lại nở ra dòng liu điu
Vậy vị trí của người thầy giữ vai trò tối quan trọng trong hệ thống đình thần tam tứ phủ.
Nhưng chúng ta phải tìm thầy như thế nào? Câu hỏi này chắc hẳn có hàng vạn bạn đang muốn tìm câu trả lời!!!
Vì thường có câu... Xảy một ly, đi một dặm... Các bạn chọn sai thầy, giống như các bạn chữa bệnh mà mua không đúng thuốc... Bệnh vẫn ngày càng nặng, mà tiền vẫn mất
CHỌN THẦY
Điều đầu tiên các bạn tìm thầy thì luôn luôn hiểu rằng, tìm thầy là các bạn muốn nương nhờ cái tâm cái đức của thầy
Để yên căn yên số yên sổ thiên đình vậy những người có tâm là ai có đức là ai?
Nếu những người có tâm thì không bao giờ làm việc thánh mà coi đó là một nghề, không tư lợi cá nhân không bòn rút của con nhang đệ tử
Làm mọi việc phải đặt cái uy, cái danh của nhà thánh mà hành đạo đúng lề lối,phép tắc,
Biết yêu thương đồng loại cứu khổ độ mê đau nỗi đau của Chúng sinh mà hành thiện cứu người
Nếu thầy là người có đức thì nhìn thầy đối xử với cha mẹ với tổ tiên của thầy
Nhìn thấy cuộc sống của thầy xem bề trên ban cho người có đức có giống những gì thầy đang có
Thầy là người am hiểu về đạo lề lối phép tắc được thể hiện qua cách thầy
Giao tiếp nội dung thầy giải thích, cách thầy bày biện thờ cúng đến việc thầy thực hiện những canh đàn khóa lễ mà chúng ta được chứng kiến được tận mục sở thị
Thầy là người được cha cắt mẹ cử ắt hẳn có điện có phủ biết soi căn nối quả và sinh con mát tay... (nhìn đồng anh lính chị)
Thầy là nam hay nữ là tùy quan điểm của từng người, cũng như việc hợp tuổi hợp mạng cũng là quan điểm cá nhân và hợp với quan điểm trần gian
Theo quy luật ngũ hành chứ không phải quy định của nhà Thánh vì quyền phép nhà ngài biến hóa vô cùng có thể cải hung thành cát cải họa vi tường
Vậy chúng ta bắt đầu tìm các bạn nhỉ?
Nhiều bạn cứ tìm cứ tìm nhưng duyên không tới gặp không ưa thì biết tìm ở đâu???? Dạ thưa các cụ có câu
Thứ nhất là tu tại gia - thứ hai tu chợ - thứ ba tu chùa.
Chúng ta thực hành luôn việc tu tại gia thông qua việc hiếu thuận cha mẹ hiếu kính tổ tiên năng kêu cầu lễ bái gia tiên bà cô tổ dẫn đường
Chỉ lối gặp được ông có đức, gặp được bà có nhân để dẫn đường con tới cửa cha cửa mẹ.
Thứ hai tu chợ: nơi chốn xô bồ ấy đời động mà tâm không động,tu tâm,tu khẩu,hành thiện tránh ác
Làm nhiều việc thiện đẩy lùi nghiệp chướng để sớm được hưởng phúc đức ắt gặp thầy tốt.
Thứ ba tu chùa: đến đền đến phủ mang miệng đến tâu mang đầu đến lạy phải kêu cầu cha trên thiên mẹ dưới hạ giới
Đề tâm khai sáng cắt cử để con gặp được thầy có tâm có đức để sớm ra hầu cửa cha cửa mẹ...
Các bạn cứ từng bước một.Ắt việc sẽ thành.
Có một số bạn vừa ra mở phủ nhưng vì tâm chưa định và sự thị phi của xã hội thông qua môi trường internet dẫn đến mất niềm tin
Hỗn Đồng
................
Các bạn thân mến sở dĩ tôi viết bài này vì nhiều bạn Tân đồng may mắn gặp được người thầy tâm đức
Hiểu biết phép tắc và tận tình chỉ dạy đồng con trước khi lên sập hầu cha hầu mẹ nên ít bị lỗi đồng
Nhưng cũng có một số các bạn không được thầy chỉ dạy nếu có hỏi thầy có khi còn bị mắng hoặc buông câu:
Cứ lên sập khắc biết cách hầu. Nếu cứ lên sập biết hầu thì cần gì phải có thầy nữa bạn nhỉ.
Có người do linh hồn từ nhiều kiếp đã hầu hạ nhà ngài nên khi lên sập họ đã thông thạo lề lối ít bị lỗi
Còn lại thì đa số lên sập lóng ngóng nhất là các bạn đồng Dương nếu không có sự chỉ dạy của đồng thầy
Thì khó tránh hỗn đồng.Các cụ đồng xưa khi mở phủ không bao giờ đưa đồng con ra mở phủ ở đền to phủ lớn để tránh lỗi đồng hỗn đồng
Các Thầy mở phủ tại bản điện của đồng thầy để dạy đồng con lề lối phép tắc theo kiểu đóng cửa dậy con
Sau 3 năm khi con đã nhuần nhuyễn thông thạo mới dẫn con đi toả bóng ở đền to phủ lớn
Thậm chí có thầy còn cẩn thận trong vấn mở phủ có hai chiếu hầu 1 chiếu là đồng thầy hầu làm mẫu 1 chiếu đồng con hầu theo
Có rất nhiều kiểu hỗn đồng lỗi hay phạm nhất là tung tiền vào mặt cha mẹ các bạn tân đồng khi đi dự hầu
Hoặc xem video hầu trên mạng thấy đồng khác làm vậy thì học theo hoặc các bạn nghĩ đơn giản
Tung tiền vào ban Công đồng là ban lộc cho bản đền.Lộc cha mẹ không thiếu đâu cần mấy đồng lẻ ném vào mặt tượng
Ban thờ như vậy bản chất của việc ban tiền khi hầu là gì tiền chỉ là hình thức ban lộc của nhà ngài
Lộc ở đây không phải là mệnh giá tiền to hay bé lộc nhà ngài ban là lộc bình an sức khoẻ an vui
Vì vậy thanh đồng là cái ghế để nhà ngài thị hiện hãy ban lộc thay bằng việc ném tiền
Lên ban công đồng hãy phát lộc cho cung văn tứ trụ hầu dâng và bách gia trăm họ cùng hoan hỷ.
Dùng khăn phủ diện Mẫu vàng cũng là hỗn đồng, các bạn cho rằng dùng khăn vàng
Vì bóng Phật về chứng để hầu Mẫu vì Mẫu là bồ tát trong khi đó Phật lại không ngự đồng thì về “chứng” ở đâu?
Hoặc có bạn thì tung khăn hầu Mẫu Mẫu trăm công nghìn việc mà lại giáng bản đền bản điện để ngự vào cái xác phàm của chúng ta?
Quốc có quốc pháp gia có gia quy, phép tắc xưa nay có ai dám tung khăn hầu Mẫu ngoại trừ những kẻ loạn đồng.
Hỗn đồng khác nữa là chĩa đao gươm vào cha mẹ hoặc có bạn say đồng ngồi quay lưng vào cha mẹ để hút thuốc ngự tửu
Có bạn dẫm cả vào váy ngã bổ chửng trên sập hầu có bạn thì nhảy tung cả váy áo tân đồng nhảy
Tứ trụ nhảy khách dự múa may hò reo còn đâu là uy nghiêm nữa lòng tôi thật đau xót cho đạo Mẫu
Chúng ta ngày càng tha hóa bảo sao người ngoài không buông những câu cay nghiệt đồng điên bóng rồ
Tôi mong rằng các bạn nếu vô tình hay hữu ý đọc bài này hãy cố gắng tránh phạm phải những lỗi không đáng có như trên.
Các bạn lên sập hầu là rũ bỏ nhưng tạp niệm mang thân - tâm - ý thanh tịnh hầu hạ nhà ngài
Giữ gìn nét đẹp tâm linh dân tộc chính là trách nhiệm và niềm tự hào của tôi và các bạn
Ngoài Việc hàng năm tảo mộ tiết thanh minh tạ mộ dịp cuối năm có một lễ nghi không thể thiếu đó là lễ Phả độ gia tiên giải oan cắt kết
Vậy lễ phả độ gia tiên giải oan cắt kết là gì làm lễ thế nào?
Dưới đây XEMBOIMIENPHI.VN sẽ chia sẻ đến bạn cách làm lễ phả độ gia tiên giải oan cắt kết.Hãy cùng theo dõi nhé!
I. Lễ phả độ gia tiên giải oan cắt kết là gì?
Lễ phả độ gia tiên giải oan cắt kết có nghĩa là làm cho đoạn dứt những điều oan ức của những người đã chết và cắt giải oan gia trái chủ do người chết (Vì khi còn sống hoặc trong tiền kiếp họ gây oán với oan gia trái chủ)
Như vậy, giải oan cắt kết là việc lập đàn trai giải oan cầu siêu tịnh độ giải trừ oan khổ cho tất cả các vong linh nhiều đời được siêu thoát để con cháu nơi trần thế được an lạc thái bình
Tương truyền, khoa cúng đàn thập cúng trong đó có khoa giải oan cắt kết là do Tổ Huyền Quang Lưỡng Quốc Trạng Nguyên soạn từ thời Trần để thông qua việc cúng lễ nơi tập trung đông Phật tử dân làng và con cháu hiếu chủ mà tuyên truyền quảng bá tư tưởng lục độ Ba La Mật của Phật giáo Đại thừa, giúp cho họ bỏ ác tu thiện.
II. Làm lễ giải oan cắt kết khi nào?
Những người chết tức, chết tối, chết oan, chết không đi đầu thai được, như những người tự tử, những người lính chết trận, những người chết bị tai nạn giao thông chết bị cướp đâm giặc giết phải giải oan cho họ
Những người kiếp trước, hoặc kiếp này phạm tội khi chết xuống bị đày vào ngục phải làm Lễ phả độ gia tiên giải oan cắt kết
(Cắt giải những oan gia trái chủ không theo hành thân nhân của họ nữa).
Như trên đã nói các cụ được siêu thoát thì mới độ cho con cháu được phúc phần bản thân con cháu cũng giải quyết được về mặt tâm lý khi gia tiên nhà mình được thoát ngục. Mặt khác các oan gia trái chủ nếu không cắt giải đi sẽ hành gia chủ về mọi mặt sức khỏe làm ăn hạnh phúc... Luật trời vốn rất công bằng, anh gây tội thì oan gia trái chủ có quyền đòi nợ anh, anh chết bị đày vào ngục oan gia trái chủ được phép hành con cháu anh, đó là quy luật nhân quả không ai được phép can thiệp, Thổ công cũng không được ngăn cản họ hành gia chủ.
III. Thủ tục làm lễ phả độ gia tiên giải oan cắt kết
Mỗi thầy có một cách làm lễ phả độ gia tiên giải oan cắt kết khác nhau, cách làm tốt nhất là: Nhờ uy lực của Phật mà tụng kinh hồi hướng cho vong linh nhà mình và các oan gia trái chủ hồi hướng cho vong siêu thoát, đây là cách làm thuận thiên ý không mang tính áp đặt như một số thầy pháp thường làm là nhốt vong.
Như vậy muốn cho đàn cúng giải oan cắt kết thành công, điều cơ bản là thân chủ phải thành tâm thay cho các vong linh ở trước Tam Bảo với lòng thương và chứng minh của Phật để mà giải kết. Điều quan trọng thứ hai là các vị pháp sự phải thực hành theo đúng như khoa giáo và cũng phải nhất tâm. Bởi vì lòng tin là mẹ đẻ ra mọi công đức thiện.
Bản thân người Thầy cúng trong khoa cúng nêu lên nguyên nhân vì sao mà vong linh bị kết buộc dẫn đến đau khổ trầm luân không thoát ra được. Nguyên nhân đưa đến cảnh khổ của chúng sinh bị luân hồi từ xưa tới nay và phương pháp giải trừ những mối oan kết bằng cách lấy pháp lục độ của Bồ Tát để cắt bỏ “tham, sân, si” để đạt đến giải thoát và giác ngộ.
1. Cúng tổ
- 01 đĩa xôi, 1 cơi trầu cau, 1 đĩa đậu phụ, 1 đĩa muối vừng.
2. Tiếp linh
- Lập đàn lễ gọi vong linh về, gọi là lễ Tiếp linh. Đây là một nghi lễ mở đầu của buổi lễ. Lúc này sư thầy sẽ đọc sớ thỉnh mời chư vị sứ giả là: Thiên phủ Tứ thiên sứ giả, Phi thiên Tập tiệp sứ giả, Địa phủ Diễn ma sứ giả, Thủ phủ Không hành sứ giả và Thổ địa Linh quan sứ giả. Nội dung của sớ tiếp linh là những lời thỉnh cầu sứ giả đi tìm vong về quy y cửa Phật.
- Chuẩn bị 01 lễ mặn (gà hoặc chân giò), 1 đĩa xôi, 1 cơi trầu cau, 1 nậm rượu, 1 gói chè, 1 bao thuốc, 1 bát cơm lồng, 1 quả trứng luộc “không có đũa bông”
- Sau khi đọc sớ tiếp linh xong, tiến hành tán canh Ai và tụng kinh. Kinh tụng trong lễ tiếp linh là kinh Di đà. Tụng một câu trong kinh Di đà có thể tiêu tan mọi tội lỗi: “Nhất cú Di đà tiêu vạn tội”.
3. Phát tấu:
- Trước khi thỉnh nhờ chư vị sứ giả đi thỉnh mời chư Phật mười phương về dự đàn lễ , người ta làm lễ Phát tấu để tiến lễ mã ngựa cho 5 vị sứ giả.
- Sắm mã:
+ 5 cỗ mã ngựa ngũ sắc, hài, hia, cờ, kiếm, roi, quần áo.
+ 5 cây vàng nén tiểu
- 01 xôi, 1 xỏ lợn, 1 chai rượu, 1 cơi trầu (5 quả, 5 lá trầu), 1 mâm gạo, 25 nghìn tiền trần, 5 cái gương, 5 cái lược, 5 cái quạt, 5 cái kéo, 5 quyển sổ, 5 bút đỏ, 5 bút đen, 5 bao thuốc, 5 khăn mặt, 5 cái ô, 5 đôi dép, 5 bánh xà phòng, 5 gói chè, 5 bật lửa, 5 hộp kem đánh răng, 5 bàn chải đánh răng, 1 chuyên thang thuốc gồm: 1 miếng bạch đàn, 5 lá hoắc hương, 1 gam quan quế, 1 gam xuyên khung, 1 chén mật ong, 1 gói đỗ xanh đãi vỏ 100g, 5 nụ đinh hương, 5 lát gừng tươi, 5 cái thau, 5 bát cơm bằng.
- Cách làm thang: cho tất cả các vị thuốc vào sắc lấy nước rau bỏ đỗ xanh vào đun nhừ mới cho 1 thìa đường và 1 chén mật ong ngoáy đều, đun sôi chắt lấy nước rót vào chuyên có 5 chén cho vào đĩa dâng lên cúng cộng với 5 lát gừng, 1 đĩa muối.
4. Cúng phật:
- Các sư tăng đọc sớ thỉnh cầu chư vị sư giả đi mời đức Phật về dự và làm chứng cho đàn lễ , rồi tiến hành tụng kinh. Tụng ba bộ kinh là kinh Pháp hoa, kinh Báo ân và kinh Thủy sám. Đây là phép pháp nhà Phật để hóa giải cho các chân linh vong hồn được gọi về, đồng thời giúp cho các vong linh được sáng trí, sáng lòng thông qua nội dung trong kinh của đức Phật.
- Chuẩn bị 01 mâm gạo, tiền trần 25.000đ, 2 mâm xôi chè, 1 chuyên trà gồm 5g cam thảo, 20 quả táo tầu, 1 miếng bạch đàn, 1 gói chè, 1 ga quan quế, 1g trầm hương.
- Cách làm trà: Cho tất cả các vị thuốc sắc lấy nước rút vào chuyên có 5 chén cho vào đĩa dâng lên cúng phật.
5. Cúng triệu linh hóa mã:
- Đại diện trong gia đình, người thân sẽ mời các vong linh thân nhân của họ về để Cầu siêu. Trong nghi lễ này, thầy cúng sẽ đọc bản Phó ý (gần giống sớ) với nội dung bao hàm những lời mà người chủ lễ (có thể là cha, là con, hay những người thân khác của gia đình) nói lên những khát vọng, những điều khẩn cầu với đức Phật độ trì cho các vong linh của họ; đồng thời cũng là những lời mời gọi vong về đàn lễ để “nương nhờ cửa Phật” mong được siêu thoát, tịnh độ. Và, sau khi đọc Phó ý xong là người ta tán canh Ai; tiếp đến, người chủ lễ sẽ sửa soạn một mâm lễ mặn để cúng trúc thực - lễ cúng mời các vong về ăn.
- Chuẩn bị 01 lễ mặn, 1 đĩa xôi, 1 cơi trầu cau, 1 nậm rượu, 5 miếng trầu cau têm, 36 nghìn tiền trần, 1 bát nước do, 1 bát nước lã, 1 bát không và sắp 1 bộ quần áo mã để hóa.
6. Cúng Khai Phương Phá Ngục (Ngũ Phương)
- Đây là lể giải thoát cho các chân linh vong hồn.Trước trước khi thực hiện nghi lễ này, các sư tăng thực hiện nghi lễ Thỉnh xá phóng xá
Thỉnh xá - Phóng xá là nghi lễ để yêu cầu quản ngục xoá tên các chân linh vong hồn đã qua đàn Cầu siêu ra khỏi danh sách tại địa ngục.
- Sắm mã:
+ 5 bộ ngựa mã ngũ sắc, hài, hia, cờ, kiếm, roi, quần áo
+ 5 nhà ngục ngũ sắc
+ 5 lá phan bằng giấy
- 5 lễ mặn, 5 cơi trầu cau, 5 đĩa xôi, 5 nậm rượu, 5 đĩa quả, 5 đĩa hoa, 5 cốc gạo làm bát hương, 5 cành tre có ngọn dài 3m, 5 cái bát mỗi bát têm 3 miếng trầu cau và 36 nghìn tiền trần, 3 lễ mặn.
Sư cụ tiến hành lễ 5 lần theo ngũ phương
Tụng huyết hồ kinh
7. Cúng tam phủ đối khám
Gồm 2 loại tam phủ thường và tam phủ cắt đoạn và kim niên kim nguyệt kim nhật kim thời thỉnh pháp sự khai đao cắt đoạn.
8. Mông sơn thí thực
Là nghi lễ tâm linh tiêu biểu trong Lễ hội mùa xuân hằng năm.Theo quan niệm Phật giáo trong cõi âm có vô số vong linh lang thang không nơi nương tựa
Việc lập đàn mông sơn thí thực hiện tâm linh Phật pháp và tinh thần từ, bi, hỉ, xả cứu vớt chúng sinh cầu cho quốc thái dân an thiên hạ thái bình
VÌ ĐỒNG TIỀN NGÀY NAY RẤT NHIỀU VỊ KO CÓ CĂN SOI BÓI
KO CÓ KHẢ NĂNG SOI BÓI VẪN TỰ NHẬN MÌNH LÀ ĐỒNG THẦY
VẪN NHIỀU NGƯỜI TIN ... U MÊ LÀ THẾ ĐẤY
KO CÓ CĂN SOI BÓI CHỈ CẦN BỎ RA 5>10 TRIỆU ĐỒNG
LÀ KO CÓ KHẢ NĂNG SOI BÓI CŨNG ĐƯỢC LÀ ĐỒNG THẦY
CÁC BẠN CÓ HIỂU ĐỒNG THẦY LÀ THẾ NÀO ???
ĐỒNG THẦY LÀ NGƯỜI CHA MẸ CHO KHẢ NĂNG SOI BÓI
NHỮNG NGƯỜI NÀY KO CÓ NHIỀU ĐÂU
100% NHỮNG AI ĐƯỢC CÓ KHẢ NĂNG SOI BÓI THÌ AI AI CŨNG PHẢI TRẢI QUA
VÔ CÙNG NHIỀU BIẾN CỐ HỌA ĐỦ KIỂU THÌ RỒI MỚI CÓ CƠ DUYÊN LÀM THẦY
CHỨ KO PHẢI NHƯ BÂY GIỜ ĐỒNG THẦY TOÀN BỎ 5 > 10 TRIỆU RA MUA BẰNG TREO TẠI NHÀ
THẾ LÀ LẠI ĐƯỢC LÀM ĐỒNG THẦY
Thầy ko có căn soi ko xem bói được vẫn trình đồng mở phủ cho người
Vẫn làm lễ cho nhiều người
Thế có khác gì ko phải là bác sĩ nhưng vẫn khám chữa bệnh cho người
Có phải là tiền mất tật mang ko
Đấy chính là lý do mà nhiều người ngày nay đủ các loại lễ rồi kể cả trình đồng
BỞI VÌ CÓ NHIỀU TRƯỜNG HỢP
TÔI ĐI ĐÃ RẤT NHIỀU NƠI XÂY ĐỀN ĐIỆN NHƯ PHONG TRÀO Ý
1 NGÔI LÀNG NHỎ VÀI CHỤC NGƯỜI GIỚI THIỆU
THẦY ƠI NHÀ CON CÓ ĐỀN CON THỜ LÂU RỒI
VÀ TÔI HỎI ??? CÓ KHẢ NĂNG SOI BÓI GÌ KO MÀ CŨNG THỜ
THÌ CÓ NGƯỜI ẤP ÚNG KO TRẢ LỜI ĐƯỢC VÀ CÓ TRƯỜNG HỢP
THÌ NÓI CÓ CON XEM BÓI VÀ LÀM LỄ CHO NHIỀU NGƯỜI MÀ
NGHE ĐẾN ĐÂY TÔI MỚI HỎI TÔI NHÌN THẤY LÀ CHỊ KO SOI BÓI ĐƯỢC
MÀ CHỊ NÓI CHỊ CÓ XEM BÓI VÀ LÀM LỄ CHO NHIỀU NGƯỜI
THẾ CHỊ XEM CHO TÔI ĐI BẤT CỨ VỊ NÀO XEM BÓI
TÔI BẢO XEM CHO TÔI ĐI LÀ Y NHƯ RẰNG ẤP ÚNG KO NÓI GÌ ĐƯỢC
THÌ TÔI MỚI NÓI KO CÓ KHẢ NĂNG KO ĐƯỢC CHA MẸ CHO QUYỀN PHÉP
KO SOI BÓI ĐƯỢC MÀ VẪN THỜ ĐIỆN NHƯ THẾ NÀY LÀ THỜ MA THỜ QUỶ
NHÉ KO CÓ CHA MẸ NÀO NGỰ ĐÂU CÀNG THỜ THÌ CÀNG CÓ HOẠ ĐƯỢC CHÚT TIỀN BẠC TRƯỚC MẮT
RỒI HOẠ BAO GIỜ MỚI HẾT ĐƯỢC VÀ KHI BỊ TÔI BÓC MẼ LÀ KO CÓ KHẢ NĂNG SOI BÓI RỒI THÌ TÔI MỚI NÓI
CHỊ KO CÓ KHẢ NĂNG SOI BÓI MÀ VẪN XEM VÀ LÀM LỄ CHO MỌI NGƯỜI
CÓ PHẢI LÀ GIẾT NGƯỜI CƯỚP TIỀN CỦA HỌ KO THÌ IM LẶNG KO NÓI GÌ????
