Đầu Xuân Năm Mới Chúc BÁCH GIA TRĂM HỌ BÌNH AN
Chúc Sang Năm Mới Nhiều TÀI LỘC
Công Thành Danh Toại VINH QUANG
MÙNG 1 SỚM MAI
MÙNG 2 ĐẦU THÁNG 1 QUÝ MÃO NIÊN
CHÚC 3 BÁCH GIA TRĂM HỌ
GIÀ THÌ SỨC KHỎE TRẺ ĐƯỢC BÌNH AN
ĐI TƯƠI VỀ TỐT BUÔN MAY BÁN ĐẮT
ĐIỀU LÀNH MANG LẠI ĐIỀU DẠI MANG ĐI
MÙNG 1 SỚM MAI - MÙNG 2 ĐẦU THÁNG
Page : XEMBOIMIENPHI.VN
CẦU AN CHO BÁCH GIA TRĂM HỌ
1 NĂM MỚI NHIỀU NIỀM VUI MAY MẮN
TỐT LÀNH AN KHANG THỊNH VƯỢNG VẠN SỰ NHƯ Ý
SỞ NGUYỆN Ý CẦU.CẦU ĐƯỢC THÀNH CÔNG NHƯ Ý
GIA ĐÌNH AN KHANG THỊNH VƯỢNG
1. Đầu xuân chúc bạn bè gần xa
Dồi dào sức khỏe toàn gia an bình
Ấm êm cuộc sống gia đình
Vợ chồng hòa thuận lửa tình nhân đôi
Công danh sự nghiệp rạng ngời
Trẻ già vui vẻ tiếng cười rộn vang
Niềm vui hạnh phúc ngập tràn
Tiền nong rủng rỉnh bạc vàng đầy kho.
2. Mừng năm mới phát tài phát lộc
Tiền vô xồng xộc, tiền ra từ từ
Sức khoẻ có dư, công danh tấn tới
Tình duyên phơi phới, hạnh phúc thăng hoa
Xin chúc mọi nhà một năm ĐẠI THẮNG
3. Chúc mọi người đẹp như hoa hồng
Thành công như Cúc
Hạnh phúc như hoa Mai
Phát tài như hoa Pháo
Độc đáo như hoa Lan
An khang như hoa Huệ
Trí tuệ như hoa Sen
4. Chúc các bạn luôn hoan hỉ
Sức khỏe bền bỉ
Công danh hết ý
Tiền vào bạc tỉ
Tiền ra ri rỉ
Tình yêu thỏa chí
Vạn sự như ý
Luôn cười hí hí
Cung hỷ cung hỷ
5. Cung chúc tân niên,
Sức khỏe vô biên,
Thành công liên miên,
Hạnh phúc triền miên,
Túi luôn đầy tiền,
Sung sướng như tiên.
1. Chúc mừng năm mới.Chúc toàn thể gia đình bạn vạn sự như ý,tỉ sự như mơ,triệu triệu bất ngờ,không chờ cũng đến!
2. Chúc bạn 12 tháng phú quý,365 ngày phát tài,8760 giờ sung túc,525600 phút thành công,31536000 giây vạn sự như ý.
3. Năm mới chúc bạn sức khỏe nhiều.Bạc tiền rủng rỉnh thoải mái tiêu.Gia đình hạnh phúc bè bạn quý
Thanh thản vui chơi khỏi nghĩ nhiều.
