XEM BÓI MIỄN PHÍ 0966662332

Mail: Xemboionlinemienphi.vn@gmail.com

Mail : Xemboimienphi.vn0966662332@gmail.com


Điện Thoại: 0966 662 332

Trang chủ»ĐẠO MẪU VIỆT NAM»TAM TÒA THÁNH MẪU»SỰ TÍCH MẪU ĐỆ TAM THOẢI PHỦ

SỰ TÍCH MẪU ĐỆ TAM THOẢI PHỦ

 

Mẫu Đệ Tam Thoải Phủ
 
Mẫu Thoải thuộc một trong ba vị thánh Mẫu quyền phép tối cao trong Tam Tòa Thánh Mẫu
Mẫu Thoải linh thiêng phù hộ độ trì cho quốc thái dân an thiên hạ thái bình mưa gió thuận hòa vạn vật tốt tươi
 
 
Mẫu Thoải là ai?
 
Mẫu Thoải là vị thánh mẫu chịu trách nhiệm quản lý vùng sông nước. Chữ “thoải” là đọc chệch từ chữ “thủy” có nghĩa là nước. Mẫu còn có nhiều danh hiệu khác như Mẫu Đệ Tam Thủy Cung, Xích Lân Công Chúa, Động Đình Công Chúa Ngọc Hồ Thần Nữ, Thủy Tiên Công Chúa, Thủy Cung Thánh Mẫu.
 
Trong số những Thủy Phúc Thần trong tín ngưỡng người Việt thì Mẫu Thoải là vị Thần quan trọng nhất. Theo tư duy dân gian thì Mẫu tức là mẹ, là người khởi nguyên sáng tạo ra vạn vật thế gian. Theo đó, Mẫu Thoải là người khởi nguyên sáng tạo ra mọi miền sông nước như biển, hồ, ao, đầm, … Mẫu Thoải hội tụ, hồi quang và tỏa chiếu sức mạnh của mọi Thủy Thần, là người có thế lực và quyền năng điều hòa gió, mưa, nguồn nước.
 
Mẫu là con gái út của Vua Cha Bát Hải Động Đình. Sự tích Mẫu Thoải được ghi rõ trong bản văn mẫu. Ngoài ra còn có tác phẩm “Liễu Nghị truyền thư” (Truyện Liễu Nghị).
 
 
Sự tích mẫu Đệ Tam Thoải Phủ
 
Mẫu Đệ Tam Thoải Phủ có rất nhiều sự tích khác nhau không thống nhất.
 
Phổ biến nhất là sự tích dựa trên tài liệu là bản văn Mẫu Thoải và “Liễu Nghị Thư truyền thư”. Sự tích mẫu Đệ Tam Thoải Phủ như sau. Tương truyền, mẫu vốn là con gái út của Vua Cha Bát Hải Động Đình, sống dưới thời vua Hùng Vương. Đến khi lớn lên, tiên chúa được Vua Cha gả cho Kinh Xuyên – thần ốc trên núi. Vợ chồng sống hòa thuận đầm ấm cho đến khi Kinh Xuyên lấy tiểu thiếp là Thảo Mai. Khi Kinh Xuyên đi vắng, tiên chúa ngồi khâu áo rồi bị kim đâm vô ngón tay đã lấy mảnh vải trắng thấm máu rồi bỏ vào thùng rác nhưng bị Thảo Mai giấu đi. Kinh Xuyên trở về Thảo Mai gáo gở vu oan cho Tiên Chúa là cắt máu thề nguyền tư thông cùng kẻ khác. Kính Xuyên không luận trước sau mà đem đầy Tiên Chúa vào chốn rừng sâu mặc cho thú dữ ăn thịt. Khi ở trong rừng, lúc thì chúa hiện thành long xà, lúc chúa hiện thành mỹ nhân trút âu sầu với cỏ cây hoa lá. Lòng từ bi của tiên chúa khiến cho mọi loài thú đều yêu mến và nghe lời. Cũng hay cho con tạo xoay vần mà Tiên Chúa đã gặp được Liễu Nghị đang trên đường đi lai kinh ứng thi đi ngang qua. Tiên chúa đã viết thư và gửi Liễu Nghị cùng một chiếc kim thoa nhờ chàng gửi tới thủy cung. Liễu Nghị nghe theo mà tới Bể Đông. Chàng dùng kim thoa gõ vào cây ngô đồng như lời tiên chúa dặn thì y như rằng làn nước rẽ làm đôi đón chàng tới thủy cung. Ở đây chàng đã tâu trình bức thư được tiên chúa gửi nhờ tới Vua Cha. Đọc xong, Vua Cha Thoải Quốc nổi giận sai Trưởng Tử Xích Long Hầu đi đón tiên chúa hồi cung và lập tức trừng trị Kính Xuyên và Thảo Mai. Đồng thời gắn kết mối nhân duyên của tiên chúa với Liễu Nghị. Trong bản văn của Mẫu Đệ Tam chép:
 