CÓ NHIỀU TRƯỜNG HỢP LÀM THẦY RỒI ĐƯỢC CHA MẸ CHO QUYỀN PHÉP
CÓ KHẢ NĂNG SOI BÓI RỒI VÀ LỢI DỤNG KHẢ NĂNG ĐÓ ĐỂ LÀM TIỀN
VÀ VÌ THẾ CHO NÊN CHA MẸ THU QUYỀN PHÉP KO CHO SOI BÓI NỮA
NHƯNG TRƯỚC ĐÓ KHI ĐƯỢC CHA MẸ CHO KHẢ NĂNG VÀ QUYỀN PHÉP
HỌ ĐÃ SOI VÀ NÓI CHUẨN CHO RẤT NHIỀU NGƯỜI VÀ VÌ THẾ CHO NÊN
SAU NÀY THÌ HỌ DỰA VÀO KHẢ NĂNG ĐÓ ĐỂ LÀM TIỀN CỦA DÂN
VÀ BỊ CHA MẸ THU QUYỀN PHÉP LẠI KO CHO SOI BÓI NỮA
NHƯNG KHI MÀ ĐÃ CHIẾM ĐƯỢC LÒNG TIN CỦA MỌI NGƯỜI RỒI
THÌ DÙ CHO LÀ HỌ BỊ THU HỒI KHẢ NĂNG SOI BÓI LẠI
LÚC ĐÓ HỌ PHÁN LINH TINH THÌ CÁC BẠN VẪN NGHĨ LÀ ĐÚNG
THÙ HỌ NÓI GÌ THÌ CŨNG TIN
ĐẤY LÀ LÝ DO NHIỀU NĂM NAY 10 CÔ GÁI THÌ 9 CÔ GÁI
THÍCH... TƯỞNG... NGHĨ MÌNH LÀ CĂN CÔ CHÍN
LẤY ĐÂU RA NHIỀU CĂN CÔ CHÍN THẾ
TẤT CẢ LÀ Ở MỒM BỌN THẦY BÀ LỪA ĐẢO PHÁN
AI CŨNG PHẢI CĂN CÔ CHÍN NGHE MÀ THẤY MỆT MỎI
VÌ BAO NHIÊU NĂM NAY NGÀY NÀO CŨNG THẦY ƠI CON ĐI XEM
CÁC THẦY NÓI CON CĂN CÔ CHÍN..... NẢN
CÓ PHẢI LÀ THẦY NÀO CŨNG ĐƯỢC CHA MẸ CHO KHẢ NĂNG SOI BÓI ĐÂU
VÌ THẾ CHO NÊN CỨ LÀ CON ZAI NHẤT LÀ AI CHƠI CỜ BẠC
LÀ CHẮC CHẮN 100% ĐƯỢC PHÁN CĂN HOÀNG BẨY
(NGÀY CÒN TRẺ TÔI CHƠI CỜ BẠC VÀ THẾ LÀ CŨNG NHIỀU THẦY PHÁN CĂN HOÀNG BẢY
LÚC ĐÓ CHƯA BIẾT GÌ VỀ CĂN QUẢ NGHE ĐƯỢC LÀ CON HOÀNG BẢY THÍCH LẮM OAI NỮA
MÃI CHO ĐẾN SAU NÀY MỚI BIẾT ĐÓ LÀ SAI...
CÁC BẠN CỨ NGHĨ XEM LÀ CON GÁI AI CŨNG THÍCH MUỐN
NGHĨ VÀ TƯỞNG MÌNH CON CÔ CHÍN
CÁC BẠN CỨ TỰ SUY NGHĨ THÌ SẼ THẤY 100 NGƯỜI THÌ 99 NGƯỜI BIẾT ĐẾN CÔ CHÍN CÔ BƠ
AI CŨNG THÍCH---TƯỞNG---NGHĨ MÌNH CON CÔ CHÍN....
NHIỀU KHI THẤY AI CŨNG RỒ LÊN THÍCH NGHĨ TƯỞNG MÌNH CON CÔ CHÍN (BUỒN THAY)
THẾ CÁC CÔ KHÁC CÁC VỊ THÁNH KHÁC KO CÓ TÀI CÁN KO CÓ CÔNG ĐỨC GÌ À
MÀ 10 NGƯỜI BÂY GIỜ ÍT CŨNG 8 NGƯỜI CON CÔ CHÍN
Ví dụ như bạn này thầy khuyên tiễn căn thế tiễn được căn khác gì bố mẹ mình đẻ ra mình
Ko báo đáp công ơn của bố mẹ lại làm lễ tiễn để ko liên quan gì đến bố mẹ nữa thì là đúng à
Với bố mẹ mình chỉ là bất hiếu thôi nhưng cứ tiễn đi với nhà thánh
Mình là có lỗi và vì thế cho nên làm xong chắc chắn 100% là có hoạ
Thầy lại còn sai khai mở cung tài lộc thế tôi ví dụ đơn giản mở được thế
Thì tại sao cả đất nước này ko mở hết cung tài lộc đi là ko còn có ai nghèo khổ nữa rồi
Xem bói ko sai nhưng ngày nay ko có căn soi lộc bói cũng vỗ ngực tự xưng
Là thầy bà cô cậu phán linh tinh lừa đảo
Vừa mất tiền vừa ghánh hoạ
Nhắn các bậc làm thầy đúng 1 câu thôi
Đừng đem tính mạng+gia đình ng ta ra mà doạ bắt phải ra trình đồng mở phủ nhé
Nếu thật sự có duyên với nhà thánh
Họ tự ngấm đủ .đắng cay .tủi hờn. nhập.ốp.dở dở.ương ương
hãy dẫn trình họ ra trình đồng mở phủ nhé
Sao các thầy cứ thích đông con nhang kiểu chợ búa thế.càng đông càng tốt càng nở mặt à
KO CÓ CĂN QUẢ CŨNG HÙ DOẠ CHO CỐ VÔ BẮT NGƯỜI TA PHẢI RA TDMP
MỞ ĐƯỢC KO SAO ĐỆ TỬ YÊN KO SAO
MỞ KO ĐƯỢC NÓ HÀNH THẦY HƠN NGHIỆP HÀNH ĐẤY ..! SƯỚNG NỖI GÌ MÀ AI CŨNG BẢO PHẢI RA TDMP
RỒI CÓ NHỮNG THẦY MỚI ĐƯỢC ĐẺ RA MÀ LẠI ĐI ĐẺ RA ĐỆ TỬ khác NGAY ĐƯỢC thế thì thầy lại giỏi quá
____GHIM ĐÚNG 1 CÂU THÔI ..MONG CÁC THẦY BỚT DOẠ LẠI Ạ.! cho dân được yên bình
..CHÚC CÁC THẦY ĐẮC ĐẠO.!
BỌN KO CÓ KHẢ NĂNG VẪN VỖ NGỰC TỰ XƯNG LÀ ĐỒNG THẦY
RỒI THU TIỀN CỦA MỌI NGƯỜI LÀM LỄ SAI BỞI VÌ KO CÓ KHẢ NĂNG
SOI BÓI MÀ VẪN XEM BÓI VÀ LÀM LỄ THÌ CÓ KHÁC GÌ KO PHẢI LÀ BÁC SĨ
VẪN KHÁM CHỮA BỆNH CHO DÂN THÌ CÓ PHẢI LÀ GIẾT NGƯỜI KO DAO ĐÚNG KO ???
BỌN ĐỒNG THẦY KO CÓ KHẢ NĂNG SOI BÓI VẪN CỨ LỪA ĐẢO ĐI RỒI CHA MẸ PHẬT THÁNH CÓ MẮT
CHÚNG MÀY SẼ KO THOÁT TỘI ĐÂU YÊN TÂM
HAY THẬT SỰ KO CÓ KHẢ NĂNG SOI BÓI VẪN XEM BÓI VÀ LÀM LỄ CHO DÂN
KO CẦN PHẢI CÓ CĂN SOI BÓI MÀ CHỈ CẦN CHỤP HÌNH CÔ CẬU
ĐĂNG FB XEM BÓI TẠO PHÚC VÀ THẾ LÀ ẦM ẦM CÔ ƠI CẬU ƠI
CHÍNH BẢN THÂN TÔI ĐÃ MẮNG THẲNG VÀO MẶT BAO NHIÊU NGƯỜI
KO CÓ CĂN SOI BÓI MÀ VẪN THỜ ĐIỆN VÀ XEM BÓI LÀM LỄ CHO MỌI NGƯỜI
KHOE VỚI TÔI CON THỜ LÂU RỒI TÔI MỚI HỎI KO CÓ CĂN SOI BÓI MÀ THỜ
THÌ LÀ THỜ AI??? KO CÓ CĂN SOI BÓI THÌ CHA MẸ NÀO NGỰ
NHƯ THẾ LÀ THỜ MA THỜ QUỶ NHÉ THÌ VẪN CỐ CÃI
CON THỜ LÂU RỒI HÀNG NGÀY VẪN XEM VÀ LÀM LỄ CHO BÁCH GIA MÀ THẦY
TÔI BẢO VÂNG CHỊ XEM VÀ NÓI CHO TÔI LUÔN ĐI TÔI ĐỐ XEM VÀ NÓI ĐƯỢC ĐÚNG CHO TÔI THÌ Ú Ớ
Đó LÀ LÝ DO AI ĐI XEM CŨNG ĐƯỢC NÓ PHẢI MỞ PHỦ KO THÌ LẠI TIỄN CĂN
KO THÌ LẠI TRẢ NỢ TỨ PHỦ.... CẮT TIỀN DUYÊN CẮT DUYÊN ÂM
TOÀN NHỮNG LỄ GIẾT NGƯỜI CƯỚP TIỀN CỦA BỌN THẦY BÀ LỪA ĐẢO
ĐẶC BIỆT NỮA LÀ CÁC BẠN CHỈ CẦN KO BỊ U MÊ
LÀ SẼ HIỂU THẬM CHÍ CÒN CƯỜI ĐỂU BỞI VÌ MỖI KHI THẤY AI NÓI
CĂN CÔ CHÍN BẤT CỨ NGÕ NGÁCH NÀO PHỐ XÁ LÀNG XÓM NÀO
AI CŨNG CHÊ BIẾT CÔ CHÍN CỨ LÀ CON GÁI THÌ ĐƯỢC MẶC ĐỊNH LUÔN LÀ
GHẾ CÔ CHÍN 10 NGƯỜI ĐI XEM 9 NGƯỜI ĐƯỢC PHÁN CĂN CÔ CHÍN
CON CHỈ THẤY VẬY MÀ VÔ CÙNG ĐAU LÒNG THAY CHO NHỮNG KẺ U MÊ
TẠI SAO CÁC CÔ KHÁC KO CÓ TÀI KO CÓ CÔNG GÌ VỚI ĐẤT NƯỚC À
MÀ AI CŨNG CÔ CHÍN TẤT CẢ LÀ DO BỌN THẦY BÀ LỪA ĐẢO KO CÓ KHẢ NĂNG
PHÁN AI CŨNG CON CÔ CHÍN...CON GÁI MẶC ĐỊNH SẴN LÀ SẼ CĂN CÔ CHÍN
CON ZAI LẠI CHỈ PHÁN CĂN HOÀNG BẨY HOÀNG MƯỜI
CÁC BẠN LƯU Ý LÀ 1000 THẦY THÌ MAY RA MỚI CÓ 1 THẦY ĐƯỢC CHA MẸ
CHO KHẢ NĂNG ĐỂ SOI CĂN THÔI KO CÓ NHIỀU ĐÂU MÀ BÂY GIỜ RANH CON
9X 2K ĐĂNG ẦM ẦM XEM BÓI TẠO PHÚC ????
Để MÀ ĐƯỢC KHẢ NĂNG SOI BÓI NÓI ĐƯỢC ĐÚNG Ý
THÌ CHẮC CHẮN LUÔN LÀ 10 THẦY THÌ CẢ 10 CÙNG PHẢI TRẢI QUA VÔ VÀN
CƠ ĐẦY KHỔ CỰC CHỨ KO ĐƠN GIẢN ĐÂU MÀ XEM BÓI TẠO PHÚC
LƯU Ý BỌN KO CÓ KHẢ NĂNG SOI BÓI VẪN XEM BÓI
VÀ LÀM LỄ CHO MỌI NGƯỜI LÀ TẠO NGHIỆP NHÉ RẤT NHIỀU NGHỆ NHÂN ĐỒNG THẦY NỔI TIẾNG
NGÀY NAY KHẢ NĂNG SOI BÓI KO CÓ CHỈ CẦN BỎ TIỀN RA
MUA BẰNG CHỨNG NHẬN TREO ĐẦY NHÀ DÂN ĐẾN NHÌN NỂ THẾ LÀ PHẢI TIN
TÔI KHUYÊN THẬT LÒNG CÁC BẠN KO BIẾT GÌ VỀ TÂM LINH THÌ HÃY TÌM HIỂU KỸ TRÁNH MANG HOẠ
TÂM LINH KO PHẢI CÔNG VIỆC ĐỂ KIẾM TIỀN ĐÂU ĐỪNG THẤY ĐÀO ĐƯỢC DỄ
THÌ CỨ ĐÀO 11 NĂM LÀM VIỆC TÔI ĐỐ BẤT CỨ AI NÓI TÔI NHẬN DÙ 1 NGHÌN
NGƯỜI CÓ TRÁCH NHIỆM LÀM THẦY LÀ PHẢI 1 LÒNG CỨU ĐỘ CHO BÁCH GIA
TRĂM HỌ CÓ CUỘC ĐỜI TỐT ĐẸP HƠN CHỨ NGƯỜI LÀM THẦY ĐÍCH THỰC
HỌ TRẢI QUA BIẾT BAO KHỔ CỰC HỌ MỚI THẤM NỖI KHỔ CỦA NGƯỜI KHÁC
THÌ LÀM SAO MÀ CÓ THỂ NHẪN TÂM CẦM NHỮNG ĐỒNG TIỀN MỒ HÔI
CÔNG SỨC CỦA CÁC BẠN CHỈ CÓ BỌN TỰ XƯNG TỰ NHẬN
LÀ THẦY BÀ CÔ CẬU THÌ MỚI VÔ TƯ CẦM NHỮNG ĐỒNG TIỀN MỒ HÔI NƯỚC MẮT
NHẮN CÁC BẬC LÀM THẦY DÙ LÀ THẦY THẬT HAY TỰ NHẬN LÀ
NHIỀU NGƯỜI BỊ HÀNH VÌ LÀ NGƯỜI TRẦN MẮT THỊT HỌ ĐÃ U MÊ ĐÃ KHỔ LẮM RỒI
TÔI KHUYÊN CHÂN THÀNH LÀ KO GIÚP ĐƯỢC GÌ CHO HỌ THÌ THÔI
ĐỪNG LÀM TIỀN CỦA HỌ CHÍNH BẢN THÂN TÔI ĐI LỄ CÙNG RẤT NHIỀU CÁC CÔ GÁI Ở QUÊ KO HIỂU BIẾT THẦY XUI DOẠ
CHO TÍ LÀ SỢ LO 100 NGƯỜI THÌ TẬN 200 TRIỆU ĐỂ HẦU 1 THỜI GIAN SAU VÌ LÀM KO ĐÚNG VẪN BỊ CƠ HÀNH
HỎI THẦY THÌ THẦY NÓI BỊ LỖI PHẢI LO 100 TRIỆU ĐỂ XOAY KHĂN
(CÁC BẠN CHẮC SẼ HIỂU THẦY ĐÃ MỞ LỖI CHO MÌNH 1 LẦN THÌ DÙ CHO
CÓ XOAY KHĂN LẠI BAO NHIÊU LẦN THÌ CŨNG CHỈ TIỀN MẤT TẬT MANG MÀ THÔI)
Ngày nay đi lễ tự nhiên để ý bất cứ đền nào cũng
Kín các Cung đang có lễ Cung thì lễ Trả nợ tứ phủ
Cung thì Di cung hoán số Cắt duyên âm
Nhà Thánh Có Phải Chủ Nợ Đâu Mà Cứ U Mê Trả Nợ
Xong rồi lại tiền mất tật mang chứ sướng gì đâu
Những cái lễ này tôi dám chắc 100% bất cứ ai làm xong
Thì cũng sẽ ko được chuyện gì tốt đẹp gì đâu
Đứng Nghe những người làm lễ
Họ nói Lễ Trả nợ tứ phủ Và Di cung hoán số
Cắt duyên âm...Cắt tiền duyên họ nói lễ nào cũng 50 70triệu
Nghe vậy mà xót xa thương thay cho họ u mê mù quáng
Đã khổ rồi còn gặp thầy bà ma quỷ làm tiền
Đến sợ các thầy lễ ko đúng còn thu tiền như cướp
Thương thay những kẻ mang danh là Đồng Thầy con nhà Tứ Phủ con Cha con Mẹ vì đồng tiền mà bất chấp tất cả
Con nhang đệ tử nặng nghiệp đang phải trả nghiệp tiền kiếp trả nghiệp quá khứ cũng nhắm mắt xuôi miệng phán rằng căn số phải ra trình đồng mở phủ lập điện ngay
Lắm lúc tự hỏi nói câu này ra biết sẽ mạo phạm nhưng buộc phải nói tạo nghiệp nhân xấu ác đang phải chịu quả báo luân hồi chỉ cần làm lễ thì qua đc mọi vận hạn những Thánh Thần chứng cho LỄ này khác gì ăn hối lộ
Có Thầy cũng lạ lắm.không cần biết con nhanh của mình có tiền hay không giàu có hay khổ sở chỉ chăm chăm nhìn người ta mà phán: Căn số đấy nặng lắm rồi không lễ là tán gia bại sản không lễ vợ chồng ly hôn không lễ sẽ mất mạng.Đau xót quá
Ai ai cũng biết những vị Thần Thánh được người dân kính mến vì Đạo vì Nghĩa được dân thờ phụng bởi công đức đánh giặc xả thân quên mình làm điều thiện nghĩa có vị là tấm gương hiếu thảo kính trên nhường dưới không tham quyền thế.
Thiết nghĩ nếu các ngài còn sống những kẻ buôn Thần bán Thánh quên nghĩa nhân tham tiền như trên chém đầu không hết tội
Ai cũng biết Hầu Đồng là hình thức giữ gìn văn hoá Việt cũng là để nhắc chúng ta nhớ tới ân đức của các Ngài.Nhưng bây giờ đâu đâu cũng Hầu 1 năm hầu cả mười mấy giá nói là nhà ngài cho LỘC thì phải trả lễ. Nghe thật nực cười.Có những người từng làm lễ CẮT DUYÊN ÂM cưới vợ gả chồng cho vong âm theo ám mình có ai thấy khá hơn không? Có ai thấy mình sống dở chết dở vì từng đi vay mượn để theo đồng thầy trình đồng mở phủ chưa? Có ai từng tự xét bản thân trong quá khứ ta từng phá thai đặt điều hại người bất hiếu mẹ cha lừa gạt tình cảm của người khác thì sẽ bị quả báo gì chưa hay lại căn số?
Đi lễ Đền Bảo Hà nhiều người có quan điểm:
Dâng ông á phiện ông thích rượu chè cờ bạc gái xinh ông mê lắm tiện khổ quá xin ông con lô con đề.
Thật nghe mà nhục nhã quá
Thần tích sử tích còn ghi về ông ông chết hào khí oanh liệt phút chốc lại thành thằng nghiện ham cờ bạc mê sắc dục
Số ít người cũng lạ lắm làm ăn gặp thời suôn sẻ không sao có tiền có của bo bo giữ không đem tiền phụng dưỡng cha mẹ ông bà.Đến khi lâm nạn xem bói thầy nói căn số tin người được sao không tự vấn lại ta khi nhiều tiền của có làm việc thiện tu nhân tích đức hay không? Hay ăn chơi trác táng bạn xấu chơi cùng
Đi lễ các Đền to Phủ lớn nhiều vị dâng voi ngựa
Heo quay gà luộc xôi giò...Vấn đề phú quý sinh lễ nghĩa thì không dám bàn cãi nhưng nên hiểu nghèo sắp lễ theo nghèo có của ăn của để hiếu lễ vậy là tốt nhưng phải đi đôi với đạo lễ kính trọng phụng dưỡng gia tiên ông bà cha mẹ như thế
Hễ ai nghèo khó hãy biết tự tu tâm tu thân tu khẩu
Hiếu thảo sách có câu Đức Năng Thắng Số
Hễ ai đang phát đạt cũng đừng quên cội nguồn
Gia đình những người từng giúp đỡ ta ta khá giả rồi thì giúp người nghèo khó khổ sở hơn ta bằng gì cũng được đâu nhất thiết là tiền.
Kiếp này ta ăn ở hiền lành mà tai hoạ dồn dập vậy chắc gì kiếp trước ta ăn ở thiện lương.
Đốt vàng mã là phong tục tập tục của cha ông ta ngày xưa uống nước nhờ nguồn
Nhưng đừng hoang phí tiền bạc bỏ tiền thật ra mua đồ giả nên ở mức vừa đủ thôi. Hãy chăm xám hối tội lỗi không làm điều ác
Giúp người khi có khả năng
Tu nhân tích đức hiếu kính mẹ cha sống có nhân có nghĩa
Thời gian gần đây có rất nhiều các bạn nhắn tin cho Add hỏi về căn số nội dung thường hỏi nhiều nhất là về vị thánh cầm bản mệnh!!!
Câu hay hỏi và cũng là điều các bạn đi xem bói thường thắc mắc là mình căn ai? Căn của vị thánh nào?
Và các bạn đi xem mỗi nơi các thầy lại phán căn một vị khác nhau
(nếu đi nhiều chắc đủ 36giá)
Với tình trạng thực tế hiện nay rất khó để các bạn xác định được mình do vị thánh nào cầm bản mệnh vì những lý do sau:
1.Không phải thầy nào cũng có khả năng soi căn nối quả
Nhưng thầy dởm thì nhiều nên không có căn cứ mà cứ phán...
Nên mỗi câu trả lời lại có một vị thánh cầm bản mệnh
2.Khi gặp đúng thầy soi đúng.Nhưng ai và lấy gì chắc chắn là thầy ấy đúng và hiển nhiên phải đi soi tiếp nơi khác thầy phán khác lại đi tiếp Cuối cùng bị loạn căn
3.Bản thân người đi soi căn cũng hoang mang không lbiết kêu cầu gia tiên dẫn đường chỉ nối cha mẹ khai sáng để có căn duyên gặp thầy tâm đức thậm chí nhiều bạn chẳng có tí căn quả nào? Chỉ vì đi xem bói thấy người ta bảo vậy là cuống cuồng đi xem chỗ này chỗ khác mong tìm kết quả.Có vị ra đồng gần chục năm có đền phủ riêng khi tôi hỏi vị thánh nào cầm bản mệnh của cô vị này đưa ra 3 vị thánh tôi hỏi vậy vị thánh nào là vị thánh thủ đền cô ấy cũng cho tôi 3 cái tên...Chao ôi!!! Đến đền phủ.Căn số của mình còn không vững thì cứu được ai? Vậy tôi thiết nghĩ các bạn muốn biết mình Căn của vị thánh nào điều đầu tiên cần nắm là phải biết mình có căn hay không? Khi có căn thì biểu hiện thế nào? Sức khỏe gia đình công việc các điềm báo giấc mơ soi bói...Khi xác định được có căn mới tìm hiểu mình căn của vị thánh nào? Điều này các bạn hay đi xem nhiều nơi nên bị loạn.Tốt nhất năng kêu cầu gia tiên và Phật thánh gia hộ đồng thời tìm thầy uy tín chỉ dẫn kết hợp với cảm nhận cá nhân « điều này là rất quan trọng vì không ai rõ mình con ai bằng chính bản thân mình» khi có thầy không nên nghe linh tinh mà loạn tâm chỉ có vậy mới mong tìm ra câu trả lời cho riêng mình Vì khó khăn này nọ mới hay đi xem bói
Ai chả biết điều đó không lẽ đồng thầy không biết
Có con nhỏ với tình hình môi trường hiện nay 10 cháu bé có đến 9 cháu bị bệnh vặt đi viện .....
Hoặc bận bịu không chăm sóc trẻ tuổi dậy thì không nắm rõ tâm sinh lý của con dẫn đến con có chuyện nọ chuyện kia
Thầy nói xung về số mệnh....không đúng mới là lạ
Riêng khoản nói nguội là nghề của các thầy.
Rồi nói nóng nữa.Ba cái vụ mồ mả động rồi đất ở lành dữ thầy nói đâu nghe sợ đấy
Dọa cái là sợ co cả người vào.Thầy nói di cung hoán số là di cung hoán số nói cắt tiền duyên là cắt tiền duyên
nợ tứ phủ là trả nợ tứ phủ nói có căn là phải hầu
Cũng không phải ai cũng đủ bản lĩnh để suy xét.
Tất dẫn đến mê muội
Đời ai không gập ghềnh uốn khúc
Không ai nắm tay thâu ngày đến tối lúc lên voi lúc xuống chó là thường
Nhất là yếu tố kinh tế và tình cảm hay bị các Thầy soi mói bằng thủ đoạn nói nguội Nhưng nếu mà tin vì thầy nói là có căn thì phải cẩn thậnRiêng khoản soi căn nổi quả không phải ai cũng xem được 1000 thầy may được 1 Đi xem thầy cứ phán các bạn cứ Con gái ai cũng căn Cô chín...Cô bơ
Con zai thì lại Quan hoàng 7...hoàng 10
Rồi Tiễn căn...Di cung hoán số...trả nợ tứ phủ...
Cắt duyên âm cắt tiền duyên chắc chắn làm xong
1 những lễ này các bạn chỉ có xuống dốc ko phanh sống dở chết dở luôn
Vì những lễ lừa đảo giết người này của các thầy vô lương tâm Chính xác là thế
Tôi viết bài này mong có thêm kinh nghiệm cho các bạn.
Đặc biệt mấy bạn trẻ
Các nghi lễ không có trong Tứ Phủ
1 : Mở Phủ Âm
2 : Hầu Đồng Âm
3 : Di Cung Hoán Số
4 : Tiễn Căn
5 : Mở Cung Tài Lộc
6 : Mở Cung Lộc Bói
7 : Trả Mã Tào Quan
8.Trả Nợ Tứ Phủ
9 Cắt Duyên Âm - Cắt Tiền Duyên
Những nghi lễ này ko có trong Tứ Phủ Đạo Mẫu mà là do
Tự các thầy bà lừa đảo làm tiền nghĩ ra để lấy tiền của dân
Làm 1 trong những lễ này xong thì bất cứ ai Cũng sẽ rất khổ
Những DẤU HIỆU Nói Bạn Là 1 ĐỒNG ÂM
1. Thường có linh cảm hoặc được báo về một sự việc sắp xẩy ra trong thời gian gần thường nó xẩy ra như mình linh cảm thấy.
2. Hay mơ mộng hoặc đôi khi được ứng báo về một hay nhiều sự việc tương lai (tương lai dài – có thể nhiều năm sau) của một hoặc nhiều người thậm chí một một cộng đồng (khả năng tiên tri).
3. Hay thơ thẩn vẩn vơ thỉnh thoảng vô định trống rỗng, hoặc quấn tâm vào một thế giới huyền ảo cõi nào đó.
4. Tin vào ma tà tin vào nhân quả, nhưng nghi ngờ đủ thứ kể cả Nhà Thánh.
5. Ốm đau vặt vãnh không tên liên tục. Đi khám lại không ra bệnh thậm chí khỏe mạnh hơn người. Nhưng về nhà lại mệt mỏi, người yếu ớt như không có sức sống.
6. Dễ bị ốp nhập bị âm khí tác động nặng nề (Mệt mỏi,Mất kiểm soát,Lạnh Người,Run rẩy)
7. Có người có khả năng giao tiếp với đằng âm (nghe/nhìn thấy người âm)
Hoặc có thể đọc được suy nghĩ của người khác (Cả âm và dương)
8. Người hay bị tự dưng mệt mỏi vô cớ như sắp hết sức (bị rút hết sinh lực) hoặc tâm trạng bất an nóng nảy bồn chồn khó kiểm soát
Chỉ thời gian ngắn sau có thể trở lại bình thường như chưa có gì xảy ra.
9. Tính khí nóng lạnh bất thường, đa sầu, đa cảm, hay cả nghĩ, dễ giận, dễ hờn, dễ tủi nhưng lại dễ thỏa hiệp và bỏ qua.
10. Có những trường hợp cứ 14,15, 30, mùng 1, hoặc những ngày tiệc Thánh (dù không hề biết hoặc không nhớ) là trở nên ẩm ương, cáu gắt khó chịu, ăn uống, ngủ nghỉ không được... Qua những ngày đó hoặc đã được đi lễ Thánh tự khắc trở nên vui vẻ, yêu đời.
11. Khi trái gió trở trời người như cây dự báo thời tiết chuẩn, đặc biệt những thời điểm năng lượng từ trường mạnh như nhật thực, nguyệt thực…cơ thể có sự cảm nhận rõ rệt.
12. Nhận biết người đối diện là kẻ thiện lành hay người xảo trá ác tâm rất nhanh.
13. Ai đó đang kém may giao du với bạn dễ đổi vận được may mắn. Nhưng khi bạn trù ẻo ai thì họ khó có thể ngóc đầu lên được.
14. Đem lại điều may mắn cho người khác khi làm đúng đạo nhưng nếu mượn đạo tạo đời thì sẽ là tai họa cho nhiều người.
15. Là người rất có phúc nhưng gặp phải rất nhiều thị phi, oan trái khi ban phúc cho người khác.
16. Là người tốt vía, mua đâu đắt đó nhưng nếu ghét ai mở mồm chê bai thì người đó sẽ phải vía.
Ví dụ như khi đi chợ, một hàng quán đang ế, bạn vừa sà vào có ý định mua gì đó thì rất nhiều khách khác ùa tới, nhưng nếu không vừa ý và không mua do chủ cửa hàng thái độ là y như rằng hàng đó ế ẩm ngay kể cả khi họ đang đông khách.
(Vậy nên các cửa hàng bán cho cô cậu đồng chú ý đừng kênh kiệu, hãy cố chiều bọn ẩm ương dở một chút, không vía họ lành thì may chứ nhưng khi dữ thì hơn ma).
17. Ngược lại, hãn hữu một số đồng âm có thể rất dữ vía. Đó là trường hợp đồng âm có binh hoặc gia nô binh chưa được chấn chỉnh đội ngũ hoặc vong tà bám tá đi theo quá nhiều. Đi đến đâu, làm ở đâu là chỗ đó rất khó bán hàng, có khi bình thường bán hàng đông không kịp bán, nhưng cứ ca kíp của người này là không có ai mua hoặc rất kén chọn, hoặc làm ở đâu được vài tháng là nơi đó phá sản, giải thể... Dù là tự kinh doanh cũng không ngoại lệ.
18. Lúc khó khăn luôn có lối thoát
Ai cũng có thể gặp khó khăn trong cuộc sống. Nhưng riêng bạn bạn thường tìm được lối thoát nhanh chóng cũng như xuất hiện tình huống thuận lợi bất ngờ hoặc có người tự dưng hỗ trợ (quý nhân phù trợ)
Bởi rằng có bà cô tổ hoặc các vị hộ đạo nâng đỡ (trừ khi bị nhà Thánh thải đồng).
19. Tai qua nạn khỏi trong những tình huống hiểm nghèo
Nhiều lúc nhẽ ra bạn sẽ bị một hạn nặng nào đó có thể nhìn thấy
Nhưng không hiểu vì sao những người khác bị còn bạn thì không.
Ví dụ như trong một vụ tai nạn tập thể nhiều người bị thương hoặc mất mạng, nhưng bạn không hề hấn gì dù đi trên cùng chuyến xe.
20. Khi có dịch bệnh gần như ai cũng mắc và thường chuyển nặng
Bạn lại không bị hoặc có bị cũng khỏi rất nhanh hơn người bình thường, thậm chí bị 2-3 lần cũng không hề hấn gì.
21. Làm gì về việc dương cũng khó thành công khi chưa yên căn số và chưa phụng Thánh làm việc âm
Nhưng khi đã làm việc âm và nhất tâm đúng đạo thì bạn kinh doanh làm việc công sở hay làm bất cứ điều gì, đều tốt hơn những người khác.
Ví dụ: ở cùng dãy phố kinh doanh một mặt hàng bạn luôn đắt khách hơn cả
Trong khi cả dãy phố kinh doanh đang ế ẩm, bạn vẫn bán hàng đều đều.
Cùng buôn bán một sản phẩm, bạn bán đắt hơn người khác nhiều lần nhưng khách hàng vẫn mua của bạn.
22. Có nhiều bạn bè quý mến, nhưng hay bị bạn phản dù thân tình với nhau
23. Có được người vợ hay chồng lý tưởng nếu trọn đạo, nhưng chỉ chếch lệch là tan vỡ
Sau phút mốt và phần long đong về tình cảm cô độc không ai hiểu mình chiếm rất lớn.
24. Một người có phúc nhờ tích đức sẽ là người gặp được ý trung nhân hết lòng vì họ.
25. Đồng âm thường có ngoại hình dễ nhìn hoặc gây thiện cảm.
Người là đồng âm và có phúc thường được ban cho ngoại hình đẹp đẽ hơn người
Đặc biệt họ có đôi mắt sáng và rất linh hoạt
Khiến người đối diện càng tiếp xúc lâu càng quý mến, trân trọng; còn những kẻ lòng dạ xấu xa hoặc tà ám thì không dám nhìn thẳng.
26 thỉnh thoảng mơ độ vong hoặc được dậy học âm hoặc dạo chơi đền chùa
Chiếm 70 % các yếu tố trên là Đồng Âm.Bạn thấy mình đúng bao nhiêu % ?
Con đồng (Đã ra trình đồng) chưa chắc đã là con Nhà Thánh
Bởi rằng:
- Nói lời Thánh đức phán truyền giống Thánh, hầu hạ giống Thánh…Nhưng sống ngoài đời lòng dạ hẹp hòi, nhỏ nhen, xét nét nhân gian.., không có tình yêu thương con người, yêu thương muôn loài, không có trách nhiệm với chính mình, xã hội, cộng đồng…
Không phải con Nhà Thánh.
- Ngồi ở đền hầu hạ mặc áo công đồng làm thầy làm bà, khi bắc ghế hầu Thánh chỉ biết diễn như diễn viên, như bán nghệ trên sân khấu phục vụ cho “khán giả” reo hò, cổ vũ, hòng tạo hiệu ứng đám đông, xây nên cái danh nhà đồng, mạo nhận cái danh đại diện Thánh môn...
Không phải con Nhà Thánh.
- Ngồi giữa chợ mà hỷ xả yêu giống thương nòi, sống một đời sống bình dân có lý có nghĩa, không chắc làm ông nọ bà kia nhưng bụng dạ bao dung thiên hạ, vị thiên hạ, vị nhân sinh, vị Thánh môn, vị đồng đạo…
Chính là con Nhà Thánh.
- Thị phi chẳng tham gia; không đặt điều dựng chuyện; không đúng lại nói sai không lại nói có, chân tâm thật tính, không a dua bầy đàn.
Đó là con nhà Thánh.
- Hầu to đàn lớn chỉ vì 2 chữ tố hảo mà bất chấp tất, chăm hầu người trần, không trọng sự oai linh và phép tắc.
Chưa phải con nhà Thánh.
- Đồng nghèo bát nước cơi trầu, khăn áo đồ tế có đâu dùng đó (cũng tùy gia phong kiệm)…
Chưa chắc đã không phải con nhà Thánh.
(Chớ nhầm lẫn với những kẻ dãi đãi lấy tiếng đơn giản, giả nghèo giả khó mà xem nhẹ thậm chí bỏ qua lễ nghi, đó là giả tín giả nhất tâm, sẽ tự chiêu oan gia ma tà quấn thân tâm).
Dù giàu dù nghèo “Lễ” phải có “Nghĩa” mới nên “Lễ”.
- Sợ nghiệp, sợ ma tà, sợ... đủ thứ, trốn tránh công việc, trốn tu tập, “ngại” hành đạo… rồi cầu giầu, cầu có, cầu hơn người, cầu thành đạt, cầu danh… mới lễ lạt hầu hạ.
Nếu thành quen thì chưa phải con nhà Thánh.
- Có cái nhìn đa chiều, trí tuệ về quan điểm học đạo, tìm đạo, luôn tu tập hoàn thiện chính mình, có đức, có chân, có thiện, có mỹ, có nhân… quyết tâm học theo Thánh, sửa mình nhất tín...
Mới là con nhà Thánh.
- Việc xấu hại người, ảnh hưởng đến người, đến cộng đồng dù nhỏ cũng không làm; việc tốt giúp cho mình, cho người, cho bách gia dù rất nhỏ cũng không bỏ qua.
Chính là con Thánh.
- Làm chút việc tốt, giúp được người một chút
Khoe công khoe trạng, cái thói công thì một chút đã đòi tạc bia...
Hoặc hầu hạ mà không biết: hầu làm gì? tại sao phải hầu? Đang hầu ai? Nguyên tắc hầu hạ như thế nào?… hoặc chỉ mong hưởng quả, hưởng phúc, hưởng giầu sang phú quý địa vị... cho mình, cho gia đình...
Không phải con Nhà Thánh.
- Làm việc tốt cho người, giúp đỡ bách gia, lấy danh cho Thánh lấy diện cho đồng, “trên lo việc Thánh dưới gánh việc trần” mà việc trần ở đây là việc quốc gia, việc xã hội, việc cộng đồng… chứ không phải nói việc trần là chỉ nghĩ đến việc gia chung. Chớ ích kỷ chăm chăm việc bản thân mà quên rằng: mình cần làm việc tốt vì nước vì dân vì ...
Phải hiểu và phải coi “gánh việc trần” là nghĩa vụ phải làm thì mới là con nhà Thánh.
- Thấy người nghèo cơ cực, người có đồng cơ hành khó khăn… không khinh thường, thấy người giàu sang, có danh có tiếng... không a dua xu nịnh, sống chân thành, chân thật, chân tâm…
Mới là con nhà Thánh.
- Nếu là con đồng nhà Thánh, hãy nhớ:
• Thấy bản thân mình phúc mỏng nghiệp dày cơ hành... đủ kiểu cũng không quá buồn, luôn phấn đấu tu tập vượt qua.
• Thấy người ác phải trả nghiệp, con cháu họ bị trả nghiệp, bị quả báo cũng không lấy đó làm vui. Hãy xét về chân lý mà quan sát và chiêm nghiệm, chớ cảm tính.
• Nếu thốt ra lời cảm tính một cách cay nghiệt, oán trách, lăng mạ, bình phẩm xấu ... có thể làm ảnh hưởng người tốt, hãy chọn im lặng.
• Nếu lời nói, hành động... làm cho người tốt lên, cộng đồng tốt lên, tương lai của họ, của cộng đồng cải biến tốt đẹp, thì phải nói mà còn nói to và dài, phải làm dù khó khăn chướng ngại thậm chí đơn độc. Chớ im ỉm, sợ hãi, chớ phớt lờ để cái xấu lên ngôi, xã hội mục nát.
• Nếu phải lưu giữ, lấy hay nhận, hoặc bằng mọi thủ đoạn chiếm đoạt... một thứ gì đó theo ý mình mà làm ảnh hưởng, làm hai, phiền luỵ người khác, hay cộng đồng, hãy dừng lại.
• Không tự hào cũng đừng quá đau buồn nuối tiếc quá khứ, không sống về những thứ đã qua, vì ngày hôm qua sẽ không lập lại chứ đừng nói quá khứ.
• Dù ngoài xã hội ta là ai, chức vụ gì, địa vị ra sao, giàu nghèo thế nào…
Hãy cứ sống sống vì tương lai, sống vì người vì mình, vì xã hội, vì cộng đồng...
Sống có ích Có ý nghĩa
Hôm trước xuống đền Quan lễ Thánh gặp canh hầu của một cô đồng mà về cả đêm không ngủ được.
Cung văn thì nguyên một dàn từ trống điện tử, ghi ta điện, organ,.... đủ cả
Người phục vụ rồi khói mây phun mù mịt rồi trang trí bầy biện ánh sáng âm thanh cứ như sân khấu, lại thêm 3 cái máy tính 3 chuyên gia ngồi xử lý cắt ghép hình ảnh livestream trực tiếp... rồi có đến gần chục người nào quay phim chụp ảnh flycam ... thiết bị quay chuyên dụng bay vù vù trên đầu tượng Thánh... mấy cái.
Thằng thì kê ghế đứng quay video chổng cả đít vào trong ban, đứa hầu thì vái Thánh thì không vái mà vái thằng quay video với lễ ống kính livestream.
Cả công đồng không còn một khe hở chỗ trống để mình đứng lễ Thánh.
Nản quá thôi thì ra ngoài lầu cô lầu cậu vái lễ xong rồi về.
Trằn trọc cả đêm không ngủ được, vì nhìn cái cô đồng đó hầu như diễn trên sập với mớ chầu văn tân thời, ầm ỹ, không biết Thánh đạo Việt rồi sẽ về đâu.
Biết rằng rồi bọn họ đến ngày mà thấy được mình ngu si khi đã làm loạn trong đền thần vì đú đởn sẽ là ngày tiếc nuối quá khứ. Tại sao thời đó mình làm vậy.
Và cũng biết rằng khối kẻ ra đồng rồi khi sa cơ mạt vận vẫn không nhận thức được cái sai và tại sao mình sa cơ mạt vận, lại luôn đổ cho căn quả với nhà Thánh.
Đâu đó còn nhiều người đã khổ vẫn luôn mồm khoe khoang ngu sy tự hào quá khứ .... kiểu nói như bây giờ, bọn họ hay khoe tao cũng từng đồng bóng lẫy lừng ... hầu ở abc.,,, canh đàn triệu,,.. triệu, trăm triệu tỷ mời cả thằng abc về hát văn
Có lúc giá Hoàng Mười nó hát tao ngồi nghe say văn hơn 1 tiếng không muốn xa giá.....!
Và có rất nhiều người đến bây giờ họ còn không chắc có căn quả với nhà Thánh không và là ghế của vị Thánh nào, vị nào bảo trợ, vị nào cai đồng, vị nào thủ mệnh. Mặc dù đã hầu được mấy năm.
Và cũng rất nhiều và nhiều luôn đặt câu hỏi trong lòng ko dám nói với ai mình có căn đồng thật không? Hoặc mình đã phải lên ra trình chưa? Sao mình lại nghe lời thầy để ra đồng, sao đợt đấy mình cũng đú đởn theo phong trào mà ra đồng? Sao mình lại hầu hạ như thế?...
Thuốc hối hận thường bán trước nhưng không ai mua.
Trên cái thế gian này.
Ai cũng muốn an yên giàu có và hạnh phúc.
Nhưng lắm kẻ an yên chưa đủ, họ còn muốn thật hơn người, muốn thật giầu có và phải có danh có tiếng hơn người, thậm chí muốn làm thầy bà ăn trên ngồi chốc. Và giờ ra đồng là cái mốt cũng muốn theo mốt đú trend và nổi tiếng như các idol đồng bóng trên tiktok, trên mạng xã hội rồi cũng có kẻ cũng muốn tìm một con đường tắt để thoả mãn cái .... tôi.
Tâm linh chứ không phải mốt và đú trend.
Tâm linh cũng không phải trò đùa.
Bây giờ trên mạng xã hội mở máy ra nhan nhản các video: cái gì mà cô đồng hầu đẹp nhất vịnh bắc bộ, sang nhất, tố hảo nhất nước, ứng bóng ... đẹp, sang, ..... toàn từ ngữ diễn khoe mẽ là chính.
Các cụ bảo hiển bóng linh đồng chứ cứ đẹp và sang chảnh thì giải quyết làm sao được vấn đề về tâm linh.
Thế ra đồng cần an căn an số, an sổ thiên đình hay cần cái khác.
Linh thiêng cũng có cái đẹp nhưng đẹp không thể thay thế linh thiêng.
Đặc biệt nhan nhản video trên mạng xã hội: khoe hầu giá quan về khóc như mưa, tố hảo nhất sang nhất toàn tung tờ 500k... Xin thưa Thánh không lụy phàm chỉ có phàm cậy Thánh lụy Thánh.
Quan nào cần chúng mày ngồi đó để quan ốp bóng khóc như đứa trẻ ranh rồi khóc như mưa? Thánh nào cần chúng mày bỏ tiền ra ném tờ 500k như bươm bướm trong điện thần thì thiên hạ mới thấy nhà Thánh linh thiêng?
Hầu hạ Thánh xưa nay làm gì có chuyện như phường trèo?
Đức Ông nào vẽ mặt xanh đen môi son mỏ đỏ?
Nhà Trần giáng bóng bao giờ mà nhan nhản trên facebook ... ứng bóng đức ông Trần triều? Nên nhớ Nhà Trần chỉ thượng đồng nhé không giáng bóng.
Kể cả là hội đồng thượng từ loan giá cũng chỉ thượng đồng thôi chứ không giáng bóng.
Xiên lình lấy dấu để làm phép, chứ không phải để quay VIDEO khoe khoang trên facebook ,tiktok cho vui.
Nhạc hầu cung văn thì ba lăng nhăng như trên sàn...
Lên sập hầu cứ diễn như trên sân khấu, tự ám thị xong tự huyễn hoặc là nhà Thánh ốp bóng. Hưng phấn thăng hoa khi bị tự ám thị và nhà Thánh ốp bóng là 2 chuyện khác nhau.