“Thỉnh mời Đệ Tam Thánh Tiên
 
Xích Lân Long Nữ ngự miền Thoải Cung
 
Kính Xuyên sớm kết loan phòng
 
Thảo Mai tiểu thiếp ra lòng gieo oan
 
Kinh Xuyên chẳng xét ngay gian
 
Vàng mười nỡ để lầm than sao đành
 
Lòng trời thương kẻ ngay lành
 
Xui quan Liễu Nghị nho sinh tìm vào…”
 
Dựa trên tích này cùng với lòng tín ngưỡng trong nhân dân với Thủy tổ thì Mẫu Đệ Tam được huyền hóa, tái hiện trong các triều đình phong kiến như bà Nguyễn Thị Châu (Châu Nương) ở Kỳ Anh, Hà Tĩnh thời Lê – Nguyễn với tôn xưng mẫu Hàn Sơn. Tuy nhiên, dù được huyền hóa nhiều nhưng tích chung vẫn lấy theo “Liễu Nghị thư”.
 
Một vài sự tích Mẫu Thoải được lưu truyền khác lại cho rằng Mẫu là con gái của Động Đình Quân và là mẹ của Lạc Long Quân.
 
Ở vùng Nghệ An, nhân dân tương truyền rằng lúc mới mở nước, Kinh Dương Vương đi xem cảnh núi sông, tìm nơi đất lành để xây dựng kinh đô. Khi về tới phương nam, đến vùng Ngàn Hống, thấy cảnh núi non hùng vĩ, 99 ngọn cao vút trấn trên tiên Hội, có thế rồng vây hổ chầu, Dương Vương lấy làm vừa ý bèn sai đắp thành dưới núi, xây dựng lâu đài thành lũy,… Công việc tạm xong, vương lại cưỡi truyền trở ra phương bắc tiếp tục cuộc tuần du. Thuyền của vua theo dòng Thanh Long (tên cũ của Sông Lam) đến gần cửa Hội, bỗng thấy người con gái mặt Hoa da phấn, tóc đen mườn mượt, má đỏ hây hây từ dưới nước nổi lên. Sau khi tự xưng là Thần Long, người con gái ấy trở thành vợ của An Dương Vương và là mẹ của Lạc Long Quân – vị vua Hùng Vương thứ nhất.
 
Ki Hồng Bàng thị trong phần Ngoại ký của Đại Việt sử ký toàn thư viết: “Kinh Dương Vương trị vì phương Nam, gọi tên là nước Xích Quỷ, Vua lấy con gái của Động Đình Quân tên là Thần Long, sinh ra Lạc Long Quân.” Hay trong Lĩnh Nam chích quái cũng kể thêm: “Kinh Dương Vương có tài đi dưới thủy phủ, lấy con gái của hồ Động Đình là Long Vương, sinh ra Sùng Lãm, hiệu là Lạc Long Quân.” Hay Phan Huy Chú viết Lịch triều hiến chương loại chí – quyển VI phần nhân vật chí coi Kinh Dương Vương là dòng dõi thần Nông, vua khởi đầu nước Việt ta. Khi trước cháu ba đời Thần Nông là Đế Minh, đi tuần thú ở biển Nam, gặp nàng Vụ Tiên rồi lấy làm vợ, đẻ con là Lộc Tục. Lộc Tục có Thánh Đức, Đế Minh yêu lắm, muốn lập là con nối, nhưng Lộc Tục cố nhường cho anh là Nghi; Đế Minh liền phong cho Lộc Tục ở đất Việt (miền nam), tức Kinh Dương Vương lấy con gái Động Đình Quân, đẻ ra Lạc Long Quân.
 
Như vậy 3 bộ sử giá trị nhất của Việt Nam thời xưa đã ghi nhận vợ của Kinh Dương Vương tức Mẫu Thoải chính là mẹ của Vua Hùng Vương Thứ nhất.
Mẫu Thoải 4 lần hiển linh giúp Vua cứu nước
Mẫu hiển linh giúp vua Lý Thái Tổ
 
Tương truyền vùng Đồng Bằng Bắc Bộ thường xuyên có lũ lụt. Khi vua Lý Thái Tổ dời đô về Thăng Long, ông bắt đầu công việc trị thủy. Công việc kéo dài đến tận thời vua Lý Thái Tông mới căn bản xong. Các đoạn đê được nối liền vào với nhau và có quy mô rộng lớn như ngày nay. Trong suốt quá trình xây dựng hệ thống đê, lũ lụt vẫn thường xuyên xảy ra gây khó khăn cho nhân dân. Mẫu Thoải đã phái các thủy thần, tướng lĩnh của mình đến các làng ven Thăng Long để âm phù giúp dân đắp đê chống lụt. Thần tích này còn được ghi tại các làng Nhật Chiêu, Quảng Bá, Tây Hồ, Yên Phụ,…
Mẫu hiển linh giúp Trần Hưng Đạo
 
Quân Nguyên xâm lăng đất nước, vua Trần Nhân Tông khi ấy triệu Hưng Đạo Vương phong làm Đại Nguyên Soái cất quân đi dẹp giặc. Lúc ấy khi đi ngang qua sông Xâm Miện (khu đền Dầm) thì mặt trời vừa lặn. Ông cho quân lính cắm trại dừng chân bên bãi sông còn mình thì ở lại trên thuyền.
 
Đêm đến, trong cơn mơ, ông thấy một người con gái áo trắng, mang đai ngọc lưu ly cưỡi rồng vàng đến trước mặt ông và nói rằng: “Thiếp là con gái Long Vương là Thủy Tinh Ngọc Dung công chúa, được lệnh đến giúp ngài diệt giặc. Ngài hãy đem quân đuổi giặc, thiếp nguyện âm phù trợ giúp.” Tỉnh dậy ông biết là mộng báo có người phù trợ bèn xua quân đại chiến với giặc. Hai bên giao tranh ác liệt thì gió bấc thổi lên, nước sông cuồn cuộn, sóng nổi ngập trời làm cho chiến thuyền của giặc bị nhấn chìm tả tơi.
 
Thắng trận trở về, ông tâu vua báo công và nêu rõ việc Ngọc Dung báo mộng. Vua sai sứ giải về Xâm Miện vào miếu (nay là đền Dầm) bái tạ và ban sắc phong:
 
“Hoàng Long tĩnh mạch, đoan trang
 
Anh linh Thục Diệu phu nhân Trung Đẳng Thần.”
Mẫu hiển linh giúp vua Lê Thánh Tông
 
Tích này liên quan đến ngôi đền Hàn Sơn nổi tiếng tại Thanh Hóa. Tích xảy ra trong quá trình vua Lê đem quân đi đánh Chiêm Thành. Khi thuyền đi qua sông Lèn thì gặp một trận cuồng phong. Vua bèn lập đàn tràng để xin các vị thần phù trợ. Mẫu Thoải hay tin đã phái một nữ tướng đến trị. Ngay lập tức sông yên, gió lặng.
 
Sau khi thắng trận trở về, nhà vua nhớ công ơn, phong tặng cho Mẫu làm Thủy Phủ Thần Nữ tại đền Hàn Sơn. Từ đó, ngôi đền trở thành một trong những đền thờ Mẫu Thoải nổi tiếng nhất vùng.
Mẫu hiển linh giúp vua Lê Thần Tông
 
Đời vua Lê Thần Tông, mẫu Thoải hiển linh phù âm giúp dân chống lụt xua đuổi thủy quái khi nhân dân gặp nạn nước sông Hồng dâng cao bất thường tràn vào cả Yên Phụ. Nhà vua phải đích thân hành lễ Nam Giao (Lễ tế cáo trời đất) để cầu các vị thần linh phù trợ.
Chú ý khi sắm lễ Mẫu Thoải
 