Chính người hầu còn không phân biệt được, đâu là do ngoại cảnh kích động để hưng phấn, đâu là nhà Thánh giáng bóng thì cũng chỉ là đồng non, căn cơ thấp kém hoặc không căn quả.
Ngoài đời trên sàn diễn của nghệ sỹ hay trên xập hầu con đồng tâm linh đều cần sự hưng phấn và thăng hoa.
Biết là nhạc tân thời nhạc sàn hay nhạc quẩy dễ làm người ta lạc mình và hưng phấn thăng hoa, nhưng ko có nghĩa là ba cái nhạc đó lời văn đó có thể thay cho chất Tâm linh để khai mở Âm dương để nâng bóng Thánh khi nhà Thánh ốp bóng đóng đồng.
Loạn quá rồi sẽ rất nhiều người khổ vì ra đồng và sẽ rất nhiều cái oán cả Thánh lẫn các đồng thầy thời @ này.
Xin thưa rằng không có con đường tắt nào cả!
Dù có căn sâu quả nặng phải ra đồng
Tất cả phải trãi qua quá trình tôi rèn luyện hầu hạ chuẩn chỉ về tâm linh, phải theo khuôn phép và truyền thống.
Căn nông/không có căn vì đú trend thích ra đồng, phá đạo.
Đừng mơ tìm được thứ giá trị mà không nằm trong số phận của mình mà không phải trả giá đắt !
Kể cả căn sâu quả nặng mà đi ngược lại truyền thống tâm linh cửa Đình Thần cũng sẽ gặp hậu quả còn hơn cả kẻ không có căn.
Làm người thường không muốn cứ muốn làm Ông bà đồng.
Làm người đã khó, làm đồng còn khó hơn nhiều.
Chưa nói bây giờ 1 cơ số kẻ vừa hầu vừa ngóng màn hình điện thoại hay máy quay, có đứa còn trả lời livestream trực tiếp khi đang hầu.
Rất nhiều cung văn hầu dâng, người dự nói chuyện cười đùa to át cả tiếng ghế hầu… như cái chợ, không còn cảnh kính Thánh trọng đồng. Cứ tưởng thế là hay.
Đừng vì vài tấm ảnh, vài cái video đăng lên mạng mà ham có căn, mà trèo ra trình đồng hầu hạ. Không có rồi khổ không kêu được ai và cũng đừng oán trách ai.
Cũng đừng vì vài đồng bạc lẻ mà hát hò lai căng pha tạp, chế văn, chế nhạc phá đạo. Sau này gia đình tan nát khổ đau cũng đừng trách ai, mà khối kẻ nhãn tiền rồi chứ chả phải đợi đến sau này
LUẬN XIN LỘC TÀI
VÀ XIN LỘC PHÙ VÂN
Cái thời kinh tế địa vị là chủ đạo và là thước đo
Của con người này thì yếu tố tiền bạc lộc lá trở thành mong cầu chủ đạo.
Ở đời không ai có thể phủ nhận:
Có người không tài không sắc không đảm nhưng lại cực may mắn và giầu có.
Có người học giỏi tài có đảm có ... nhưng lại nghèo khó là thường tình.
Đời mới bây giờ thì tiền bạc địa vị ... che lấp hầu hết tất cả các giá trị của Đạo Mẫu.
99% con đồng hay thập phương tín thí bây giờ từ lễ bái cho đến hầu hạ đều mong cầu ở Nhà Thánh địa vị và lộc lá “đắc tài đắc lộc”.Nhiều người chỉ vì sợ nọ sợ kia mà lễ bái, thậm chí ra đồng, hầu hạ liên miên cũng không hiếm.
Rất ít người vì cái khác mới hầu hạ và lễ bái Nhà Thánh.
Ừ thì ra đồng ai cũng là con cha con mẹ.
Ừ thì đã là con nhà Thánh, ừ thì con có đói thì phải khóc
Mà khóc thì cha mẹ mới thương cho ăn cho bú.
Không khóc ai biết mình sao?
Nhưng có quá nhiều người nhìn lên cao
Thì không sướng và tiền tài không bằng người ta
Nhưng nhìn xuống thì mình còn đang là kẻ thừa ăn đâu có đói mà khóc?
Các bạn nghĩ xem tôi nói đời thực thôi:
Nếu bạn có vài đứa con trong đó có đứa vừa gặp mặt cha mẹ là khóc toáng lên, kêu nghèo kêu đói và đòi xin nọ xin kia.Ngày nào gặp nó cũng như vậy thấy mặt
Là ôn nghèo kể khổ và xin xỏ... thì xin lỗi chỉ có nước tránh mặt mà trốn, không dám gặp.
Đôi khi trong mấy đứa con có đứa không bao giờ xin xỏ dù khó khăn lại thương mà cho.
Bây giờ:
Ngày nào tháng nào khi vào đền phủ cũng một điệp khúc xin xỏ xin phù hộ cho con được cái nọ được cái kia…Cứ lúc nào vác mặt vào đền là y như rằng vẫn một loại sớ xin nào lộc, nào tài, nào danh, nào… đủ thứ.
12 tháng thì cả 12 tháng đến đền là kêu và xin...
Nguyên cứ thấy mặt là cầu cái nọ cái kia hết ngày này tháng khác vẫn thế, nhà Thánh chỉ cần nhìn thấy vào đền là biết chuẩn bị nghe nó kêu xin, có người còn ôm sập công đồng hàng vài tiếng kể lể xin xỏ.
Chưa bao giờ thấy gia tâm khấn vái với tấm lòng kính Phật Thánh ngoài việc xin xỏ.
Bản chất việc xin lộc tài công danh địa vị... của mọi người là tốt, là đúng.
Nhưng vào lúc nào vào thời điểm nào thì phải cân nhắc kỹ. Chứ không phải ngày nào cũng xin.
Chỉ nên cầu xin một vấn đề gì hay xin lộc Thánh khi:
- Có việc đại sự chuẩn bị làm
- Hoặc phải lúc bần cùng bất đắc dĩ
Chứ không phải lúc nào cũng một điệp khúc xin… xin…xin… diễn ra thường xuyên mỗi khi đi lễ tại đền phủ.
Thực ra:
Việc cầu xin Thánh che chở, xin lộc Thánh…, trước tiên giúp cho chúng ta xóa bỏ được nhiều nỗi lo âu, giảm đi những phiền muộn… về những công việc dự định tương lai (đôi khi xoa dịu cả quá khứ và hiện tại).
Đồng thời xin lộc cũng giúp mọi người thêm vững tâm khi tiến hành mọi việc. Nhiều việc được thuận lợi, hanh thông hoặc thoát khỏi tai họa, tai nạn, bần hàn, đói rét... đã đến và đang diễn ra khiến ta mệt mỏi phiền muộn. Thậm chí thoát khỏi vận hạn, tai họa, tai nạn chuẩn bị xẩy ra.
Khi cầu xin một vấn đề gì đó hoặc xin lộc Nhà Thánh các bạn nên tĩnh tâm để trong mình được thanh tịnh, đồng thời gột rửa chân tay, trang phục và thật thành tâm thì mới linh.
Nên nhớ: Lễ vật tố hảo không bằng cái tâm tố hảo.
Cái gọi là lộc PHÙ VÂN mà gần đây hiểu nhầm thành lộc lô đề cờ bạc thì tôi nói thật là sai lầm hoàn toàn.
Như trên tôi đã nói:
Ở đời không ai có thể phủ nhận việc có người không tài, không sắc, không đảm… nhưng lại cực may mắn và giầu có.
Cũng có người học giỏi tài có đảm có... nhưng lại nghèo khó là thường tình.
Một người tài có hạn, cuộc sống kinh tế cũng có hạn… ví như mình chỉ đi làm công ăn lương hay buôn bán thông thường, thu nhập tháng nào cũng như vậy không có gì đột xuất làm mình khá lên, đều đều chỉ đủ ăn không có phương kế nào mà cải thiện tài chính,...
Hoặc ta có một công việc sản xuất kinh doanh cố định thu nhập đều đều không có thể làm gì để tăng thu nhập hay lộc tiền nào khác.
Nên người ta đi xin “lộc phù vân” của Nhà Thánh.
Việc này bắt nguồn từ lệ:
- Trước kia buôn bán thường là xuôi ngược trông chờ cả vào thiên nhiên.
Nếu lũ lụt mưa bão là đồ lâm thổ sản khó vận chuyển nên người ta hay phải nghỉ lại dọc đường tránh bão (nơi nghỉ lại thường hay cạnh các Đền Miếu), họ thường hay cầu xin được Thánh Thần che chở thuận buồm xuôi gió.
- Cũng có nhiều người do lũ lụt không vận chuyển được làm hỏng nông thổ sản hoa quả lỗ mất vốn liếng nên thường thửa lễ lên cửa Thánh Thần xin chút lộc phù vân.
“Lộc phù vân” ở đây có nghĩa là lộc ở trên trời rơi xuống.
- Lại nói: Người dân tộc xưa kia hay trao đổi hàng hóa lấy vật dụng nông thổ sản ...với người xuôi. Nhưng mỗi phiên chợ thường xuyên diễn ra bình thường không nổi trội, vẫn chỉ là kiếm ăn bình thường như bao phiên chợ khác.
Nếu hôm nào có quan tù trưởng hay trưởng bản... mà ra đặt hàng trao đổi thì gần như kiếm bằng cả năm đi buôn. Họ hẹn trước đặt hàng trao đổi.
Họ không phải là những người trao đổi những mặt hàng nông sản thông thường. Họ có những cái miền xuôi khan hiếm không có như da xương... hổ báo thú rừng, vải thổ cẩm, vải sồi, bạc trắng, đồng mỏ, thiếc, sắt, thuốc bắc lâu năm ...
Họ đổi muối, rượu mạnh, con giống, đồ gốm sứ, trang sức, giấy mực, vải tơ, lĩnh tía, gấm, lụa…, đồ công cụ sản xuất nông sản…
Một năm đôi khi họ đổi một đến hai lần tùy nhu cầu mà chợ thì nhiều người buôn, quả lộc to từ trên trời rơi xuống này thì chỉ một người nhận được.
Hoặc thỉnh thoảng có người dân tộc nào có món đồ đặc biệt... có giá trị mang ra đổi mà mình mua được kiếm được chút tiền to...
Nên người ta mới gọi là “lộc phù vân”.
(Phù là lửa phập phù, vân là đám mây bay nhìn thấy mà cầm không được).
Nói chung là lộc trên trời rơi xuống, không thường xuyên.
Lộc này ví như một người không phải là người môi giới nhà đất chuyên nghiệp như là thợ xây hay cai thầu... đang ngồi chơi có anh bạn kể chuyện muốn bán cái nhà... vài hôm sau lại gặp cô hàng xóm kể muốn tậu nhà cho con. Thế là anh giới thiệu hai bên mua bán xong xuôi... anh được tiền môi giới một mớ to.
Hoặc như cách đây nhiều năm trên Sơn La có anh kia đi buôn đỗ tương, đi mua nhà sàn cũ về dựng làm nhà vườn chơi trong khu vườn ở quê. Vào bản mua thế nào khi mang cái khung cũ về đến nhà dựng có ông bạn sang chơi phát hiện cột kèo mái toàn bằng gỗ pơ mu thế là đem bán. Cả anh đi mua lẫn anh phát hiện kiếm bội tiền...
Rất nhiều kiểu trúng mánh bất ngờ...
Đó là “lộc phù vân”, lộc tự nhiên trên trời rơi xuống.
Rất nhiều người không chuyên nghiệp lại chúng mánh ở các thể loại khác nhau và kiếm rất nhiều tiền... !
Đó, ý nghĩa và xuất phát của xin “lộc phù vân” cửa Thánh là từ những người buôn bán khi đó.
Bây giờ biến tướng thành: XIN lô đề cờ bạc.
Thật không hiểu nổi lòng mong cầu quá đà dẫn đến biến tướng.
- Một đằng họ bất ngờ có lộc từ trên trời rơi xuống theo kiểu: Mua bán không bao giờ thua lỗ và kiếm nhiều tiền. (Có lao động, có nỗ lực, có cả sự nhanh nhạy nắm bắt thời cơ…, cầu xin sự gia hộ để nỗ lực có kết quả, buôn may bán đắt…)
- Một đằng rõ ràng bỏ tiền đỏ đen: trúng lô ăn đề thì có tiền, không ăn thì mất tiền thậm chí bán cả nhà cửa…
Vậy mà còn gọi là lộc Thánh???
Ông Thánh mà cho lộc đến nỗi không biết bao nhiêu người đi xin xong về bán cả nhà à?
Rồi đi lễ, rồi hầu xong mà trúng quả đậm thì vái Thánh, lễ Thánh tiếp, hầu tiếp và có khi còn liên tục. Chứ mà không trúng hay mất tiền là nhẹ thì lại than thân trách phận, lại đổ căn số hẩm hiu, lại xin…cầu… và tệ hơn có khi còn quay ngoắt 180 độ “chê” Thánh không thiêng.
Lễ Thánh & Hầu Thánh xin lô đề cờ bạc là vấn nạn đáng lên án, giờ lại trở thành mốt. Từ bách gia đến thậm chí cả con đồng lắm người chăm chăm lên xin lộc Thánh ban trong canh hầu một cái là vội vàng soi số, luận số để coi hôm nay đánh con gì? Rồi “truyền tin” đến cả họ hàng, bạn bè để “chốt sổ”…. Còn quan tâm ghế hầu thế nào? Còn kính Thánh trọng đồng nữa đâu?
Vậy lấy đâu ra thành tín? Làm sao mà tu tập?
Cái tâm thành kính chẳng trọn vẹn, cái quan điểm “lộc phù vân” lệch lạc khiến người ta mờ mắt.
Tái bút: Nhắc nhở đệ tử con nhang
Một đời người các con đã lên sập hầu Thánh hay đi lễ Thánh đều phải thành tâm.
Có cầu hãy cầu cho gia trung hạnh phúc và bố mẹ cùng con cái mạnh khỏe bình an.
Chuyện vạn bất đắc dĩ hãy xin xỏ cầu nhà Thánh.
Hãy cố gắng tự lực và hạn chế không nên suốt ngày, đi đâu cũng xin xỏ mong cầu.
Vì cơ hội Thánh gia ân không nhiều. Một năm chỉ nên xin một lần đến hai lần thôi.
Nghiêm cấm xin lộc cờ bạc lô đề cửa Thánh
Cừu đen là những con cừu được sinh ra với bộ lông màu đen, trái ngược hoàn toàn với những con cừu có màu trắng mà chúng ta vẫn thường thấy, do màu lông của chúng bị chi phối bởi gen lặn.
Những con cừu đen này thường vô cùng nổi bật trong bầy, và vào thời xa xưa, chúng thường bị bán cho các lò mổ để làm thịt.
Trong tiếng Anh, từ "cừu đen" (black sheep) còn dùng để ám chỉ một thành viên nào đó trong gia đình, trong công ty, trong đội bóng... có tính cách khác biệt, nếu không muốn nói là dị biệt,
Những con "cừu đen" này thường là thành viên nổi loạn, tai tiếng, ương ngạnh, bốc đồng, rất khó kiểm soát. Những hành động, quyết định, tính cách hay tư tưởng của họ đi ngược lại tập thể.
Những con "cừu đen" này thường bị xem là của nợ, bị xa lánh, coi thường, ghét bỏ hắt hủi, bị đối xử bất công… dù đôi khi họ sở hữu cá tính và tài năng hơn người.
Trong mỗi gia đình hoặc dòng họ… thường có một đứa...cá biệt.Dân gian còn gọi là "cừu đen"
Bao nhiêu thứ xui xẻo xấu xa đều dồn hết vào đứa con này.Hầu hết các gia đình coi "cừu đen" là của nợ mà ông Trời bắt mọi người trong nhà phải chịu đựng...hoặc đôi khi người ta coi “cừu đen” là đang gánh nợ cho gia đình dòng họ
Và thật kỳ lạ nhiều cô đồng cậu đồng đang tự ví mình là con “cừu đen” của gia đình dòng họ.
Tức là họ cho rằng những chướng ngại trong gia đình mình gặp phải khi tu đạo, sự kỳ thị, sự bất công thậm chí hắt hủi, không ủng hộ, ghét bỏ...với sự dị biệt, sự khác người, khác thường là vì họ đang gánh nghiệp cho gia đình, dòng họ.
Và chẳng hiếm gặp trường hợp những cô cậu đồng tu tập rất cố gắng, hành đạo giúp bách gia chẳng nề hà, lại lo lắng hương khói gia tiên, mồ mả gia đình dòng họ tận tụy, chu đáo. Nhưng…. Nghèo vẫn hoàn nghèo, khổ thì không kể xiết…
Trong khi đó, chẳng nói đâu xa trong chính gia đình dòng họ đó có những người tâm chả bao giờ tín hoặc chỉ chớt chơ, bát nước cơi trầu có khi còn chả có, có những người chẳng bao giờ mảy may suy nghĩ hay lo toan việc hương khói, cúng lễ gia tiên tiền tổ, hay lo toan sự mồ mả đất cát gia tiên, đừng nói đến những việc tâm linh như cúng phả độ gia tiên, biếu cúng đồ mã…, chăm lo nhà thờ tổ…
Ấy thế mà những người đó lại giàu, có khi rất giàu, rất có địa vị, rất được trọng vọng trong họ hàng lẫn ngoài xã hội…
Khiến các cô cậu đồng dù rất nhất tâm cửa Thánh, nỗ lực tu đạo… đôi khi không khỏi chạnh lòng, buồn buồn tủi tủi. Nhưng chẳng dám than thở, chẳng dám trách ai… Chỉ tự an ủi rằng: Mình là con “cừu đen”, mình đang “gánh nghiệp” cho bản thân, gia đình, dòng dọ. Thôi thì phải chịu.
Một số khác thì lại có suy nghĩ: “Có được thì có mất. Tôi nhận khó khăn về mình thì ai đó sẽ có sự thuận lợi. Tôi gặp xui xẻo cũng có nghĩa là tôi đã dành lại sự may mắn cho người khác.”
Lại có những người tự an ủi mình bằng cách hy vọng rằng: “Trong gia đình hay dòng họ, nếu có những cừu đen, cho dù xấu tính xấu nết hay điên điên khùng khùng, thì cũng đừng bao giờ quay lưng với họ, vì biết đâu họ đang gánh nghiệp cho tất cả”.
Hỡi các cô cậu đồng, những suy nghĩ này thực sự không đúng. Đừng có nghĩ vậy nữa.
Chúng ta đầu thai làm con của bố mẹ mình, con cháu của dòng họ mình là nhân duyên, phải bắt nguồn từ mối liên hệ nghiệp quả và phúc phần của chính bản thân ta và cha mẹ, gia đình, dòng họ. Sau khi đầu thai sẽ hình thành nên sự cộng nghiệp và cả cộng phúc vô cùng khăng khít.
Nghiệp ta mang theo từ tiền kiếp, nghiệp ta tạo hiện kiếp, nghiệp của gia đình, nghiệp gia tiên nhiều đời. Lúc này khó có thể tách biệt rõ ràng.
Nhưng được đầu thai, được bước qua cánh cửa luân hồi để trở về, để được hữu duyên biết đến cửa Thánh, để có đạo và tu tập…đã là một thành công rất lớn rồi.
Biết bao người ngoài kia, dù là tiền kiếp có tu tập, có căn cơ tu đạo… nhưng đến giờ vẫn lăn lộn bôn ba giữa cuộc sống, vẫn chưa tìm được đường về với đạo tu của mình, vẫn chỉ quanh quẩn những tục sự cuộc sống, đến khi chết vẫn chưa tìm được đến chữ đạo chứ đừng nói đến nhập đạo tu tập. Phí hoài một kiếp luân hồi tu đạo.
Bởi thế, mới có trường hợp phải mở phủ âm (những người căn số nhưng cả đời không biết mình có căn, không ra đồng, không tu tập… đến khi thành vong linh muốn về với cửa Thánh mà không về được nữa, lang thang vất vưởng).
Thứ 2:
Ví dụ: Nếu một ngày một cô đồng được thay Thánh làm việc một ngày tại một ngôi đền thì bạn sẽ làm gì? Khi có hàng tá người nghèo, người đau khổ, người oan khuất…và đủ mọi kêu cầu, xin xỏ mọi thứ trên đời. Liệu nghe khoảng 1.000 người cầu xin thì bạn sẽ làm gì? Đồng ý, ban phát, cứu rỗi…hay từ chối?
Sạch sành sanh còn manh áo đỏ.
Đã nhập đạo cửa Đình Thần ta thì hãy nhớ:
Ở đời chưa bao giờ nghèo thì chưa thể cảm nhận nỗi cơ cực của người nghèo, chưa bao giờ tai nạn hay bị phụ bạc bị ruồng rẫy, bị cơ cực, bị hắt hủi, bị mưu hại, bị chiếm đoạt lừa đảo... thì sẽ không đồng cảm với những người bị vào hoàn cảnh đó.
Tu đạo Thánh muốn học gương Thánh đức, muốn hầu cận bên Thánh, mong về với Thánh… thì phải hiểu, phải đồng cảm và biết thương những người cơ khổ, mới biết hướng thiện, hành thiện tránh ác; mới hiểu câu hành đạo đúng pháp cứu độ bách gia là thế nào?
Mới biết vượt qua được sự tham lam, sự tính toán; mới bỏ qua được sự đua ganh danh lợi tầm thường với người đời, mới vượt qua các chướng ngại trên con đường tu đạo.
Bởi rằng, lúc đó chúng ta đã biết sống, biết tu đạo “vị nhân sinh” đúng nghĩa.
Khi “sạch sành sanh” về bên Thánh, cận Thánh… mới thấu rõ nhân sinh, biết thương người, vì người, biết đúng sai phải trái… mà làm việc cho đúng.
- Thứ ba:
Nếu chúng ta là chú “cừu siêu đen” thực sự. Vậy thì có sao???
Ta không thể khẳng định được mình không có nghiệp, cũng không thể nói rằng bao nhiêu kiếp dồn lại mình đầu thai về đây là ít nghiệp hay nhiều nghiệp. Có thể lắm, chúng ta thực sự mang theo rất nhiều nghiệp. Và gia đình, dòng họ, gia tiên chúng ta ngày nay chưa chắc đã nhiều nghiệp, họ cũng đã rất đắn đo. Nhưng cuối cùng vẫn đón chúng ta về, bằng một lí do nào đó, nhân duyên sâu dày nào đó.
Bởi vậy chúng ta là con “cừu đen” của cả gia đình của cả họ… có khi đó còn là nói giảm nói tránh ấy.
Nhưng điều đó giờ cũng chẳng sao. Bởi giờ chúng ta là con đồng Nhà Thánh, chúng ta có đạo Thánh là đạo có thể giúp chúng ta bồi phúc giải nghiệp, trả nợ oan gia trực tiếp nhất. Chúng ta có thể đã sai trong quá khứ, và cả hiện tại cũng có thể… nhưng ta đang nắm trong tay một cứu cánh thần kỳ mà không phải ai cũng có. Đó là chúng ta có căn số (gốc rễ ta có) và đã tìm được về đúng nơi mình cần đến (nhập đạo Thánh và tu tập).
Có gì mà buồn với tủi, mà cam chịu. Phải vui lên mới đúng.
Chớ có suy nghĩ một chiều về những người dù là ngoài xã hội hay trong gia đình dòng họ mình dù không tín tâm hay chưa hiểu về tâm linh, thậm chí sơ mơ chớt mớt với mồ mả, gia tiên và âm phần dòng họ nhưng lại được các cụ gia tiên cưng chiều, yêu quý hoặc được may mắn, công danh, tiền bạc… đủ thứ.
Bởi rằng: Ta có biết được chăng có thể những người đó bản thân mang theo phúc và vận khí tốt về với dòng họ gia đình. Có thể họ đã mang sẵn phúc vận của mình khi đầu thai về, họ có thể không có căn duyên tu tập kiếp này, có thể sơ mơ chớt mớt việc tâm linh… có thể nọ có thể kia thậm chí xấu tính. Nhưng họ vẫn đang có rất nhiều phúc mà tự bản thân họ có, vận khí của bản thân họ sinh ra đã tốt…chứ chưa nói là gia tiên, dòng họ bồi đắp cho họ.
Những người như vậy, gia tiên dòng họ mong đón họ về, cầu rước họ về để cái phúc, cái vận khí của họ kéo dòng họ gia đình đi lên. Họ được ưu ái, được cả phần dương trọng vọng và phần âm yêu quý. Có gì là sai đâu?
Việc họ dùng cái phúc, cái khí vận của mình trong kiếp này như thế nào, thành tựu được những gì, được bao lâu, bao xa… không phải do ta muốn hay quyết định mà được.
Và cũng chưa chắc, những cái ta đanh gánh chịu, những chướng ngại đường tu… ta đang phải vượt qua… đã là ta gánh nghiệp để họ được sung sướng đâu. Có khi ta còn đang gánh nghiệp của mình chưa xong, họ vẫn đang dùng phúc của họ chưa hết đó.
Còn nhược bằng nếu như ta có gánh nghiệp cho gia tiên dòng họ và phúc phần của ta được dồn cho họ tại một thời điểm nào đó, việc này là có nhưng chớ có so đo thiệt hơn.
Bởi rằng người đứng đầu âm phần dòng họ như bà cô tổ, ông mãnh tổ, những gia tiên có đạo… đều đã căn kê sắp xếp cả rồi. Nếu có chăng chỉ là “mượn”. Thời điểm này, gia đình người này trong dòng họ vốn có vận khí để làm quan còn thiếu một chút phúc, gia tiên có thể “mượn” phúc phần này để cho gia đình kia dùng và đạt được chức vụ tốt đó, để kéo vận khí của cả dòng họ đi lên.
Nhưng có “mượn” thì sẽ có “trả” và sẽ trả gấp nhiều lần. Giống như một khoản gửi tiết kiệm có lãi cao vậy. Thời điểm đó, phúc phần ta tạo được chưa đủ để tạo thành những chuyển biết, xoay vần khí vận gì cho bản thân ta hay con cháu ta, nhưng khi thời điểm đến phúc phần của ta kia sẽ được bồi hoàn cho ta hoặc con cháu ta, gấp nhiều lần.
- Thứ năm: Chúng ta, là những chú “cừu đỏ”
Đây mới là điều ta cần quan tâm.
Dù ban đầu ta đanh gánh nghiệp cho ai, dù là phúc phần ta tạo mà chính ta có khi không được hưởng thời điểm đó. Nhưng ta có đạo, tu theo Đạo Thánh cả đời, dần dần, liên tục, cứ tiếp tục tu tập đúng, hành đạo đúng, nghiệp bớt dần, phúc tích thêm... và gia tiên luôn trân quý những người con tu đạo của dòng họ (dù chúng có mang theo nhiều nghiệp hay phúc về với dòng họ này).
Và sẽ gia hộ dẫn chỉ cho chúng ta: Trước là đường tu luôn có gia tiên bên cạnh, uốn nắn, chỉ bảo, thậm chí đỡ hộ cho cũng không ít
Sau nữa là từ từ giúp đỡ để những mệt mỏi cuộc sống sẽ dần dần nhẹ nhàng, những chướng ngại tu tập sẽ không còn quá khó để vượt qua. Âm thuận dương sẽ hòa, ta đang tích âm phúc, sẽ đến lúc gia đình thấu hiểu, yêu thương và dần hòa hợp, cuộc sống mọi thứ sẽ dần ổn định…
Quan trọng nhất, sẽ đến thời điểm nghiệp kia phải hết, phúc kia đủ lớn để xoay vần vận khí hoặc của ta, hoặc của con cháu ta được hưởng.
Ta, dù có là cừu đen khi đến nhân gian này, thì bằng tu tập chính đạo đã dần dần được tẩy trắng và nếu tu tốt còn trở thành “cừu đỏ”, là người mang may mắn, phúc phần, vận khí đến cho chính bản thân ta và gia đình, con cháu ta và các thế hệ mai sau.
“...Nhớ ơn bành tổ cao dày
Nhờ ơn có tổ như cây có cành
Tuy không được trường sinh vững thế
Cũng mở đường thế hệ mai sau
Muốn sang ta phải bắc cầu
Muốn ăn quả ngọt bảo nhau vui trồng”
SÁM HỐI NHƯ THẾ NÀO ĐỂ
TIÊU TRỪ NGHIỆP CHƯỚNG ?
* * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * *
Làm thế nào để nghiệp chướng tiêu trừ? Đại sư nói với tôi, phải “Sám hối”, cùng Bồ Tát Phổ Hiền đã nói “Sám trừ nghiệp chướng” là một ý nghĩa. Tôi hỏi đại sư, cách sám trừ như thế nào? Ngài nói với tôi bốn chữ: “Sau Không tái phạm”. Câu nói này nói được dễ dàng, nhưng làm thì thật là khó. Lỗi lầm chỉ có một lần, không thể lăp lại, đây gọi là chân sám hối. Ngài nói với tôi, không cần phải vào chùa thắp hương lễ lạy, đi cầu nguyện, không cần thiết. Vào lúc đó tôi mới học Phật, ngay cả Tam Quy Y cũng chưa thọ. Ngài dạy tôi không cần thiết phải vào trong chùa lạy Phật, quan trọng nhất chính là “cải đổi tự làm mới”. Đây là lời của đại sư Chương Gia dạy tôi.
Chúng ta biết được lỗi lầm của chính mình, phát hiện lỗi lầm của chính mình, đây chính là khai ngộ. Người giác ngộ, sau khi ngộ rồi, đáng quý nhất là phải tu hành. “Tu hành” là gì? Chính là cải lỗi, đem lỗi lầm của chính mình cải đổi lại, đây gọi là tu hành. Cho nên, tu hành là tu sửa lỗi lầm của chính mình, tu sửa hành vi sai lầm của chính mình. Do đây có thể biết, tu hành không chỉ là niệm Phật tụng kinh, không phải vậy. Việc tụng kinh niệm Phật là phương pháp của tu hành. Người chân thật tu hành phải hiểu được là đem hành vi sai lầm của mình cải đổi lại. Tu từ chỗ nào? Tổ sư đại đức dạy bảo chúng ta “tu từ căn bản”. Cái gì là căn bản? “Khởi tâm động niệm” là căn bản. Đây là phương pháp tu hành cao minh nhất. Ta nói chuyện sai rồi, lần sau ta cải đổi; ta làm sự việc này sai rồi lần sau ta không dám làm nữa. Căn bản là từ khởi tâm động niệm
Từ chỗ này mà cải sửa thì thân khẩu của bạn tự nhiên liền không có lỗi lầm.
Tại Sao Mọi Người Hay Đi Lễ Ngày Mùng 1 Hôm Rằm?
Từ xưa ta thường thấy các cụ hay đi lễ chùa, đền, điện,phủ vào ngày mùng 1 và 15 âm lịch (hàng tháng)
Vậy tại sao mọi người lại chọn 2 ngày này để lễ chùa cúng chư Phật, Thánh thần?
Việc đi chùa vào ngày mùng Một và ngày Rằm có phải quy định của đạo Phật hay không?
Nhiều Phật tử có thói quen ngày nào cũng thắp hương tụng Kinh và ăn chay trường nhưng một số thì thực hành những việc làm trên vào những ngày 1, 8, 14, 15, 18, 23, 24, 28, 29, 30 âm lịch trong tháng. Vào những ngày này họ sẽ kiêng ăn thịt, cá, ngăn cấm sát sinh. Những ngày này họ luôn dâng hoa tươi, quả ngon thanh tịnh để dâng cúng Tam Bảo và có cả chư Thiên (ở ban Trung Thiên).
Người do làm ăn bận rộn không có điều kiện ăn chay nhưng cũng không quên dâng hoa quả xôi, chè phẩm vật lên ban Tam Bảo và chư Thiên hôm mùng 1 ngày rằm. Tại sao lại có tục lệ này?
Đạo Phật có quy định phải đi lễ chùa mùng Một & ngày Rằm kO?
Theo cuốn "Vui buồn giỗ tết" của tác giả Trần Ngọc Lân, đi lễ chùa là tập quán của nhân dân chứ không phải quy định của đạo Phật, vì thời Đức Thích - ca còn sống, các sư đi lưu động khắp đất nước Ấn Độ thuyết pháp truyền giáo chứ chưa hề có chùa.
Theo các cụ xưa cũng cho rằng: Mùng một ngày rằm là những ngày Chư Phật chư Bồ-Tát thường giáng hạ tức là xuống nhân gian hòa vào dòng người để xem xét mọi sinh hoạt việc làm tốt xấu của mỗi người chúng ta.Những ngày thường khác thì khi có ai cầu thỉnh các Ngài sẽ cảm ứng mà đến chúng minh và lắng nghe lời thỉnh cầu của quý vị và ủng hộ gia trì cho nếu lời Cầu nguyện của quý bạn là chính đáng
Chính vì vây dù bận hay hoàn cảnh khó khăn đến mấy thì các gia đình Việt cũng tùy theo hoàn cảnh của mình dâng hoa, quả phẩm vật thắp hương Tam Bảo, Chư Thiên và gia tiên tại nhà. Người không có nhà cửa, không có ban thờ Tam Bảo hoặc có điều kiện thời gian nhiều hơn sẽ đến Chùa lễ lạy với lòng thành để được chư Phật chứng minh và gia trì ủng hộ. Một số bạn là Phật tử đáng quý do lòng thành tâm những ngày này đều làm phóng sinh dâng hoa quả nơi chùa hay nơi tượng Phật. Đó là nghĩa cử cao đẹp rất đáng trân trọng.
Cơ sở khoa học: Việc đi lễ chùa trong 2 ngày mùng Một và ngày Rằm?
Tuy nhiên, việc lựa chọn lễ Phật trong 2 ngày mùng Một và Rằm (tiếng Sanscrit Ấn Độ gọi là ngày ekadasi) thực ra lại có cơ sở khoa học.
Chúng ta biết rằng âm lịch dựa vào thời gian Mặt Trăng quay quanh Trái Đất trên một quỹ đạo hình elip.
Theo định luật Newton, lực hút giữa chúng gây ra hiện tượng thủy triều ở bất cứ nơi nào có nước, chứ không chỉ ở biển, dĩ nhiên là cả trong thân thể con người (với 75% nước).
Vào 2 ngày này, Mặt Trăng tiến tới gần Trái Đất nhất, lực thủy triều tăng tối đa ảnh hưởng xấu đến tâm sinh lý con người nên chúng ta thường không minh mẫn, hay cáu gắt và dễ gặp chuyện xui xẻo
Trong một bài viết có nhan đề "Mặt trăng có điều khiển tâm tính của bạn không?" đăng trên tạp chí New Sciences, tác giả Edga Zigler cũng cho biết, sở Cứu hỏa Phoenix thuộc tiểu bang Arizona (Mỹ) báo cáo, số cuộc gọi điện thoại tăng rõ rệt vào những đêm trăng rằm.
Các vụ phạm tội và tai nạn cũng tăng vọt khi trăng tròn.
Tiếng Anh cũng sử dụng những cụm từ liên quan đến Mặt Trăng như "lunancy" (có nghĩa là điên rồ – xuất phát từ tiếng Latinh với "luna" là mặt trăng), hay "moonstruck" (có nghĩa là hâm dở, trong đó "moon" cũng là mặt trăng)...
Chính bởi những tương tác tiêu cực của Mặt Trăng lên tâm lý con người vào hai ngày mùng Một và Rằm nên phép dưỡng sinh Yoga của Ấn Độ khuyên người ta nên nghỉ ngơi, tĩnh tâm để được an toàn, thoải mái trong 2 ngày đó và đi lễ chùa là một trong những cách để con người được thoải mái về tâm tưởng.
....................................
ĐỒNG NHÂN Cứ Chăm Đến ĐỀN
ĐIỆN, PHỦ, CHÙA Là Tốt?
Đi lễ ĐỀN, ĐIỆN, PHỦ, CHÙA... trong những ngày rằm, mùng 1 hay Tết là thói quen của đa số người Việt. Nhưng với các đồng nhân, thanh đồng trong đạo Mẫu, việc năng đi lễ tại các ĐỀN, ĐIỆN, PHỦ, CHÙA có thật sự tốt hay không?
Trong tâm linh: các linh hồn tương tác với người trần bằng nguồn năng lượng
Con người tương tác với nhau qua trường năng lượng của mình, còn trong thế giới tâm linh, các linh hồn cũng tương tác qua lại với nhau và cả với người trần bằng trường năng lượng.
Chư Phật chư Thánh dùng năng lượng tâm linh cao của mình giáo hóa và tiếp độ các vong linh thấp cũng như can thiệp một số cái được tạo hóa cho phép cả cho người trần.
Đặc biệt đối với người có căn thì sự cảm nhận, tiếp nhận nguồn năng lượng này lại càng mạnh mẽ.
Nguồn năng lượng tâm linh luôn đa dạng
Nhưng cũng bởi nguồn năng lượng tâm linh luôn rất phong phú đa dạng, có tốt có xấu:
- Năng lượng của Phật, của Thánh hiền thần linh chính tắc thì tốt
- Năng lượng của ngã quỷ, của hung thần và tà thần vong tà… thì xấu.
Ngôi chùa ngôi đền linh thiêng và người chủ trì hay thủ nhang ở đó đạo đức tốt
Tu tập tốt thì dù ngôi đền chùa hay điện đó to bé không quan trọng, Ta cũng cảm nhận được trường năng lượng tốt (hay còn gọi là linh khí Hay ngôi đền điện chùa đó linh thiêng), cảm thấy khoan khoái, dễ chịu, ấm áp và được sự che chở.
Nhưng nếu đến một ngôi chùa đền điện dù to đẹp hoành tráng mà người chủ trì hay thủ nhang không đi đúng đạo và không có đức thì ngôi đền chùa đó chỉ như nhà triển lãm tượng, giống những nơi trưng bầy và khoe khoang đời thường.Thậm chí nếu các vị đứng đầu nơi đó mà nhập ma thì khi bước vào sẽ chỉ nhận được trường năng lượng xấu thậm chí gây cảm giác lạnh lẽo, sợ hãi.
Cũng giống như người hiền lành đạo đức trong sáng, tâm thiện thì tỏa ra trường năng lượng tốt; người tà tâm, suy đồi đạo đức thì năng lượng xấu. Một con người đạo đức hay xấu xa dù thế nào, cũng không thể giấu diếm được trước các đấng siêu hình thậm chí cũng khó dấu diếm được các vị tu hành có đạo hạnh hay các nhà tâm linh có tu tập cảm nhận được năng lượng.
Chọn nơi mà đến để nhận năng lượng của Phật, của Thánh hiền, của chính Thần
Vậy các con nếu là đồng nhân, muốn tỏ lòng thành kính với đấng Thánh Thần, muốn được bề trên chứng tâm gia ân che chở, phù hộ, muốn xin cầu một chút ân duyên năng lượng để an yên lại căn mệnh, bình an thần trí... hãy năng đến các đền chùa linh thiêng, các địa linh để tiếp nhận năng lượng, để nhận sự tác động tốt bởi năng lượng của Phật, của Thánh hiền, của chính Thần.
- +Các con lại nên tránh những nơi có năng lượng xấu dù được rao giảng lôi kéo hay nhìn bề ngoài có hoành tráng đến đâu, nổi tiếng đến đâu.
- +Các con cũng hạn chế đến nơi có nhiều mồ mả, nơi có năng lượng thi khí (khí từ người chết, thi thể), năng lượng âm khí, năng lượng địa mạch âm sát và năng nượng oán khí... Nó ảnh hưởng rất xấu đến cuộc sống của các con từ sức khỏe, tài vận và đặc biệt là đến căn mệnh của người có đồng...
TRỪ KHI các con có năng lực nội tại đủ tốt để chế ngự/điều hòa năng lượng này hoặc khi có nhiệm vụ hành pháp ĐỘ VONG
Văn Khấn Gia Tiên Mùng 1 Và Ngày Rằm Hàng Tháng
Văn khấn gia tiên mùng 1 và ngày rằm là bài cúng tổ tiên cúng gia thần được các gia đình Việt Nam thực hiện vào ngày mồng một và chiều tối ngày rằm hàng tháng nhằm cầu mong một tháng bình an may mắn thành đạt Mời các bạn cùng tham khảo bài viết tổng hợp dưới đây của XEMBOIONLINEMIENPHI.NET để biết cách sắm lễ vật cúng gia tiên ngày rằm bài cúng ngày rằm và mùng một âm hàng tháng
Bài cúng gia tiên mùng 1 và ngày rằm
1. Tại sao phải cúng gia tiên mùng 1 và ngày rằm
Theo quan niệm lâu đời của người Việt Nam, ngày Rằm gọi là ngày vọng
Vọng có nghĩa là nhìn xa trông rộng, ngày mặt trăng, mặt trời đối xứng nhau ở hai cực xa nhất trong tháng
Người xưa cho rằng, ngày này mặt trăng mặt trời nhìn rõ nhau thấu suốt nhau soi chiếu vào mọi tâm hồn
Con người trở nên sáng suốt trong sạch đẩy lùi được mọi đen tối vẩn đục trong lòng.
Còn ngày mùng 1 đầu tháng âm lịch gọi là ngày sóc.Nguyên nghĩa từ sóc là khởi đầu bắt đầu.Ngày mùng 1 là ngày bắt đầu của một tháng nên gọi là ngày sóc.
Người Việt ta coi ngày Sóc Vọng là ngày tưởng nhớ tổ tiên cúng ông bà ông vải
Ngày Sóc Vọng còn có ý nghĩa "Cát tường" xem ngày tốt xấu thấy là ngày tốt nhất trong tháng
Cúng vào mùng 1 và ngày Rằm hoặc cúng vào chiều ngày 30 và chiều ngày 14 hàng tháng đều được.
Theo phong tục truyền thống thì trong những ngày này người ta cúng với ý nghĩa:
Ngày mùng Một (ngày Sóc): Ngày khởi đầu của một tháng mới cầu điều may mắn và thành công.
Ngày rằm (ngày Vọng): Ngày có sự thông suốt của mặt trăng và mặt trời tức là trong ngày này thần thánh tổ tiên thông thương với con người thì con người chỉ cần thật tâm cầu nguyện sẽ dễ dàng gửi được những nguyện cầu hơn. Hơn nữa, lễ cúng trong ngày này còn thể hiện mong muốn con người sáng suốt trong sạch đẩy lùi những thứ xấu xa trong lòng.
Chính vì vậy, việc khấn cúng gia tiên vào ngày mùng 1 và ngày rằm (khấn cúng ngày sóc, ngày vọng) là việc mà các con cháu nên làm hàng tháng để bày tỏ lòng biết ơn đối với các vị tổ tiên.
2. Cách làm lễ cúng gia tiên
Thờ cúng thần linh gia tiên là một phong tục lâu đời của người Việt
Đây là cách người sống thể hiện sự biết ơn tri ân với thần linh và những người đã khuất cầu mong sự an ổn may mắn đến với gia đình
Vào mỗi ngày rằm hằng tháng, mọi gia đình lại chuẩn bị đồ cúng để dâng lên ban thờ gia tiên và chư Phật thần linh.
Nhưng cần chuẩn bị đồ cúng cho ngày rằm sao cho đúng và đủ có lẽ chưa nhiều người biết.
Ngày xưa, mâm cúng rằm thường rất cầu kỳ, phải có cả đồ chay đồ mặn
Tuy nhiên, do cuộc sống hiện đại rất bận rộn, nhiều gia đình không có thời gian chuẩn bị những mâm cúng cầu kỳ nên đồ cúng rằm đã được giản lược đi khá nhiều.
Với ý nghĩa ngày tốt lành nhất trong tháng nên khi cúng vào ngày rằm hay ngày mùng 1 hàng tháng, người Việt không cúng cầu kỳ, đơn giản chỉ là những đồ lễ như:
Và một thứ không thể thiếu là văn khấn gia tiên mùng 1 và ngày rằm. Ở mỗi nơi trên đất nước Việt Nam lại có những quan điểm khác nhau về cúng lễ những ngày này. Có nơi cúng vào mùng 1 và ngày 15, nhưng cũng có nơi lại cúng vào chiều ngày 30 tháng trước và ngày 14 Âm lịch hàng tháng. Dù cúng theo vào thời điểm nào thì trước khi cúng gia tiên thì phải cúng ông thần Thổ Công trước. Như vậy mọi điều nguyện cầu mới phải phép và đến được với ông bà, ông vải và tổ tiên.
Các nghi thức cúng gia tiên mùng 1 và ngày rằm
Khi cúng gia tiên thì trọng tâm cúng thần thức của người đã khuất khi trở về cảnh giới an lạc.Người ta gọi đây là “âm siêu dương thái” Nghi thức cúng gia tiên để đạt được những kết quả viên mãn là:
Tình vật, tịnh tài và tịnh tâm nên mọi thứ dâng cúng đều phải trong sạch, tuyệt đối không cúng tiền giả, không cúng những đồng tiền có nguồn gốc bất lương, không cúng những thực phẩm tanh hôi,... Ngoài ra có một số nơi còn không cúng đồ có nguồn gốc sát sinh vì họ cho rằng người mất không hưởng trực tiếp đồ cúng phạn thực nên chỉ dùng đồ hỷ thực hoặc hiếu thức mà thôi.
Cúng cần có sự nôi dưỡng, hoặc phóng sinh thể hiện lòng từ bi hay công đức của gia chủ và tiêu trừ được những nghiệp chướng trong quá khứ. Đây là cách giúp cho người thân tránh được những họa nạn không mong muốn về những nghiệp chướng này.
Không giải hạn bằng bùa ngải, bởi không thể dùng người khác thay thế mình, chỉ có mình mới có khả năng giải trừ các tai ách. Bất luận nguyên nhân nào cũng có nhân - quả.
Đọc văn khấn gia tiên với lòng thành cao cả, nguyện cầu những điều tốt đẹp cho gia đình, bản thân và có thể là cả xã hội.