Mẫu Thoải chứng tòa Thánh Mẫu màu trắng nên cần chú ý khi sắm lễ dâng mẫu phải sắm các lễ vật có màu trắng làm chủ đạo. Tại hầu hết các đền thờ mẫu Thoải, các lễ vật cơ bản phải sắm gồm một đĩa hoa, đĩa quả với nhiều loại quả khác nhau, cơi trầu, thẻ hương, giấy tiền, cút rượu, xôi thịt và một cánh sớ.
 
Thông thường sau khi dâng tiến những lễ vật này, đợi hết một tuần hương, bạn sẽ phải hạ toàn bộ những lễ vật này xuống, riêng cánh sớ và giấy tiền phải đem đi hóa
 
Khi ở chốn Động Đình bà vốn là con vua cha Bát Hải nên được gọi là: “Động Đình Trung Công Chúa Ngọc Hồ Thần Nữ”, sau này bà còn có danh hiệu: “Bạch Ngọc Thủy Tinh Xích Lân Long Nữ Công Chúa”.
 
Vậy nên trong văn thỉnh Đức Thánh Mẫu cũng có hát rằng:
 
Thỉnh mời Đệ Tam Thánh Tiên
 
Xích Lân Long Nữ ngự miền Thoải Cung
 
Kính Xuyên sớm kết loan phòng
 
Thảo Mai tiểu thiếp ra lòng gieo oan
 
Kinh Xuyên chẳng xét ngay gian
 
Vàng mười nỡ để lầm than sao đành
 
Lòng trời thương kẻ ngay lành
 
Xui quan Liễu Nghị nho sinh tìm vào…
 
Đền thờ Mẫu Thoải có khá nhiều nhưng hầu hết đều do lòng thành kính của nhân dân hoặc do nơi cửa sông cửa biển chứ hầu như không có dấu tích của Mẫu vì Mẫu không giáng trần.Nổi tiếng nhất có Đền Mẫu Thác Hàn Sơn ở huyện Hà Trung Thanh Hóa nơi bến Đò Lèn còn có Đền Mẫu Thoải ở thị xã Lạng Sơn gần sông Kì Cùng và có ngôi đền ở bến sông Hồng gần cầu Chương Dương Gia Lâm cũng tên là Đền Mẫu Thoải hay còn gọi là Đền Cửa Sông.
 
Mẫu Đệ Tam hay còn gọi là Mẫu Thoải ( chữ THOẢI đọc chệch từ chữ THỦY) hay còn gọi là Thủy cung Thánh Mẫu Cùng với Mẫu Thượng Ngàn Mẫu Thoải ra đời trước cả Mẫu Liễu Hạnh.Trong Tam Tòa Thánh Mẫu Mẫu Thoải đứng hàng thứ ba.
Có rất nhiều người trong chúng ta sẽ muốn tìm hiểu xem Mẫu Thoải là ai?
Không giống như Mẫu Liễu Hạnh Mẫu Thoải và Mẫu Thượng Ngàn có nhiều sự tích khác nhau không thống nhất.
 
 
1- Tài liệu thứ nhất: (Tại vùng Thái Bình, Nghệ An)
 
A- Vùng Thái Bình: Từ thuở khai sinh lập địa, mở mang đất nước, vua Kinh Dương đi chu du khắp thiên hạ và gặp được một người con gái có nhan sắc tuyệt trần. Vua liền kết duyên cùng nàng
Nàng chính là con gái của Long Vương.
Sau đó, bà đã sinh ra Sùng Lâm ( là vua Lạc Long Quân).
Bà là người của thủy cung nên được giao cho cai quản các vùng biển, sông, ao, hồ...
 
B-:Vùng Nghệ An: Tương truyền rằng vua Kình Dương đã gặp con gái của Long Vương tại sông Thanh Long ( ngàu nay gọi là sông Lam).
Còn truyền thuyết ở đền Dùm ( Tuyên Quang) đền Xâm Thị và đền Dầm thì cũng nói Mẫu Thoải là con gái của Long Vương nhưng không kể về chuyện họ sinh ra Lạc Long Quân.
 
THẦN TÍCH CỦA MẪU ĐỆ TAM:
 
 
Mẫu Đệ Tam là con gái của Long Vương kết duyên cùng Kinh Xuyên ( là con trai của vua đất)
Khi đức lang quân đi vắng bà ngồi khâu vá bị kim đâm vô ngón tay đã lấy mảnh vải trắng thấm máu rồi bỏ vào thùng đựng rác thải nhưng bị Thảo Mai ( một tì thiếp của Kinh Xuyên) vốn mang lòng đố kị ghen ghét với bà, đã giấu nó đi.
Đến khi Kinh xuyên trở về Thảo Mai đã mang ra vu oan cho bà là: Ở nhà, bà đã cắt máu thề nguyền tư thông cùng kẻ khác.
Kinh Xuyên bỏ ngoài tai lời thanh minh của bà, ghen tuông mù quáng, một mực sai người đóng cũi, bỏ vợ vô đó, mang vào rừng sâu để mặc cho thú dữ ăn thịt.
Ở chốn rừng sâu, núi thẳm ý, hoàng hậu lại được muông thú yêu mến, chúng mang hoa quả và nước uống đến dâng cho Người.
Ông trời thương đã ban đức hiếu sinh nên có một chàng thư sinh nghèo tên là Liễu Nghi ( quê đất Thanh Miện) lên kinh dự thi chẳng may đi lạc đường đã đi ngang qua chỗ bà bị đầy ải.
Thấy tình cảnh đáng thương của người phụ nữ đó, đã đến để hỏi rõ sự tình.
Bà đã kể cho chàng nghe hết đầu đuôi câu chuyện và nhờ chàng giúp đỡ.
Liễu nghi mang giúp bức thư của bà ra sông Ngân Hán là mái Long Giai ngoài biển Đông.Tại đây chàng nhìn thấy cây ngô đồng liền rút kim thoa gõ vào cây ba lần
 
Tức thì gió giật đùng đùng nổi lên mưa đổ xuống như trút nước biển động ầm ầm...Giữa dòng đó chợt thấy xuất hiện đôi bạch xà, chàng liền trình bày mọi việc và chúng đã vâng lệnh đưa chàng xuống thủy cung, để trao bức thư cho Long Vương.
Sau khi hiểu rõ sự tình vua Thủy tề tức giận sai người đi bắt Kinh Xuyên và Thảo Mai về hỏi tội.
Sau đó vua còn truyền cho Trưởng Tử Xích Lân lên rừng đón bà về thủy cung.
Vua cha đã cho bà được kết duyên cùng Liễu Nghi giao cho chàng giữ chức QUỐC TẾ THỦY QUAN.
 
Trong văn hầu Mẫu Đệ Tam có đoạn nhắc đến giai thoại này:
“Thỉnh mời Đệ Tam ThánhTiên
Xích Lân Long Nữ ngự miền Thoải Cung
Kính Xuyên sớm kết loan phòng
Thảo Mai tiểu thiếp ra lòng gieo oan
Kinh Xuyên chẳng xét ngay gian
Vàng mười nỡ để lầm than sao đành
Lòng trời thương kẻ ngay lành
Xui quan Liễu Nghị nho sinh tìm vào…
 
2-Truyền thuyết Mẫu Thoải là vợ vua Thủy Tề:
Tương truyền, Mẫu Thoải là vợ vua Thủy Tề.
Ở đây vua Thủy Tề trông coi các việc ở biển, còn bà thì trông coi các việc ở sông suối.
Nước ta, sông suối có ở khắp nơi nên Mẫu cũng có đền thờ ở các bến sông lớn.
.Ở làng Viêm Xá, Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh, Mẫu Thoải được thờ là Thành Hoàng, có sắc phong đề:
"Nhữ Nương Nam nữ Nam Hải Đại Vương" .
 