3. Cách khấn vái tổ tiên vào ngày rằm, mùng một
Ăn có mời, làm có khiến… Đối với việc cúng lễ cũng vậy. Đồ cúng lễ dù có thịnh soạn, trang trong nếu con cháu chỉ đặt lên bàn thờ, không mời thì tổ tiên ông bà ắt không phối hưởng. Bởi vậy trong buổi cúng, con cháu phải KHẤN. Người Việt vốn trọng nghi lễ, cho nên mỗi dịp cúng vái đều có văn khấn riêng.
Khấn là lời cầu khẩn lâm râm trong miệng khi cúng, tức là lời nói nhỏ liên quan đến các chi tiết về ngày tháng năm, nơi chốn, mục đích buổi cúng lễ, cúng ai, tên những người trong gia đình, lời cầu xin, và lời hứa.
Trước khi khấn, gia trưởng vái ba vái ; sau khi khấn xong, gia trưởng lễ (lạy) 4 lễ và vái thêm 3 vái – ta gọi là 4 lễ rưỡi (xem thêm chi tiết về “vái và Lạy” phần sau).
Trong lời khấn, gia trưởng sẽ nói rõ ngày, tháng, năm và lý do làm lễ (và cả các điều xin, nếu có). Phải mời các cụ kỵ từ ngũ đại trở xuống, cùng với chú bác anh chị em vừa mới khuất.
Trước đây lời khấn thường do “thầy cúng” làm và dùng chữ Nho. Nhưng ngày nay việc dùng chữ Nho cho văn khấn rất hiếm. Dân gian thích dùng chữ Việt hơn, vì chữ Việt dễ viết và đọc, mạch lạc không bị hiểu lầm…
4. Văn khấn gia tiên ngày rằm, mùng 1 hàng tháng
4.1. Văn khấn Thổ Công ngày Rằm, mùng 1
Nam mô A Di Đà Phật ! (3 lạy)
Con lạy chín phương Trời, mười Phương Chư Phật, Chư Phật mười phương.
Con kính lạy Hoàng thiên, Hậu Thổ chư vị Tôn thần.
Con kính lạy ngài Đông Thần Quân
Con kính lạy ngài Bản gia thổ địa Long Mạch
Con kính lạy các ngài Ngũ phương, Ngũ thổ, Phúc đức Tôn thần
Con kính lạy ngài tiền hậu địa chủ tài thần
Con kính lạy các Tôn thần cai quản trong khu vực này.
Tín chủ (chúng) con là:…… Ngụ tại: ………
Hôm nay là ngày … tháng … năm … tín chủ con thành tâm sửa biện hương hoa lễ vật
Kim ngân trà quả đốt nén hương thơm dâng lên trước án. Chúng con thành tâm kính mời: Ngài Kim Niên đương cai Thái Tuế chí đức Tôn thần, ngài Bản cảnh Thành hoàng Chư vị Đại Vương, ngài Đông trù Tư mệnh Táo phủ Thần quân, ngài Bản gia Thổ Địa. Long Mạch Tôn thần, các ngài Ngũ Phương, Ngũ Thổ, Phúc đức chính thần, các vị Tôn thần cai quản trong khu vực này.Cúi xin các Ngài nghe thấu lời mời thương xót thương tín chủ giáng lâm trước án, chứng giám lòng thành, thụ hưởng lễ vật, phù trì tín chủ chúng con toàn gia an lạc công việc hanh thông. Người người được bình an, lộc tài tăng tiến, tâm đạo mở mang, sở cầu tất ứng, sở nguyện tòng tâm.
Chúng con lễ bạc tâm thành, trước án kính lễ, cúi xin được phù hộ độ trì.
Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần kèm 3 lạy).
4.2. Bài khấn gia tiên Nôm 1
- Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư phật mười phương.
- Kính lạy ngài Hoàng Thiên Hậu Thổ chư vị Tôn thần.
- Con kính lạy ngài Đông Trù Tư mệnh Táo phủ Thần quân, Ngũ phương Ngũ thổ, Phúc đức chính Thần.
- Con kính lạy các ngài Thần linh cai quản trong xứ này.
- Các cụ Cao Tằng Tổ khảo, Cao Tằng Tổ tỷ
- Thúc bá đệ huynh và các hương linh nội, ngoại.
Hôm nay là ngày ........ tháng ..... năm ..............
Tín chủ con là .................................................. ....
Ngụ tại ........................................................ cùng toàn gia quyến.
Thành tâm sửa biện hương hoa, lễ vật, trà quả và các thứ cúng dâng, bày lên trước án.
Chúng con thành tâm kính mời:
- Các vị Tôn thần cai quản trong khu vực này.
- Hương hồn Gia tiên nội, ngoại
Cúi xin các Ngài thương xót tín chủ
Giáng lâm trước án. Chứng giám lòng thành. Thụ hưởng lễ vật
Phù trì tín chủ chúng con:
Toàn gia an lạc, mọi việc hanh thông
Người người được chữ bình an,
Tám tiết vinh khang thịnh vượng,
Lộc tài tăng tiến, tâm đạo mở mang
Sở cầu tất ứng, sở nguyện tòng tâm.
Giãi tấm lòng thành, cúi xin chứng giám.
4.3. Văn khấn gia tiên mẫu 2
Con tấu lạy chín phương trời mười phương Phật Chư Phật mười phương.
Con tấu lạy Hoàng Thiên Hậu Thổ.
Con tấu lạy Thần Linh Đất nước, Thổ thần bản cảnh, Quan đương niên đương cảnh, Thành Hoàng bản thổ, Táo Quân thần chủ, Chúa đất long mạch, Thần tài, Tiền chủ, Hậu chủ, Táo phủ thần quân, Tả Long hữu hổ tiếp dẫn phúc đức tại gia tại số nhà: ……………………………...................................
Con tấu lạy Chư vị Liệt Tổ Liệt Tông ngũ đại đồng đường dòng họ …………………………………
Con tấu lạy Cao Tằng Tổ Khảo, Cao Tằng Tổ Tỷ, Cô Gi Tỷ Muội, Thúc Bá Đại Huynh, Chầu Bà Tổ Cô, Cô Bé tại gia, Cậu Bé tại gia, các Chân Linh thần tử Hữu danh vô thực, Hữu thực vô danh dòng họ: ……………………………………
Hôm nay là ngày ....................… Tháng ..........................…… Năm………………………
Phu thê hai họ con thành tâm có nén nhang bát nước ………. Dâng kính Phật Thánh
Các Quan, Chư vị Tổ Tông chứng minh công đức, chứng tâm nhận lễ, phù hộ độ trì ………………… Xin các ngài phụ hộ cho gia chung chúng con được nấp bóng cửa nhà Ngài,...... phù hộ độ trì cho chúng con được đắc kỳ tài được sai kỳ lộc, phu thê hòa thuận, Gia chung bình an, lộc tài vượng tiến.
( Ai chưa lập gia đình thì thay từ Phu thê bằng Gia chung hay đơn giản là Chúng con )
4.4. Văn khấn gia tiên ngày Rằm tháng 4
- Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương.
- Con kính lạy Hoàng thiên Hậu Thổ chư vị Tôn thần.
- Con kính lạy ngài Bản cảnh Thành Hoàng, ngài Bản xứ Thổ địa, ngài Bản gia Táo quân cùng chư vị Tôn thần.
- Con kính lạy Tổ tiên, Hiển khảo, Hiển tỷ, chư vị Hương linh (nếu bố, mẹ còn sống thì thay bằng Tổ Khảo, Tổ Tỷ)
Tín chủ (chúng) con là:………………………………………………….................
Ngụ tại:……………………………………………………………..........................
Hôm nay là ngày………………………..gặp tiết……………………..(ngày rằm, mồng một), tín chủ con nhờ đất ơn đức trời đất, chư vị Tôn thần, cù lao tiên tổ, thành tâm sắm lễ, quả cau lá trầu, hương, hoa trà quả, thắp nén tâm hương dâng lên trước án.
Chúng con kính mời: Bản cảnh Thành hoang Chư vị Đại Vương, ngài Bản xứ Thần linh Thổ địa, ngài Bản gia Tao quân, Ngũ phương, Long Mạch, Tài thần. Cúi xin các giáng lâm trước án, chứng giám lòng thành thụ hưởng lễ vật.
Chúng con kính mời các cụ Tổ Khảo, Tổ tỷ, chư vị Hương linh gia tiên nội ngoại
Họ….................. cúi xin thương xót con cháu linh thiêng hiện về, chứng giám tâm thành thụ hưởng lễ vật.
Tín chủ con lại kính mời các vị Tiền chủ, Hậu chủ ngụ tại nhà này, đất này đồng lâm án tiền, đồng lai hâm hưởng, phù hộ cho gia chúng con luôn luôn mạnh khỏe,mọi sự bình an, vạn sự tốt lành, làm ăn phát tài, gia đình hòa thuận.
Chúng con lễ bạc tâm thành, trước án kính lễ, cúi xin được phù hộ độ trì.
4.6 Văn khấn gia tiên bằng âm Hán
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đệ …. Thập … niên, tuế thứ … nguyệt, … nhật … tỉnh (Thành phố thuộc Trung ương), … huyện (thị xã), … xã (phường, thị trấn), … thôn (khu phố, ấp).
Trưởng nam (hoặc tự tôn): …. Cung thừa mẫu mệnh (cha chết, mẹ đang còn sống), hiệp dữ chư thúc, dữ dồng / bào đệ, tỷ, muội, nội, ngoại, tử, tôn, hôn, tế đẳng / toàn gia kính bái (xướng những ai đang có mặt trong lúc hành lễ).
Kim nhân: Hiển Khảo (tỷ) hoặc Tổ khảo (tỷ) hoặc Tằng tổ khảo (tỷ) … húy nhật.
Cẩn dĩ: … chi nghi, cung trần bạc tế.
Hiển: … tôn linh vi tiền, cảm kiền cáo vu:
Viết: … (tùy theo từng lễ)
Kính kỵ: … liệt vị chư tiên linh, cập phụ vị, thương vong đẳng tòng tự, đồng lai hâm hưởng.
Kính cáo: Bản gia đông trù tư mệnh Táo phủ thần quân, bản gia tiên thánh, tiên sư, bản viên thổ công, bản đường ngũ tự gia thần, mặc thùy chiếu giám, đồng lai giám cánh, tích chi hanh cát.
4.5. Bài văn khấn mùng 1 ngoài trời
Kính lạy Hoàng Thiên Hậu Thổ chư vị Tôn thần.
Con kính lạy ngài Đông Trù Tư mệnh Táo phủ thần quân.
Con kính lạy các ngài Thần linh, Thổ địa cai quản trong xứ này.
Con kính lạy ngài Bản gia Tiền chủ ngụ trong nhà này.
Tín chủ con là... sinh năm...
Hôm nay là ngày mùng 1 tháng… năm... Âm lịch.
Tín chủ con thành tâm sắm lễ, hương hoa trà quả, đốt nén tâm hương dâng lên trước án thành tâm kính mời: Đức Hoàng thiên hậu Thổ Chư vị Tôn Thần ngài Bản cảnh Thành Hoàng, ngài Bản xứ Thổ Địa, ngài Bản gia Táo Quân cùng Chư vị Tôn thần, ngài Bản gia Tiền Chủ.
Cúi xin Chư vị Tôn thần Bản gia Tiền Chủ thương xót tín chủ, giáng lâm trước án chứng giám lòng thành, thụ hưởng lễ vật, phù trì tín chủ chúng con toàn gia an ninh khang thái, vạn sự tốt lành, gia đạo hưng long thịnh vượng, lộc tài tăng tiến, tâm đạo mở mang, sở cầu tất ứng, sở nguyện tòng tâm.
Chúng con lễ bạc tâm thành, trước án kính lễ, cúi xin được phù hộ độ trì.
5. Văn khấn tổ tiên ngày mùng 1 Tết
Kính lạy: Các cụ Tổ khảo, Tổ tỷ, bá thúc huynh đệ, đường thượng tiên linh, và các hương hồn nội tộc, ngoại tộc.
Hôm nay là ngày mùng một Tết, tháng Giêng, năm …………………..
Chúng con là: ………………………………Tuổi……………
Hiện cư ngụ tại số nhà …….. Đường……………………..Khu phố …………….
Phường ……………………Quận…………………………..Thành phố………………….
Nay theo tuế luật,âm dương vận hành tới tuần Nguyên đán, mồng một đầu xuân,mưa móc thấm nhuần, đón mừng năm mới. Con cháu tưởng niệm ân đức Tổ tiên như trời cao biển rộng, khôn đem tấc cỏ báo đáp ba xuân
Do đó chúng con cùng toàn thể con cháu trong nhà sửa sang lễ vật,oản quả hương hoa kính dâng trước án.
Con lại kính mời các cụ tiên linh,Cao tằng Tổ khảo, Cao tằng Tổ tỷ, Bá thúc đệ huynh,Cô di tỷ muội, nội tộc, ngoại tộc, chư vị hương linh, cúi xin giáng phó linh sàng hâm hưởng lễ vật. Tín chủ lại kính mời các vị vong linh tiền chủ, hậu chủ, y thảo thụ mộc ở trong đất này, nhân tiết giao thừa, giáng lâm trước án, chiêm ngưỡng tân xuân, thụ hưởng lễ vật.
Nguyện cho chúng con tân niên khang thái, ngày đêm tốt lành thời thời được chữ bình an
Gia đạo hưng long, thịnh vượng.Giải tấm lòng thành cúi xin chứng giám. Phục duy cẩn cáo!
Văn Khấn Tứ Phủ:
Ngắn Gọn Đầy Đủ & Hay Nhất
Các bạn căn đồng số lính có căn hầu đồng con cha con mẹ khi đi lễ đền phủ... không thể không thuộc bài văn khấn Tứ Phủ
Nhưng bài khấn quá dài thì các thanh đồng còn non trẻ sẽ khó lòng mà thuộc được
Bài văn khấn quá ngắn lại chưa đúng ý nguyện mong cầu của các đồng cựu thầy đồng.
Bản đầy đủ dành cho các thầy và Bản Văn khấn ngắn gọn dành cho các con nhang đệ tử.Có hướng dẫn cách khấn sao cho linh nghiệm nhất đối với con nhang đệ tử ở dưới bài viết
Hôm nay là ngày.. Chúng con đến đây có chút hương hoa phẩm quả, lễ mặn (chú ý dâng gì thì kêu đó nghe - không có lễ mặn mà kêu lễ mặn là phải tội đó, nên nhớ không bày lễ mặn ở cúng Phật) xin dâng lên các chư tiên chư thánh để cảm tạ ơn đức của các ngài đã phù hộ độ trì cho chúng con suốt thời gian qua.Vừa qua được sự lưu tâm độ trì của các ngài mà công việc (Nếu đã xin việc gì cụ thể mà thành công thì xin trình bày) của con đã hanh thông vẹn tròn Chúng con xin được cảm tạ và lễ tạ tất cả các Ngài.
Hôm nay chúng con tới đây với tất cả lòng thành kính xin các ngài phù hộ độ trì cho con các việc sau: ( Nêu cụ thể các việc cần xin, các khó khăn có thể gặp phải và có thể cả hướng định giải quyết ra sao).
Một lần nữa thay mặt gia chung chúng con con xin các ngài giang tay cứu giúp cho chúng con. Chúng con xin đa tạ ...( tên vị thánh bản đền) và toàn thể các chư tiên, chư thánh.
Nam mô a di dà phật (3 lần).
Một số lưu ý về bài khấn trên:
Do các ngôi vị của nhà thánh rất nhiều chúng ta chỉ khấn: Toàn thể chư tiên, chư thánh là đủ hết cả rồi, không sót một ai. Nên các bạn cứ an tâm mà khấn.
Ngôi đền nào cũng có một vị chủ đền nên sau khi khấn các chư tiên, chư thánh rồi thì phải khấn tên của vị thánh chủ đền. Vị thánh chủ đền là vị thánh chủ nhà của ngôi đền, còn các ngôi khác tuy quyền cao hơn cũng chỉ là khách, nên không thể không khấn tên vị thánh chủ đền được. Thử hỏi cõi dương trần mình đến nhà người ta chơi mà không chào chủ nhà, chỉ chào mỗi khách thôi thì chủ nhà sẽ hành xử với chúng ta ra sao? Khấn mà quên vị thánh chủ đền thì coi như các lời xin cầu của chúng ta là vô nghĩa, thậm chí còn nguy hại vì mình vô lễ với vị thánh chủ đền.
Cũng lưu ý khi khấn bên cung Phật thì đoạn "chư Phật, chư Tiên, chư Thánh" thì chỉ cần khấn chư Phật thôi, còn khấn bên cung Thánh thì có thể khấn chư tiên, chư thánh thôi.
Khi bắt đầu khấn thì khấn các ngôi chư Phật, chư Tiên, chư Thánh vì ngôi cao hơn, sau đó mới đến vị thánh chủ nhà. Còn khi ra đi thì phải xin phép chủ nhà rồi mới chào các vị khách mới đúng. Thậm chí, chúng ta khấn vị thánh chủ đền rồi mới đến chư tiên, chư thánh cũng không sao. Bởi vị thánh chủ đền là chủ nhà còn các chư tiên, chư thánh chỉ là khách.
Để khấn khi đến hay khấn chào thì nên khấn ở Ban Công Đồng hoặc ở Ban vị thánh chủ đền là được. Sau đó có thể chỉ đến vái các ban khác nếu không có đủ thời gian. Tất nhiên, nếu có nhiều thời gian chúng ta có thể khấn thêm ở các ban khác.
2. Bài khấn Tứ Phủ đầy đủ nhất (Dành cho các đồng thầy)
Con niệm Nam Mô A Di Đà Phật (3 lần)
- Con lạy chín phương Trời, con lạy mười phương Đất, con lạy mười phương chư Phật, chư Phật mười phương,
- Nam Mô Bản sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
- Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật.
- Nam Mô Đương Lai Hạ Sinh Di Lặc Tôn Phật.
- Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.
Con Lạy Chư Đại Bồ Tát, Chư Hiền Thánh Tăng.Hộ Pháp Chư Thiên, Thiện Thần Bồ Tát.
Con lạy Tam Vị Đức Vua Cha Đức Tam Thập Tam Thiên Thiên Chúa Đế Thích Đề Hoàn Nhân Thánh Đế Ngọc Bệ Hạ
Con Lạy Hiệu Thiên chí tôn Kim Quyết Ngọc Hoàng Huyền Cung Đại Đế Ngọc Điện Hạ.
Con lạy Đức Phật Mẫu Hoàng Thiên
Con Lạy Đức Vua Cha Bát Hải Động Đình Thủy Quốc Long Vương.
-Con lạy Tam Tòa Thánh Mẫu:
Con Lạy Mẫu Đệ Nhất Thượng Thiên
Con Lạy Mẫu Đệ Nhị Thượng Ngàn
Con Lạy Mẫu Đệ Tam Thoải Phủ
Con Lạy Mẫu Đệ Tứ Khâm Sai
Con Lạy Hội Đồng Quan Tứ Trụ Triều Đình
Con Lạy Tam Phủ Công Đồng, Tứ Phủ Vạn Linh hội Đồng Tiên Thánh
Văn khấn Tứ phủ: Ngắn gọn đầy đủ & hay nhất
Các bạn căn đồng số lính có căn hầu đồng con cha con mẹ khi đi lễ đền phủ
Không thể không thuộc bài văn khấn Tứ Phủ
Nhưng bài khấn quá dài thì các thanh đồng còn non trẻ sẽ khó lòng mà thuộc được.Bài văn khấn quá ngắn, lại chưa đúng ý nguyện mong cầu của các đồng cựu, thầy đồng.
VĂN KHẤN TỨ PHỦ ĐẦY ĐỦ NHẤT
Bản đầy đủ dành cho các thầy và Bản Văn khấn ngắn gọn dành cho các con nhang đệ tử.Có hướng dẫn cách khấn sao cho linh nghiệm nhất đối với con nhang đệ tử ở dưới bài viết.
1.Bài khấn Tứ Phủ ngắn gọn hay nhất (Dành cho con nhang đệ tử)
Đối với các con nhang, đệ tử đi lễ không thường xuyên thì nên khấn ngắn gọn như sau:
Nam mô a di đà phật ( 3 lần )
Con lạy chín phương trời, con lạy mười phương đất, con lạy chư phật mười phương, mười phương chư phật.
Con lạy toàn thể chư phật, chư tiên, chư thánh.
Con lạy: ...........( tên thánh chủ bản đền. Ví dụ, đến đền Cô Chín ta khấn: Con lạy Cô Chín tối linh)
Đệ tử con tên là:............. tuổi:..........
Ngụ tại:.................................
Hôm nay là ngày... Chúng con đến đây có chút hương hoa, phẩm quả, lễ mặn (chú ý dâng gì thì kêu đó nghe - không có lễ mặn mà kêu lễ mặn là phải tội đó, nên nhớ không bày lễ mặn ở cúng Phật) xin dâng lên các chư tiên, chư thánh để cảm tạ ơn đức của các ngài đã phù hộ độ trì cho chúng con suốt thời gian qua. Vừa qua, được sự lưu tâm độ trì của các ngài mà công việc
(Nếu đã xin việc gì cụ thể mà thành công thì xin trình bày ) của con đã hanh thông vẹn tròn. Chúng con xin được cảm tạ và lễ tạ tất cả các Ngài.
Hôm nay chúng con tới đây với tất cả lòng thành kính xin các ngài phù hộ độ trì cho con các việc sau: ( Nêu cụ thể các việc cần xin, các khó khăn có thể gặp phải và có thể cả hướng định giải quyết ra sao).
Một lần nữa thay mặt gia chung chúng con, con xin các ngài giang tay cứu giúp cho chúng con. Chúng con xin đa tạ ...( tên vị thánh bản đền) và toàn thể các chư tiên, chư thánh.
Nam mô a di dà phật (3 lần).
Một số lưu ý về bài khấn trên:
Do các ngôi vị của nhà thánh rất nhiều chúng ta chỉ khấn: Toàn thể chư tiên, chư thánh là đủ hết cả rồi, không sót một ai. Nên các bạn cứ an tâm mà khấn.
Ngôi đền nào cũng có một vị chủ đền nên sau khi khấn các chư tiên, chư thánh rồi thì phải khấn tên của vị thánh chủ đền. Vị thánh chủ đền là vị thánh chủ nhà của ngôi đền, còn các ngôi khác tuy quyền cao hơn cũng chỉ là khách, nên không thể không khấn tên vị thánh chủ đền được. Thử hỏi cõi dương trần mình đến nhà người ta chơi mà không chào chủ nhà, chỉ chào mỗi khách thôi thì chủ nhà sẽ hành xử với chúng ta ra sao? Khấn mà quên vị thánh chủ đền thì coi như các lời xin cầu của chúng ta là vô nghĩa, thậm chí còn nguy hại vì mình vô lễ với vị thánh chủ đền.
Cũng lưu ý khi khấn bên cung Phật thì đoạn "chư Phật, chư Tiên, chư Thánh" thì chỉ cần khấn chư Phật thôi, còn khấn bên cung Thánh thì có thể khấn chư tiên, chư thánh thôi.
Khi bắt đầu khấn thì khấn các ngôi chư Phật, chư Tiên, chư Thánh vì ngôi cao hơn, sau đó mới đến vị thánh chủ nhà. Còn khi ra đi thì phải xin phép chủ nhà rồi mới chào các vị khách mới đúng. Thậm chí, chúng ta khấn vị thánh chủ đền rồi mới đến chư tiên, chư thánh cũng không sao.Bởi vị thánh chủ đền là chủ nhà còn các chư tiên, chư thánh chỉ là khách.
Để khấn khi đến hay khấn chào thì nên khấn ở Ban Công Đồng hoặc ở Ban vị thánh chủ đền là được. Sau đó có thể chỉ đến vái các ban khác nếu không có đủ thời gian.Tất nhiên nếu có nhiều thời gian chúng ta có thể khấn thêm ở các ban khác.
2. Bài khấn Tứ Phủ đầy đủ nhất (Dành cho các đồng thầy)
Con niệm Nam Mô A Di Đà Phật (3 lần)
- Con lạy chín phương Trời, con lạy mười phương Đất, con lạy mười phương chư Phật, chư Phật mười phương,
- Nam Mô Bản sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
- Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật.
- Nam Mô Đương Lai Hạ Sinh Di Lặc Tôn Phật.
- Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.
Con Lạy Chư Đại Bồ Tát Chư Hiền Thánh Tăng.Hộ Pháp Chư Thiên, Thiện Thần Bồ Tát.
Con lạy Tam Vị Đức Vua Cha Đức Tam Thập Tam Thiên Thiên Chúa Đế Thích Đề Hoàn Nhân Thánh Đế Ngọc Bệ Hạ
Con Lạy Hiệu Thiên chí tôn Kim Quyết Ngọc Hoàng Huyền Cung Đại Đế Ngọc Điện Hạ.
Con lạy Đức Phật Mẫu Hoàng Thiên
Con Lạy Đức Vua Cha Bát Hải Động Đình Thủy Quốc Long Vương.
-Con lạy Tam Tòa Thánh Mẫu:
Con Lạy Mẫu Đệ Nhất Thượng Thiên
Con Lạy Mẫu Đệ Nhị Thượng Ngàn
Con Lạy Mẫu Đệ Tam Thoải Phủ
Con Lạy Mẫu Đệ Tứ Khâm Sai
Con Lạy Hội Đồng Quan Tứ Trụ Triều Đình
Con Lạy Tam Phủ Công Đồng, Tứ Phủ Vạn Linh hội Đồng Tiên Thánh
-Con lạy Trần Triều Hiển Thánh Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương.
Con lạy Trần Triều Khải Thánh Vương Phụ, Vương Mẫu, Vương Phi Phu Nhân,
Trần Triều Vương Huynh, Vương Đệ.Vương Tử, Vương Tế, Vương Nữ Vương Tôn
Con Lạy văn võ bá quan quân thần trần triều
Con lạy Tam Tòa chúa bói – Hội đồng Chúa bói Chúa chữa Chúa Mán Chúa Mường
Con Lạy Chúa Đệ Nhất Tây Thiên
Con Lạy Ngũ Phương Bản Cảnh Vũ Quận Bạch Hoa -Năm Phương Chúa Bà
-Con lạy Ngũ Vị Vương Quan, Tôn Quan Đệ Nhất Thượng Thiên, Tôn quan Đệ Nhị Giám Sát, Tôn Quan Đệ Tam Thoải Phủ, Tôn quan Đệ Tứ Khâm Sai, Tôn Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh.
Con lạy Tôn Quan Điều Thất.
-Con cung thỉnh mời Tứ Phủ Chầu Bà
Chầu Đệ Nhất Thượng Thiên
Chầu Đệ Nhị Thượng Ngàn Đông Cuông
Chầu Bát Nàn Đông Nhung Đại Tướng Quân
Con lạy Hội Đồng Chầu Bé-Con Lạy Chầu Bé Thượng Ngàn Quyền Cai Bắc Lệ
-Con cung thỉnh mời Tứ Phủ Thánh Hoàng, thập vị quan Hoàng
Con lạy 36 tòa Sơn Trang -Sơn Trang, Tám Tướng Thập Nhị Tiên Nàng
Con xin kính lạy Cô Nhất Thượng Thiên- Cô Cả đền Dùm
Con lạy Cô đôi Thượng Ngàn
Cô bơ Thoải, con lạy cô tư Ỷ La, Cô năm suối lân, cô Sáu sơn trang, Cô bảy Tân La cô Tám Đồi Chè, 12 cô Chín, Cô chín thượng Ngàn, Cô chín Sòng sơn, cô Mười mỏ Than, Hội đồng cô bé, Con Lạy cô bé Thượng ngàn, cô bé Thoải con lạy cô Bé Bản Đền (bản điện), Con lạy Tứ Phủ Thánh Cậu trên Ngàn dưới Thoải,
Con lạy Cậu đệ nhất Hoàng Thiên, Cậu Hoàng Đôi Thượng Ngàn, Cậu Hoàng Ba Thoải, Cậu Hoàng Tư Long Thành, Con Lạy Cậu Bé Hoàng Thiên, Cậu Bé Thượng Ngàn, Cậu Quận Phủ Dầy, Cậu Đồi Ngang Phố Cát. Con lạy cậu bé bản Đền ( Bản Điện ).
-Con Lạy Hội Đồng Quan Ngũ Dinh, Đôi quan Thanh Xà Bạch Xà, Sơn Thần Bản Thổ Ngũ Hổ Thần Tướng
-Con cung thỉnh mời chư vị Chúa Chầu các Quan thủ Đền thủ Điện, Chư vị Thành Hoàng Bản Thổ, Chư vị Thần thổ cư đồng ngự dải đất này.
- Đệ tử con tên là:............. tuổi:..........
Ngụ tại:.................................
Kim niên kim nguyệt cát nhật lương thời. Hôm nay ngày:... Tháng:... Năm:...
( Dâng gì cầu gì khấn nấy hoặc theo bài bên dưới)
Đệ tử con nhất tâm 1 lòng, nhất tòng 1 đạo, nhất tâm trí thiết, nhất dạ chí thành, đêm tưởng ngày mong, tu thiết hương, hoa, đăng, trà, quả, thực (mang miệng về tâu, mang đầu về bái), trên con tấu thượng thiên, dưới con đệ trình long cung thuỷ phủ cùng đồng gia quyến đăng cung phụng cửa đình thần tam tứ phủ ...............(tên đền) linh từ.
Mong trên cha độ dưới mẫu thương đèn trời đuốc biển soi đường dẫn lối phù hộ độ trì cho quốc thái dân an, mưa thuận gió hoà vuốt ve che chở cho gia chung chúng con trong 3 tháng hè, 9 tháng đông, tai qua nạn khỏi - Đầu năm chí giữa nửa năm chí cuối được bình an vô sự cửa nhà khang ninh, cầu danh đắc danh, cầu phúc đắc phúc đắc tài sai lộc...... Dãi tấm lòng thành cúi xin Phật Thánh Chúa Tiên anh linh chứng giám!!!
-Cung thỉnh công đồng Lục Cung Tiên Tổ dòng họ..... nguyên quán Tổ Cô Mãnh Tướng
Cậu bé cô bé tại gia, chư vị tiên linh trong dòng họ theo hầu Phật Thánh cửa Đình Thần Tam Tứ Phủ, trên tấu tòa vàng Thượng Thiên, dưới tấu Thủy Cung Địa Phủ, cho con cháu nhất một lòng, tòng một đạo Sở cầu tất ứng, sở nguyện tòng tâm…
Nam mô a di dà phật (3 lần).
Văn khấn công đồng bài 3 dễ nhớ (Dành cho các thanh đồng)
Nhất thiết cung kính, nhất tâm kính lễ thập phương pháp giới thường trụ Tam Bảo (3 lần)
Nam mô Phật, Nam mô Pháp, Nam mô Tăng
Nam Mô Bản Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần)
Nam mô đại từ, đại bi tầm thanh cứu khổ cứu nạn quảng đại linh cảm Quán Thế Âm Bồ Tát.
- Con lạy chín phương trời, mười phương chư phật chư phật mười phương, ngũ phương ngũ phật, thập phương thập phật, hằng hà sa số, đức phật vô lượng, công đức vô biên.
Con xin sám hối con lạy Đức Cao Thiên Thượng Thánh Đại Từ Nhân Giả, Huyền Cung cao thượng đế, Ngọc Hoàng đại thiên tôn.
- Con xin sám hối đại thánh Nam Tào Lục Ty Duyên Thọ tinh quân, con sám hối đại thánh Bắc Đẩu Cửu Hoàng Giải Ách tinh quân, Bắc Cực Thiên Trung, Tam Nguyên, Tam Phẩm, Tam Quan, Cửu Tinh Thiên Chúa, Thập Nhị Bát Tú, dương phủ ngũ nhạc thần vương, địa phủ thập điện linh vương.
- Con xin sám hối đến thái linh phủ, bát hải linh từ, con sám hối vua cha bát hải động đình, con sám hối cửu trùng thánh mẫu bán thiên công chúa thiên tiên thánh mẫu.
- Con sám hối quốc mẫu vua bà, bơ toà thánh mẫu, mẫu đệ nhất thiên tiên Quỳnh Hoa Liễu Hạnh, đức mẫu thượng ngàn, Diệu Nghĩa, Diệu Tín thiền sư, tuần quán đông cuông, đệ nhị đỉnh thượng cao sơn triều mường sơn tinh công chúa Lê Mại Đại Vương, thánh mẫu đệ tam thuỷ cung Xích Lân Long Lữ thuỷ tinh công chúa, Hàn Sơn linh từ .
- Con lạy trần triều hiển thánh nhân vũ Hưng Đạo Đại Vương Quốc Công Tiết Chế Thượng đẳng phúc thần ngọc bệ hạ, trần triều khải thánh vương phụ, vương mẫu, vương phi phu nhân, vương tử, vương nữ, vương tể, vương tôn, tứ vị vương tử, nhị vị vương cô, phạm tướng quân, cô bé cửa suốt, cậu bé cửa đông chư vị tướng tá bộ hạ các quan công đồng Trần Triều uy phong lẫm liệt
- Con sám hối Cung thỉnh Tam vị Chúa Mường:Đệ nhất Tây Thiên,đệ nhị Nguyệt Hồ,đệ tam Lâm Thao
- Chúa Bà Cà Phê ,Tiên Chúa Thác Bờ-Hòa Bình công chúa,Ngũ Phương Bản Cảnh Chúa bà bạch hoa công chúa tối tú tối linh,hội đồng chúa bói,hội đồng chúa chữa,hội đồng chúa Mán,hội đồng chúa Mường,lục cung chúa chầu các bộ sơn trang,sơn lâm công chúa,tam thập lục cung công chúa
Lục thập hoa giáp thần nương.
Con sám hối ngũ vị tôn quan hội đồng quan lớn, quan đệ nhất thượng thiên,quan đệ nhị thượng ngàn, quan đệ tam thoải phủ, quan đệ tứ khâm sai, quan đệ ngũ tuần tranh.
Con lạy tứ phủ chầu bà, Năm tòa quan lớn, 10 dinh các quan. Bát bộ sơn trang thập nhị tiên cô trên ngàn dưới thoải, Thủ điện công chúa tối tú tối linh.Con kính lạy tứ phủ quan hoàng. Tứ phủ thánh cô, tứ phủ thánh cậu
Cậu bé bản đền, cô bé bản đền. Ngũ lôi thiên tướng, ngũ hổ đại thần chư vị các quan. Con kính lạy Thanh Xà đại tướng, Bạch Xà đại quan. Con kính lạy công đồng các giá, hội đồng các quan, trên ngàn Adưới thoải 18 cửa rừng, 12 cửa bể, cửa đình thần tam tứ phủ tối tú anh linh, con lạy Thổ công chúa đất chư vị tôn thần bản sứ.
Hôm nay là ngày...tháng...năm...
Đệ tử con là ... (tuổi) thê ... (tuổi) sinh nam tử ... (tuổi) nữ tử .... v.v… đồng gia quyến đẳng.
Ngụ tại địa chỉ:........................................................
Ngày hôm nay, kim niên kim nguyệt cát nhật lương thời.
Đệ tử con nhất tâm tưởng vạn tâm cầu, tu thiết nhang hoa lễ vật có tờ vàng lá sớ, tờ tấu lá trạng, mang miệng về tâu mang đầu tới bái cửa đình thần tam tứ phủ. Trên Mẫu độ, dưới gia hộ Mẫu thương, vuốt ve che chở phù hộ độ trì cho con 3 tháng hè 9 tháng đông, đầu năm chí giữa nửa năm chí cuối, tứ thời bát tiết phong thuận vũ hòa, tai qua nạn khỏi.
Mẫu cho con sáng hai con mắt, bằng hai bàn chân. Mẫu ban lộc dương, Mẫu tiếp lộc âm, cho lộc mùa xuân, cho tài mùa hạ, cho con tươi như lá, đẹp như hoa, phúc lộc đề đa tiền tài mang tới. Mẫu cho con lộc ăn lộc nói, lộc gói lộc mở, lộc gần lộc xa, hồ hết lại có, hồ vơi lại đầy, điều lành Mang đến điều giữ mang đi. Mẫu cứu âm độ dương, cứu đường độ chợ, vuốt ve che chở nắn nở mở mang, cải hung vi cát, cải hạo vi tường thay son đổi số, lảy mực cầm cân Mẫu phê chữ đỏ, Mẫu bỏ chữ đen, cho con được trăm sự tốt vạn sự lành, trên quý dưới yêu, trên vì dưới nể. Mẫu cho con Gặp thầy gặp bạn, gặp vạn sự lành, Mẫu ban danh ban diện ban quyền cho con có lương có thực có ngân có xuyến, cầu tài đắc tài, cầu lộc đắc lộc Cầu bình an đắc bình an, trồng cây đắp phúc cho con được nở cành xanh lá
Phúc lộc đề đa, ngũ phúc lâm môn, thân tâm an lạc, quả đạo viên thành, đầy thuyền mãn quả, gia đạo hưng thịnh. Mẫu cho trên thuận dười hòa trên bảo dưới nghe, trên đe dưới sợ, Mẫu cho nước chảy một dòng thuyền trôi một bến, bách bệnh tiêu tán vạn bệnh tiêu trừ, Năm xung Mẫu giải xung tháng hạn Mẫu giải hạn cho gia trung con được trong ấm ngoài êm nhân khang vật thịnh, duyên sinh thọ trường.
Đệ tử con người trần mắt thịt việc âm chưa tường việc dương chưa tỏ, tuổi con còn trẻ tóc con còn xanh, ăn chưa sạch bạch chưa thông, không biết kêu sao cho thấu tấu sao cho tường. Con biết tới đâu con tâu tới đó, 3 điều không sảy 7 điều không sai trăm tội Mẫu xá vạn tội Mẫu thương. Mẫu xá u xá mê xá lỗi xá lầm, soi đường chỉ lối cho con biết đường mà lội biết lối mà lần.
Hôm nay đệ tử con lễ bạc tâm thành con giàu một bó con khó một nén, giàu con làm kép hẹp con làm đơn, thiếu Mẫu cho làm đủ, vơi Mẫu cho làm đầy. Mẫu chấp kỳ lễ vật, chấp lễ chấp bái, chấp lời kêu tiếng tấu của con, bay như phượng lượn như hoa tới cửa Mẫu ngồi, tới ngai Mẫu ngự, cho con sở nguyện như ý sở cầu tòng tâm.
Dãi tấm lòng thành cúi xin Phật Thánh Chúa Tiên anh linh chứng giám!!!
- Con sám hối Cung thỉnh công đồng Tổ tiên nội ngoại, Tổ Cô Mãnh Tướng cậu bé cô bé tại gia đẳng đẳng chư vị chân linh sống vi anh tử vi linh về hầu cửa Phật cửa Thánh trên tấu thượng thiên, dưới tấu tòa vàng thoải phủ kêu thay lạy đỡ cho con cháu cháu chắt của Tổ được kêu thấu, tấu nổi đắc lễ đắc bái đắc yêu đắc cầu.Đức Tổ cao minh tận thương tận độ!!!
Các thanh đồng lưu ý khi khấn Tứ phủ để có ứng nghiệm được tốt nhất
Cần quỳ lạy tốt hơn nếu có điều kiện về vị trí, chỉ đứng khi không có chỗ để ngồi.Nhà Thánh không chấp nếu ta không có chỗ quỳ lạy nhưng sẽ chấp ta
Nếu có chỗ mà không quỳ.Quỳ là sự thể hiện sự tôn kính mà.
Khi khấn cần chắp tay cung kính, dồn toàn bộ tâm trí vào câu khấn,. Có thể mở mắt, nhưng phải để hướng mắt vào các tượng thánh.Có thể nhắm mắt để tiện cho dồn tâm trí vào câu khấn thì trong tâm vẫn phải hướng thẳng vào cung thờ.
Không quá nặng nề về câu chữ để sao cho lời khấn được mạch lạc, để có thể khấn bằng cả cái tâm của mình. Đây là phần quan trọng nhất trong khi khấn.Có làm được như vậy thì cây cầu tâm linh giữa người khấn với cõi tâm linh mới được kết nối.Khi đó lời khấn của mình mới được chứng
Nếu trong khi khấn mà không tâm niệm được điều này thì có khấn hay đến đâu cũng khó được chứng giám.Tuyệt đối không được mang bản in sẵn ra mà đọc
Nếu ta đọc thì cây cầu âm dương không bao giờ được kết nối.
Nên dãi bày chi tiết cụ thể các việc mình cần xin thì càng tốt. Có như vậy, cõi âm mới biết mình vướng cái gì, mắc ở đâu, chỗ nào ngăn trở mình thì cõi âm mới có cách giải quyết cho chúng ta được. Không nên khấn chung chung không cụ thể như: Mua một bán mười, tài lắm, nhiều lộc, gặp may gặp mắn.....
Đi lễ không quá cầu kỳ về đồ lễ vì cõi âm thường: Chứng tâm không chứng lễ.Nếu có lễ thì nên đơn sơ Chúng ta nên dành bớt phẫn lễ để cung tiến, hay giọt dầu. Việc đó tốt hơn vì góp công của xây dựng nhà đền sẽ được nhà ngài chứng tâm nhiều hơn.Cha mẹ nào chả thương con nghèo. Vì thế, không nên đua đòi sắm lễ, đặc biệt là mã cho tốn kém mà không giúp gì cho hưng thịnh đền nhà ngài.Nhà thánh hàng năm nhận hàng vạn mã, vàng thử hỏi có dùng làm chi ở cõi đó. Lễ mã chẳng qua là thể hiện lòng tôn kính mà thôi.
Hãy tự mình khấn thì tốt hơn vì các thầy chỉ thay mình khấn hộ nên chỉ khấn được chung chung hoặc chỉ là tên sự việc chứ không thể tả được các khúc mắc trong sụ việc như chính bản thân chúng ta.
Vì vậy khi thầy khấn xong ta nên tự khấn một mình sau, nếu không thì có thể khấn thầm ngay khi các thầy khấn chung.Lưu ý chỉ khấn nhẩm thầm để tránh ảnh hưởng đến người xung quanh. Nếu ta làm ảnh hưởng đến người xung quanh thì chính chúng ta không tôn trọng chính mình thì há chi nhà thánh còn muốn nghe chi lời trình bày của mình nữa.
Một điểm lưu ý thêm là bà con hay có cái tật đi với thầy khi thầy lễ cho người khác thì mình không thèm để ý. Tốt nhất là phải lắng tâm để nghe và cùng lạy tạ cho người ta.Mình không tiếp phúc cho người thì há chi người tiếp phúc cho ta. Mà với nhà Thánh ai chả là con nhà Thánh không thích những kẻ chỉ biết cho chính mình mà quên đi đồng loại.
Trong đền có nhiều cung, nếu chúng ta đến từng cung mà khấn đầy đủ mạch lạc là điều bất khả thi bởi ngay chính chúng ta cũng sẽ mất kiên nhẫn để hướng tâm trí vào lời khấn. Vì vậy chúng ta chỉ nên chọn một vị trí khấn đầy đủ tốt nhất là tại Ban Công Đồng nếu không chúng ta vào chính cung của vị thánh chủ đền nếu không còn chỗ thì chúng ta ra bên ngoài cửa đền khấn vọng vào còn hơn phải đứng chen chúc xô đẩy khiến chúng ta không thể nhất tâm trong suốt thời gian khấn.
Như bạn đã biết khi khi tâm trí bị đứt mạch thì sợi dây âm dương tiếp nối của chúng ta với cõi âm sẽ bị gián đoạn.Tất nhiên những điều ta khấn sẽ trở thành vô giá trị. Sau đó chúng ta sẽ đến các cung khác vái lạy và xin cảm tạ là đủ. Lý do đơn giản là khi ta khấn vừa rồi là đã khấn các vị đó rồi.Tất nhiên nếu thời gian cho phép chúng ta có thể tóm tắt các điều cần lễ tạ và các điều cần xin
Nên nhớ chỉ tóm tắt thôi nghe.
Gọi hồn và các chiêu trò.
Nói về việc gọi hồn mình xin có ý kiến như này.
Gọi hồn về thường là 2 cách:
1. Là xuống tìm linh hồn đó mời họ về.
2. Là các thầy dùng lệnh để lôi về hoặc nhờ vong khác lôi về.
Cái cách thứ nhất thì chẳng có mấy ai làm được
Người làm được cách đó cả nước này may ra có 2 người.
Còn cái cách thứ 2 thì đa số các thầy, cô đều làm đây chính là cái chết của mấy thầy, cô.
Như việc 1 người đang đứng bỗng túm áo lôi đi thì họ đánh cho là phải
Các thầy cô cứ thấy gọi về được tưởng là không sao.
Xin thưa là lúc đó phúc thầy cô còn họ chưa làm gì được
Họ chỉ biết mài phúc dần, phúc mỏng thì họ ập vào đánh cho.
Thế nên mới thầy cô sau này với gia đình sập từ trên xuống dưới là vì đó.
Tiếp nữa là gọi về nhập vào người nhà
Mình xin thưa là gia tiên không bao giờ muốn nhập vào con cháu.
Âm và dương không thể cùng chung.Nhập vào sẽ tổn hại cả 2 bên.
Người dương sẽ mất đi dương khí của người đó mà cụ thể hơn là giảm thọ.
Những người bị nhập biết rõ nhất họ rất mệt mỏi sau mỗi lần bị.
Người âm sẽ bị tổn hại cái tu hạnh của người ta.Khi mà người ta có thể tu vài ba năm người ta có thể siêu thì nhập vào rồi sẽ bị giảm đi lại phải một thời gian dài nữa.
Có cha mẹ nào muốn tổn hại con cháu đâu nên với chân linh gia tiên thì họ biết điều đó nên họ không nhập đâu.
Gia tiên dòng họ có về chỉ ảnh bóng thôi. Tức là với người bị ảnh bóng họ vẫn nhận biết được nhưng có những cái cơ thể họ không điều khiển được.