3- Truyền thuyết Mẫu Thoải là hóa thân của ba nàng công chúa của Lạc Long Quân và Mẫu Âu Cơ.
Tương truyền rằng, Lạc Long quân giao cho ba nàng công chúa cai quản biển nước Nam là Thủy tinh động đình Ngọc nữ công chúa, Hoàng Bà Đoan khiết phu nhân và Tam Giang công chúa. Ba bà đóng dinh cơ ở sông Nguyệt Đức và có nhiệm vụ coi sóc sông nước, luồng lạc, dạy dân chế tạo thuyền bè, đan lưới bắt cá, chế ngự các vị thần mưa, thần gió nếu các vị này dám đến xâm hại.
Các bà còn làm mưa cứu hạn và giúp dân chống lụt
 
ĐỀN MẪU THOẢI ĐƯỢC THỜ Ở NHỮNG NƠI :
 
Tuyên Quang có 3 ngôi đền thờ Mẫu Thoải: ĐỀN HẠ (Đền Tam Cờ), ĐỀN Ỷ LA ĐỀN THƯỢNG
Đền Hạ là đền gốc còn hai đền kia là đền được chia tách từ Đền Hạ
Đây là ba ngôi đền chính của Mẫu Thoải được gắn với sự phát tích của Mẫu.
Mẫu Thoải có công trạng phù các triều đại đánh giặc giữ nước.
Dấu tích của Mẫu Thoải phù cho Trần Nhân Tông đánh quân Nguyên được phát tiết tại vùng Thường Tín - Hà Nội. Tiêu biểu về dấu tích này là đền XÂM THỊ ở xã Hồng Vân ĐỀN DẦM xã Ninh Sở.
Đây được coi là hai ngôi đền chính của Mẫu Thoải gắn với tích Mẫu hiển linh phù vua Trần.
Đền Mẫu Thác Hàn - Thanh Hóa là dấu tích của Mẫu Thoải hiển linh giúp vua Lê Lợi.
Ngoài ra Mẫu Thoải còn được thờ vọng ở nhiều nơi.Có lẽ phải kể đến Đền Mẫu Thoải tại Lạng Sơn, Đền Ghềnh - Gia Lâm...
 
Ngày tiệc chính của Mẫu Thoải là ngày 10/6 âm lịch thường được tổ chức long trọng nhất là ở Đền Mẫu Thác Hàn Sơn.

 

 

Mẫu Thượng Thoải – Xích Lân Long Nữ Công Chúa

Mẫu Đệ Tam Thoải Cung áo trắng tại Đền Hàn Sơn Thanh Hóa

Thánh Mẫu Đệ Tam Thoải Phủ hay còn gọi là Mẫu Thoải là một trong ba vị nữ thần thuộc hàng Tam Tòa Thánh Mẫu. Đây là vị nữ thần trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt chịu trách nhiệm cai quản các miền sông nước. Trong số những Thủy Phúc Thần trong tín ngưỡng người Việt thì Mẫu Thoải là vị Thần quan trọng nhất. Theo tư duy dân gian thì Mẫu tức là mẹ, là người khởi nguyên sáng tạo ra vạn vật thế gian. Theo đó, Mẫu Thoải là người khởi nguyên sáng tạo ra mọi miền sông nước như biển, hồ, ao, đầm,… Mẫu Thoải hội tụ, hồi quang và tỏa chiếu sức mạnh của mọi Thủy Thần, là người có thế lực và quyền năng điều hòa gió, mưa, nguồn nước.

“Thỉnh mời Thánh Mẫu Đệ Tam

Xích Lân Long Nữ ngự miền Thoải Cung

Kính Xuyên sớm kết loan phòng

Thảo Mai tiểu thiếp ra lòng gieo oan

Kính Xuyên chẳng xét ngay gian

Vàng mười nỡ để lầm than sao đành

Lòng trời thương kẻ ngay lành

Xui quan Liễu Nghị nho sinh tìm vào…”

Mẫu Đệ Tam Thoải Phủ

Thánh Mẫu Đệ Tam Thoải Phủ

Thần tích Mẫu Đệ Tam Thoải Phủ

Trong tín ngưỡng thờ Mẫu Tam Tứ Phủ của người Việt, Tam Tòa Thánh Mẫu là ba vị nữ thần cai quản các miền khác nhau bao gồm miền trời (thượng thiên), miền rừng núi (thượng ngàn) và miền sông nước (thoải phủ). Thánh Mẫu Đệ Tam Thoải Phủ là vị thánh mẫu thứ ba, coi sóc miền đồng bằng sông nước. Trên ban thờ Tam Tòa Thánh Mẫu ta sẽ thấy Mẫu Thoải mặc xiêm y trắng, ngồi bên trái Thánh Mẫu Đệ Nhất Thượng Thiên. Chữ Thoải là đọc chệch từ chữ Thủy (nghĩa là nước). Xiêm y trắng cũng là tượng trưng cho nước, thế giới Mẫu cai quản.