Lúc mà người thân mất bị đau ở đâu hay như nào đôi khi người con cháu đó thấy đau đúng ở vị trí đó và cảm nhận như thế.
Người con cháu đó nói ra những điều mà tự họ không muốn nói. Lúc ấy là gia tiên chỉ ngồi cạnh bên thôi.
Việc mà gia tiên nhập vào chỉ trừ khi có thầy đắc đạo ngồi trợ khí cho họ không để tổn hại hai bên.
Mà những thầy như vậy lại không bao giờ đi làm gọi hồn vì nó trái quy luật âm dương.
Trường hợp nữa là gia tiên thấy con cháu có nạn muốn cứu mà không có cơ duyên gặp người sang tai cho con cháu
Thì họ về nhập thẳng vào con cháu khi ở trong nhà hoặc ở ngoài mộ chứ chẳng cần đi thầy cô nào đâu và họ vào rất nhanh rồi ra luôn.
Những người nhà bị nhập thế là cái phúc họ đang rất kém rồi nên mới dễ bị nhập như vậy.
Thế đi gọi hồn gia tiên không nhập thì ai nhập???
Xin thưa là toàn vong với quỷ ngoài họ vào thôi
Bản chất của vong là họ cố chấp mới không đi đầu thai họ còn lưu luyến việc họ muốn làm.
Nên họ rất muốn có thân xác để họ làm những việc còn khúc mắc lúc mất.
Vong bình thường họ vào họ chỉ chiếm được xác nhưng không nói được. Quỷ vào thì nói được còn đi lại được.
Sao thấy nhập mà nói đúng lắm cái gì trong nhà cũng biết???
Xin thưa có những vong người ta mất cả mấy chục năm cả trăm năm họ vẫn không siêu.
Nhà bạn có cái gì họ biết rõ hết kể cả tên gia đình đọc từng người.
Chưa kể bạn dám khẳng định xung quanh nhà bạn không có vong nào. Hỏi một cái là ra hết.
Nhập vào mấy ông thầy bà cô???
Xin thưa thế này mấy ông thầy bà cô một là không biết cho vong vào nói.
Hai là họ biết tác hại họ không cho vong vào đâu
Toàn để vong khác đứng ngoài nói cho biết rồi truyền lại.
Còn lắc lư thì ngày nào ngồi cũng lắc dẻo ngay ấy mà.
Việc gọi hồn có nên hay không???
Mình khuyên thật sự là không nên.
Bây giờ một người đã mất rồi đang cố gắng không chấp vào điều gì nữa.
Tự dưng con cháu gọi về kêu con biếu thứ này thứ nọ làm cho người ta bỗng dưng nhớ lại cái chấp niệm lại cao lên làm sao mà siêu thoát được.
Khác gì đang đi học có người dúi tiền kêu đi chơi game.
Cái chúng ta cần là tích công đức là hồi hướng cho gia tiên và thắp nén hương tưởng nhớ họ.
Công đức hồi hướng như là hành trang cho gia tiên trên con đường tu tập.
Còn gia tiên luôn nhớ thương con cháu đôi khi họ lộn lại chính là những con vật trong nhà mà mọi người đang nuôi.
Đôi khi vì miếng cơm manh áo, tiền đóng học phí của mình hay một món đồ chơi cho mình mà ông bà, bố mẹ phải tạo nghiệp để bị đày xuống thế.
Con cháu hãy vì thế mà năng làm việc thiện nguyện để trả ơn gia tiên nhà mình.
Chứ đừng u mê gọi hồn làm gì cả.
Thứ nhất căn ai ghế ai bóng ai và sát ai
Căn là gì là gốc là rễ con người ai sinh ra đều mang hàng căn hàng mệnh và có một vị cầm mệnh
Ghế là gì ghế là nhưng người được nhà thánh chấm chọn ví dụ ông bảy chấm đồng thì gọi là ghế ông bảy hoặc một vị nào đó trong tứ phủ chấm chọn để giao phó công việc
Bóng là gì bóng là trường hợp điển hình nhất như kiểu bóng cô chín bóng cô bơ ông bay ông 10 hay các hàng quan lớn đều có tính cách. Ngay thẳng hay bóng cậu hay hờn hay dỗi đó là bóng
Còn đã là con nhà thánh phải biết rằng kinh ghế nhà ngài có rất nhiều bóng thánh ngự và nhiều căn các vị có nhưng trường hợp thầy không soi được căn được quả dẫn đến đi sai đường
Trường hợp phụ khiến các bạn bị cơ là sổ phó úy là sổ sách của tân đồng ví dụ
Con nhà thoải nhưng thầy đưa về thượng ngàn hoặc thiên phủ hoặc con nhà thượng ngàn nhưng đưa về thoải phủ sẽ bị loạn căn loạn bóng
Trường hợp 2 là cơ đồng có những đồng nhân ra đồng song là bị cơ luôn có 2 trường hợp
Thứ nhất là ra đồng trả nghiệp những trường hợp đó là do oan gia trái chủ tìm đến đòi nợ hoặc tiền kiếp hoặc gia tiên tiền tổ tân đồng nợ dẫn đến cơ hành sau mở phủ cách giải quyết
Không được loạn tâm chịu khó tu tập để trat nghiệp cho bản thân và gia tiên tiền tổ sau thời hạn nhất định sẽ hết
Thứ 2 trường hợp thánh cơ số này là hy hữu
Mục đích là để cho các lính ghế nếm trải khổ đau mất mát trắng tay rồi mới cho lại có những đồng vì nặng nghiệp nặng duyên nên khổ nhiều năm
cơ trước khi ra đồng 2 phần
1 là oan gia trái trái chủ nghiệp duyên tìm để ép đồng nhân trả nợ và cơ đày họ
Phương pháp giải quyết là tu tập ra đồng để mượn cửa nhà thánh để tu tập trả nghiệp cho oan gia trái chủ và tu tập cho bản thân mình
Phần 2 là ta ma đeo bám và cơ hành của nhà thánh
có những lính ghế sát bóng âm tà ma sẽ đi theo và đeo bám để hãm hại ví dụ ốp nhập sưng ông này bà nọ ông nọ bà kia các quan các hoàng các mẫu rồi lừa đồng nhân phụ vụ để cho các lộc các phép cấp thấp có trường hợp tà ma dẫn đến thầy chưa đủ đạo chưa đủ tâm đủ đức để giúp khiến cho các bạn loạn đồng loạn bóng và mất niềm tin vào các thánh
Thánh cơ : có những lính những ghế được giao trọng trách đặc biệt nhưng các ngài khảo tâm khảo tính khảo lính khảo đồng
Cho trắng tay điên dở hành kinh kế điều kiện gia đình tan nát rồi tất cả mọi thứ quay ngược hiện tại
Mất niềm tin vào cuộc sống và đồng thầy nhưng khi họ ngộ đạo ra thì họ sẽ hiểu sâu hơn đạo tu tập nhận ra sẽ được quyền cha phép mẫu để cứu khổ độ mê đúng cách
Cách giải quyết
Chịu khó tu tập lấy tâm làm gốc lấy đạo làm đầu năng làm việc thiện bố thí công đức phóng sinh và bạn phải hiểu biết và nhận biết đâu là đúng đâu là sai
Thứ 2 có phải cứ mở phủ là có tiền có của mở phủ là có lộc soi lộc bói hay mở phủ ra là làm thầy thiên hạ
thứ nhất trình đồng mở phủ để làm gì
Trình đồng mở phủ là hình thức bước vào tiến trình cửa hội đồng đình thần tam tứ phủ là bước vào đạo học đạo
Để tu tập và thoát ly khổ ai tham sân si dục vọng chứ k phải là để có tiền Có của rồi làm ông nọ bà kia đồng cô đồng thầy xin lỗi các bạn không có đâu đừng mơ tưởng hão huyền
Thứ 2 trình đồng để có lộc soi lộc bói
Những người có lộc soi lộc bói đa số là hội đồng chứ tiên chư thánh cắt cử và có những trường hợp được lộc
Gia tiên tiền tổ đi theo hầu cửa thánh chứ không có nghi thức nào mở lộc bói cả chỉ có nghi thức ngả quạt bói dành cho những đồng nhân đã biết bói của phép sơn trang
Trình để có tiền có của làm ông nọ bà kia rồi bị cơ hành
Đây là trường hợp rất nhiều người bị không trình không sao trình là nhà cửa tan nát tiền bạc tiêu tan
nguyên nhân
Do các bạn nghe lời thầy và không hiểu về đạo khi trình ra các oan gia trái chủ tìm về nghiệp nợ
Tìm bạn để bắt bạn cơ hành trả nợ có người trình ra thì ăn lên làm ra có người thì càng làm lễ càng nợ
Càng trình càng khổ rồi đổ lỗi do thầy do ông thánh trách ai trách các bạn quá ảo tưởng tham vọng
Vấn đề thứ 2 liệu có 3 năm thử lính 9 năm thử đồng 12 năm cấp sắc làm thầy có hay không
Theo nhà em được biết là không có cái luật nào là 3 năm thử lính chín năm thử đồng
Đã là con của ngài thì cơ hành thử tâm thử tính thử lính các ngài sẽ thử đến lúc chết và do
Các lính các ghế tu tập có tốt hay không để bề trên cấp sắc âm làm việc và lệnh ấn trao tay có những trường hợp
Trình đồng song trong 1 năm họ đã làm thầy đi trình cho bách gia là đúng chứ kO phải sai họ làm đúng lề đúng lối đúng phép của cha mẹ
còn nhiều lắm nhưng em viết đến đây thôi nguồn em tự suy ra và gặp ở thực tế
‼️Phân Biệt Vong Tà Và Căn Số
Thời điểm Bây giờ vong tà theo hay có căn cũng không phân biệt được nên tôi viết vài câu
Thường những người trẻ tuổi mới có hiện tượng khác lạ như sau là nghĩ ngay đến căn và vong theo .
hay có hai chiều hướng người có căn cho mình có vong theo và có vong theo thì ngược lại cho mình có căn ....
Còn những người nhiều tuổi thì họ đủ chín chắn để nhận định .
Tôi viết vài phần phân biệt đệ mọi người tự cân nhắc
Tuy rằng có căn và vong tà theo nhiều khi có biểu hiện tương đồng nhưng cũng có những điểm nhận ra được .
Xem mình có căn với Thánh hay có vong tà bám theo tuy không đủ 100% nhưng cũng hạn chế phần nào
+ tự dưng thay đổi tâm tính nhanh chóng hay cáu bẩn vô cớ và không thân thiện.
- người có căn thay đổi tâm tính nhưng luôn thân thiện.
+ nếu vong tiền duyên thì Tình duyên trắc trở, yêu người nào cũng không thành hoặc không ai thèm để ý đến mình
Hoặc đang thích đối phương quay 180° luôn ... Nếu có tiến đến hôn nhân cũng tan vỡ không hiểu vì sao…
- Tự mình tự cảm thấy không muốn yêu hay lúc thì yêu tha thiết nhưng lúc tự dưng chán ghét và hay mơ ước tình yêu trong chuyện cổ tích trên mây trên trời ....
+ Tính tình đột nhiên nóng nảy, có nhiều sự thay đổi lạ lùng theo khuynh hướng xấu không phải do áp lực đè nén gia đình, công việc… và thường không nhận lỗi
- Những người có căn thường hành xử quái lạ nhưng có phần hành vi giống với người có đồng bóng và luôn biết lỗi khi gây ra .
+ Lơ ngơ, thơ thẩn, lần thần như một người hoàn toàn khác không làm chủ được suy nghĩ (không mắc tình hình bệnh lý hoặc hồ sơ liên quan đến tâm thần ).
- Người có căn ngoài lơ ngơ thơ thẩn ra hay biểu lộ những hành vi của đạo như ca múa không kiểm soát, hành động vô thức như lên đồng, hành động và lời nói vô thức khác lạ có phần tâm linh ....
+ Thường xuyên xuất hiện những giấc mơ gặp gỡ “người nào đó” lặp lại nhiều lần nhưng chưa hề quen biết.... Thậm chí sinh hoạt với cả người âm ...Bóng đè....
- Những người có căn thường mơ thấy vong nhưng cũng hay mơ nhiêu thấy Phật Thánh hơn. Thậm chí đi âm được học pháp .... Bay bổng ....kakaka.
+ Thỉnh thoảng nghe những lời thì thầm, những lời nói mơ hồ bên tai như muốn xúi giục một điều gì đó.
- Nhiều người có căn hoặc có năng lực còn giao tiếp nghe hay nhìn thấy hoặc cảm nhận được vong âm , ...
Nhưng cũng hay được ứng báo nhìn thấy Pháp tượng dung nhan Phật Thánh
+ Người có vong tà theo xúc cảm sợ hãi, lạnh lẽo khi nghe thấy kinh kệ hoặc đứng trước di ảnh của Phật, Thánh , đặc biệt tượng hộ Pháp tại đền chùa …
- Những người có căn thì cảm thấy gần gũi và chỉ muốn đến đền chùa.. hoặc nghe hát cúng lễ hay kinh kệ " cảm giác đền chùa như ở nhàhoặc mơ hoặc được báo thấy như vậy ấn quyết sắc lệnh chữ thiên sắc lệnh hội nguyên hoặc làm việc Thánh ...mơ hạ ban quan lớn khi sát âm .
+ Ngủ li bì không muốn làm gì cảm thấy yếu ớt cảm nhận thấy trong người mệt mỏi không có sức sống nhưng khám bệnh không tìm ra nguyên nhân.
- Những người có căn đồng hay oan gia cũng hay bị cơ như vậy .
Nhưng khi đi lễ thường sẽ giảm triệu chứng
+Thường xuyên bị đau nhức nhức một vị trí nào đó trên cơ thể vào buổi tối hoặc đêm nhưng không phải do tình hình bệnh lý bệnh tật gây nên.
-Người có căn bị hành âm hay bị gia đánh âm cũng có triệu chứng đau... thì thường do chống đối hoặc ăn bậy bạ , mà ra như thịt chó ..... Hoặc làm những việc bẩn thỉu bậy bạ .... Hoặc trong lúc này thường thích ăn chay....
+Trong người thỉnh thoảng cáu bẳn vô cớ giận dỗi vô cớ , hoặc thích đập phá , làm một việc gì đó vô trong thức
Trong người đột nhiên cảm nhận thấy buồn chán không rõ nguyên nhân, cảm nhận thấy muốn ƫự ƫử kết liễu cuộc đời.
- Người có căn thì thường không bao giờ nghĩ đến tự tử và thường giỏi chịu đựng .
+ Người có vong theo thường làm việc không khéo léo và hay bị tác động hỏng việc
- người có căn thì làm việc rất khéo léo , và bền bỉ .
Nhưng sự không thành công hay đổ vỡ thì cả hai .
+ người có vong bám hay làm những việc oan trái và hay bị mọi người xa lánh hoặc lé tránh .
- Nhưng người có căn Đặc biệt người có căn hay bị đổ oan . và đặc biệt những người căn sâu hay bị cô lập và bị mọi người cho là lập dị .
+ người có vong theo hay nhớ thù hằn
- nhưng có căn tính hay quên , không để bụng và dễ tha thứ thì người có căn là số một .
+ vong theo thường không được may mắn đột xuất và không linh cảm được những tình huống tương lai .
- có căn thường hay có linh cảm được việc sắp tới và thường may mắn đột xuất ( có nhà Thánh phù trợ )
+ người có vong bám vào đền hay bị trói cứng người
- người có căn cũng vậy nhưng xong khi được giải ra người có căn thường nhẹ nhàng và khỏe hơn .
Có rất nhiều bạn có căn và cũng có vong theo , tôi khuyên các bạn hãy tìm người sủ lý giúp vong tà trước khi quyết định căn số .
Cũng chúc mừng các bạn có trên 80% cả dấu + lẫn - người đó quá gan lỳ không chịu tín Thánh mà quy hàng .
Mấy lời cho các bạn tự phân biệt tuy không đầy đủ nhưng hy vọng giúp ích phần nào cho tình trạng người người ra đồng ai cũng có căn hiện nay .
ĐỒNG GIÀU - ĐỒNG NGHÈO
Các cụ có câu “ con giàu một bó - con khó một nén” hay câu “ giàu làm kép - hẹp làm đơn” ấy là để nói về cái sự linh hoạt tuỳ tâm biện lễ dâng trong các đàn lễ của mỗi gia mỗi chủ...
Ấy vậy mà, tại thời buổi kinh tế phát triển người người hầu thánh - nhà nhà hầu thánh thì đâu đó Lộc to Lộc nhỏ, Lộc ít Lộc nhiều... đàn to đàn bé vẫn được đưa lên bàn cân để mà so sánh!!!
Đối với đồng có điều kiện. Việc thực hành một khoá lễ hầu thánh là rất đơn giản bởi đã có một ekip lo từ A-Z cô đồng chỉ cần giữ tâm cho sáng giữ lòng cho trong... chờ ngày loan giá!!!
Tuy nhiên đối với một thanh đồng mới ra Bắc ghế hoặc có hoàn cảnh khó khăn thì ngược lại, việc ra Bắc Ghế Hầu Thánh là cả một quá trình, một sự cố gắng nỗ lực... đã không ít người phải vay mượn để loan giá phụng hành, không ít người giấu chồng, giấu vợ, giấu bố, giấu mẹ để được phụng sự cửa đình thần tam tứ phủ...
Lại có những người sử dụng những đồng tiền cuối cùng hay ít nhất cũng là số tiền bằng cả gia tài để thực hiện ước mơ hầu thánh nói ra đây không phải để tiêu cực để phê phán, mà là để thấy dân ta yêu lắm tín ngưỡng của cha ông để lại, dân ta tin lắm sự linh ứng của các bậc Tiên Thánh nơi cõi đời nhiều đau khổ và lắm chông gai... và từ đấy!!! Mọi nỗ lực của những người dân Việt mang trong mình giọt máu đế đình là toàn tâm, toàn ý, toàn lực để được gần với cõi giới vô hình, để được bước chân vào Cảnh thần tiên nơi cõi thực
TIÊN THÁNH CHẤM LÍNH CHỌN ĐỒNG
Mỗi người sinh ra trên trái đất này đều phục vụ cho một mục đích nào đó mà ta không biết hoặc chưa biết!!! Nhưng điều hiển nhiên chúng ta hiểu rằng chúng ta đến với đạo, đến với tâm linh bằng một chữ duyên và chữ nghiệp...
Nhưng dù duyên hay nghiệp, dù giàu hay nghèo... thì việc được làm con bốn phủ đối với những Thanh Đồng đấy là điều đáng được tự hào, đáng được nâng niu, trân trọng.
Có người được chấm lính bắt đồng bởi căn duyên kiếp trước đã xây đền sửa tượng... kiếp này giàu sang Phú quý là con bốn phủ mặt hoa da phấn, rạng rỡ bốn phương...
Có người được chấm lính bắt đồng bởi căn duyên kiếp trước phỉ Thánh báng Thần kiếp này là con bốn phủ biết đến quyền phép nhà ngài mà cắt tóc làm tôi nối đời làm lính...
Có người hạnh nguyện cứu khổ độ mê bởi kiếp trước gieo bao tội lỗi, kiếp này được các bậc tiên Thánh trao quyền cấp phép để cứu giúp bách gia, lấy công chuộc tội
Có người vì duyên lành kiếp này tôn kính Đạo nhà, muốn một lòng theo duyên lành cập bến bờ Thánh đạo...
Vậy mới thấy, dù là căn duyên nào đi nữa thì các bậc tiên Thánh không chấm lính bắt đồng bởi ông kia giàu có, bà kia lắm tiền cũng không bắt lính chấm đồng bởi ông kia học cao, bà kia tri thức... bởi nếu nhà ngài chỉ trọn người giàu, thì giá trị của đạo sẽ không còn, bởi Đạo Mẫu là đạo của muôn dân, của những đứa bé tuổi vừa chập chững biết đi đã theo mẹ theo bà đến cửa đình thần lễ thánh, bởi những nông dân tay cày tay quốc những anh trí thức tay bút tay nghiên
Vẫn luôn thuộc lòng những lời dâng văn chúc Thánh.
Đấy!!! Từ thành thị đến nông thôn, từ già đến trẻ, từ nam đến nữ, từ người giàu kẻ khó, người yếu kẻ mạnh... ai ai cũng đều có thể là con của Thánh
Dù bạn đến từ bất kỳ đâu vì bất kỳ lý do gì...Thì việc được làm con tứ phủ cũng không uổng phí một đời người
HẦY VÀ ĐỒNG GIÀU ĐỒNG NGHÈO
Thánh không chọn kẻ giàu sang chẳng chê kẻ cơ hàn... nhưng than ơi!!! Đâu đó quanh ta...vẫn nghe thấy câu (“cậu ơi ... thầy con bỏ con rồi) ơ hay
Chắc tại con ăn ở đối nhân xử thế không ra gì nên thầy mới từ mặt con... nhưng không
Thầy bỏ chỉ vì bạn ấy nghèo bạn ấy không có tiền dâng thầy mỗi lần thầy lên sập bạn ấy không có tiền cung tiến khi thầy làm lễ các mỗi tiệc mỗi đàn)
Ngạc nhiên chưa? nhưng đấy là sự thật!!! Vẫn đâu đó quanh ta sự bên trọng bên khinh...
Vẫn đâu đó quanh ta người sang kẻ hèn!!!
Trong số chúng ta ai đó đang làm cha mẹ hay sắp làm cha mẹ cũng đều có chung một “tính người”
Đó là thương tất cả các con mình dứt ruột đẻ ra như nhau
Thậm chí những đứa con cơ Hàn nghèo khổ là bậc sinh thành cha mẹ còn cảm thấy thương không là không đủ bởi những đứa cơ Hàn ấy là những đứa thiệt thòi phải thương yêu nhiều hơn, phải vun đắp nhiều hơn, phải giúp đỡ nhiều hơn...
Có đâu Thương còn giàu chê con nghèo có đâu trọng giàu sang, ham Phú quý mà ruồng bỏ đứa sa cơ...
Làm Thầy là để cứu người khổ, độ người mê chứ những người giầu sang Phú quý họ cần gì các thầy cứu các thầy độ... hay chí ít họ tìm đâu chẳng được Thầy?
Vậy mới cần lắm câu. Tìm Thầy là Tìm Tâm tìm Đức, nương là nương và cái tâm sáng ấy, cái Đức dày ấy để nhờ Thầy kêu thay, lạy đỡ cho con nhang đệ tử!!!
Nếu tâm thầy mờ mịt bởi tham Phú phụ bần, nếu Đức thầy mong manh bởi con khôn kẻ dở... thì than ôi!!!
Các gia các chủ tự kêu Thánh.Thánh vẫn thương!!!!
Nam mô Vân Hương Thánh Mẫu Đại Tác Chứng Minh!!!
http://xemboimienphi.vn/
https://www.facebook.com/BaoVeDaoMauVietNam0966662332
https://www.facebook.com/XEMBOIMIENPHIONLINE0966662332/
https://www.facebook.com/groups/xemboimienphivn0966662332/