Sự tích Mẫu Thoải được ghi rõ trong bản văn mẫu. Ngoài ra còn có tác phẩm “Liễu Nghị truyền thư” (Truyện Liễu Nghị). Sự tích lưu truyền Thánh Mẫu Đệ Tam Thoải Phủ vốn là con Vua Bát Hải Long Vương Thủy Quốc Động Đình. Theo lời vua cha, Ngài kết duyên cùng Kính Xuyên là con Vua Đất. Một buổi, Kính Xuyên đi vắng, tiểu thiếp Thảo Mai tìm cách giả đồ thư để hãm hại ngài, Kính Xuyên mù quáng, nghe lời Thảo Mai vu cho rằng ngài thất tiết, đem đóng cũi, bỏ lên rừng cho thú dữ ăn thịt. Tại nơi rừng sâu ngài không những được thú rừng yêu quý, mang vật quả đến dâng mà còn tình cờ gặp được nho sĩ Liễu Nghị. Cảm thương trước nỗi oan của ngài, Liễu Nghị theo lời ngỏ mang thư của ngài theo chỉ dẫn về đến Hồ Động Đình truyền thư. Chàng dùng kim thoa gõ vào cây ngô đồng như lời tiên ngài dặn thì y như rằng làn nước rẽ làm đôi đón chàng tới thủy cung, tại đây chàng kể hết sự tình và tình hình hiện tại của ngài cho vua cha. Sau đó vua cha sai người đi đón và minh oan cho ngài. Đồng thời cho phép ngài cùng kết duyên với Liễu Nghị, đồng thời cũng trừng phạt Kính Xuyên và Thảo Mai. Dựa trên tích này cùng với lòng tín ngưỡng trong nhân dân với Thủy Tổ thì Mẫu Đệ Tam đư?m>“Sơn lâm rừng vắng chốn này,
Cớ sao quân tử tới đây lạc loài?
Ngày hồ đã trăng soi ác lặn,
Chàng hãy còn thơ thẩn cớ sao?”
Thưa rằng: “hàn sĩ chí cao,
Mười năm đèn sách công lao chuyên cần;
Hội khoa xuân hiềm chưa gặp gỡ,
Tưởng duyên này cắc cớ vì đâu?”
“Dám xin kết ngãi trần châu,
Kẻo lòng quân tử gieo cầu dưới trăng>”
Chúa nghe nói dùng-dằng khôn siết,
Đoái nhủ chàng”Cả quyết sao nên?
ta nay người dưới Thủy Tiên,
Nghiêm từ sớm định kết duyên dai -kỳ.
Khăng khăng giữ đạo tùy sau trước,
Chẳng ngờ chàng tính nước lòng mây”;
“Bỗng không bốc lửa bỏ tay,
Gieo oan một phút bắt đầy mười đông.
Cạy quân tử tin thông họa nả.
Sự duyên này dám há đơn sai.”
Chàng rằng: “Nguyện được như lời,
Đã đành bể rộng sông dài quản đâu”.
Nhờ đèn nguyệt đêm thâu bóng thỏ,
Giãi tấc lòng núi cỏ non xanh;
hàn-lâm nghe mảng tiếng kềnh,
Kim-ô bóng đã lộ hình ra đâu.
Chúa hiềm nỗi bấy lâu oan ức,
Phó kim thoa một bức thư phong.

VẬY CÓ THƯ RẰNG:

Nữ tiên thủ bút, con bái lạy vua quan: thân nữ nhi phận gái hồng nhan; đã sinh cửa quyền môn quý tôc. Tam niên dưỡng dục; phụ tử tình thâm. Khi cả khôn duyên bén sắt cầm; khăng khăng giữ tòng phu cho phải đạo. Trách bà Nguyệt lão; khéo quải duyên ai! Vì tiểu tinh là cái Thao-Mai; Đầu thư giả làm ra oan trái. trách chàng cả dạ; nghe đứa tà dan. Bảo cho con nết ở đa đoan, đem đầy chốn rừng xanh núi cỏ. Một mình vò võ, nào có ai hay. Ngày gió đưa làm bạn với cỏ cây; đêm trăng bạc biết cùng ai năn nỉ. Bỗng đâu nho sĩ, bước đến thẩn thơ. Nguyệt ta-tà thẫn-thẫn thờ-thờ; Nghĩ nông nỗi dừng chân lỡ bước. Trước sau sau trước, mượn bút thay lời. Chiếc thoa tin với bức thư này; dẫu nghìn dậm công lênh đừng có tiếc. vu oan một tiếng, vắng vẻ mười đông. Sự soay vần đã có thiên công; thư một bức đôi vừng nhật nguyệt. Sự tình con xin kể hủy chung.

Nhủ chàng ra mãi bể Đông,
Tới đâu là bóng ngô-đồng cây cao;
lấy kim thoa gõ vào cây ấy,
Dưới Thủy tề nghe thấy chẳng lâu;
Phòng khi ứng hiện nhiệm mầu,
Hẹn chàng thưa gửi gót đầu đinh ninh.
Chàng quân tử tâm tình sau trước,
Dạ ngùi ngùi chân bước đường thông;
Bể nào lai láng xa trông,
Nửa nỗi Chúa, nửa mòng sự duyên.
Sông vân hán bằng miền Thủy phủ.
Tới ngô-đồng tay gõ một thôi;
Tự nhiên nổi trạn phong lôi,
Giữa dòng nước chảy có đôi bạch xà.
Chàng trông thấy sự đà ứng hiện,
Mới hay lời Chúa phán phân minh;
Bạch sà thoắt xuống Động đình,
Bách quan rẽ nước giàng xanh rước chàng.
Rước chàng xuống đèn vàng Thủy phủ,
Thấy triều thần văn võ đôi bên;
Tiêu thiều nhạc táu dưới trên,
Tả biên ngư mục, hữu biên bạch sà.
Kim quy sứ vào tòa ngọc bệ,
Mới phán đòi Liễu Nghị vào trong;
Chàng bèn dâng bức thư phong,
Phụ vương trông thấy trong lòng quặn đau.
Trách Kính Xuyên cơ cầu độc dữ,
Mới đòi chàng Hoảng tử Xích Lân;
Phán rằng: Chúa phải gian truân,
Con vua rước xuống Thủy cung chớ chày
Lời Bương phụ phán ngay lập tức,
Sai các quan hết sức thần thông;
Chiêng kêu, cờ phất, trống rung,
Khắp hòa thế giới đều cùng mênh mông,
Bốn phương trời mưa rong chớp giật,
Quỷ cùng tờ giéo giắt mọi nơi;
Rước Chúa về tới long ngai,
Tội Kính Xuyên với Thảo Mai luận đầy,
Công cán này ai bằng Liễu Nghi,
Sắc phong làm Quốc-tế Thuy quan;
Chàng từ bái lệnh thiên nhan,
Duyên ưa phận đẹp sắc ban trọng quyenf.
Duyên thiên công bày yên thuở trước,
Người phàm trần lại được bén tiên;
Chàng từ kim cải kết duyên,
Có cơ trí tuệ, có quyền anh linh
Dầu ai có bệnh cùng khí huyết,
Lập đàn len Chầu hát lại tha,
Dầu ai dâng tiến hương hoa,
Tiền tài lưu loát, cửa nhà khang ninh.
Dầu ai ai dốc lòng thành phụng bái,
Phúc đến nhiều lộc lại đề đa;
Toàn gia con cháu vinh hoa,
Mãn đường phu quý trẻ già bình an.
Chữ rằng: Thánh giáng lưu ân!
Thần giáng lưu phúc, thiên xuân thọ trường!

 
 

ĐẠO MẪU VIỆT NAM

Liên hệ

Trang Chia Sẻ Tâm Linh Cho Người Việt

 

XEM BÓI MIỄN PHÍ ONLINE 0966662332

 

  

XEM BÓI MIỄN PHÍ ONLINE 0966662332

XEM BÓI MIỄN PHÍ ONLINE 0966662332

 

zalo