4. Cung chúc tân niên Sức khỏe vô biên Thành công liên miên Hạnh phúc triền miên Túi luôn đầy tiền Sung sướng như tiên.
CÁC NGÀY TIỆC THÁNG 1
+ Ngày 06/1: Tiệc Cô đôi Thượng ngàn
+ Ngày 09/1: Tiệc Đức Vua Cha Ngọc Hoàng Thượng Đế
+ Ngày 09/1: Tiệc Cửu Thiên Huyền Nữ Công Chúa
+ Ngày 10/1: Tiệc Quan Hoàng Tám ( Tiệc quan hoàng Bát - Tướng quân Nùng Chí Cao)
+ Ngày 10/1: Tiệc Quan Lớn Đệ Nhất
+ Ngày 12/1: Tiệc Trần Triều Đệ Nhất Vương Cô Quyên Thanh Công Chúa
+ Ngày 15/1: Đại Lễ Thượng Nguyên
+ Ngày 15/1: Tiệc Tản Viên Sơn Thánh
+ Ngày 17/1: Tiệc cô Tân An;
+ Ngày 20/1: Ngày nhà Trần ra quân
+ Ngày 19-21:Tiệc Tứ Vị Vua Bà (Tại Đền Cờn - Nghệ An)
+ Ngày 25/1: Hội đồng đại lễ nhà Trần
+ Ngày 06/1: Tiệc Cô đôi Thượng ngàn
Sự Tích Cô Đôi Thượng Ngàn Văn Cô Và Đền Thờ Cô
Cô Đôi Thượng Ngàn là vị thánh cô thứ hai thuộc hàng Tứ Phủ Thánh Cô trong Tín ngưỡng thờ Mẫu tam tứ phủ của người Việt
Cô nổi tiếng khắp miền thượng ngàn và là một trong những thánh cô được nhiều người biết đến nhất
Ngày hôm nay http://xemboimienphi.vn xin giới thiệu tới bạn đọc một số nét về Cô Đôi Thượng Ngàn
Mời các bạn cùng tham khảo.
Ngọc Điện chốn kim môn cô Đôi ra vào
Ngọc Điện chốn kim môn
Danh thơm ngoài cõi.
Tiếng đồn trong cung
Sự Tích Cô Đôi Thượng Ngàn
Cô Đôi Thượng Ngàn vốn là con Vua Đế Thích trên Thiên Cung, được phong là Sơn Tinh Công Chúa. Sau cô giáng sinh xuống đất Ninh Bình làm con gái nhà một gia đình vị quan lang ở chốn sơn lâm.
Truyện kể rằng ngày xưa có một vị quan lang họ Hà người Mường, ở vùng Nho Quan, Ninh Bình. Ông vốn nổi tiếng khắp vùng vì đức độ, luôn phát tâm thiện nguyện, cứu giúp dân nghèo. Tuy vậy, hai ông bà đã vào tuổi trạc ngũ tuần, nhưng vẫn chưa có con. Vì vậy nên ông bà lập đàn tế trời cầu tự. Lời cầu xin vọng đến Ngọc Hoàng, ngài động lòng mới sai tiên Cô giáng sinh, đầu thai làm con ông bà. Mười hai tháng sau bà có thai và sinh hạ cô.
Lúc cô ra đời có đôi chim khách đến hót không ngừng, mừng tiên cô giáng sinh phàm trần. Năm Cô lên bốn tuổi, gia định vị quan lang chuyển tới làm quan ở Huyện Cao Phong, châu Mai Đà, tỉnh Hưng Hóa. Ở trên vùng cao, nước sinh hoạt thiếu thốn, dưới chân núi Đầu Rồng lại có con suối nước thần, nước trong mát quanh năm, người dân ở đó thường ra suối gánh nước về dùng, cô cũng thường ra đó gánh nước về giúp đỡ ông bà.Thời gian thấm thoát đã trôi qua, năm đó cô mười hai tuổi mà đã xinh đẹp tuyệt trần da trắng, tóc mượt, mặt tròn, lưng ong thon thả.
Chuyện kể rằng, Thánh Mẫu Thượng Ngàn yêu mến muốn thử lòng người trần gian, độ cho người có tâm, bèn hóa thành một bà lão đói khát, bệnh tật nằm lả ở gốc cây đa dưới chân núi Rồng. Bà nằm đó kêu rên từng tiếng khó nhọc, cầu mong sự giúp đỡ của mọi người qua lại, thế nhưng chẳng ai chịu ra tay cứu giúp. Đúng vừa lúc cô ra suối gánh nước thấy bà lão đáng thương, cô động lòng thương cảm bèn quỳ xuống vực bà ngồi dậy, cho bà uống nước. Bất chợt tự nhiên trời đất tối xầm, mây đen kéo tới, gió bụi cuốn lên mù mịt. Bà lão hiện thành Tiên Chúa Thượng Ngàn và nói với cô rằng bà chính là đức Diệu Tín Thiền Sư Lê Mại Đại Vương (tức Mẫu Thượng Ngàn). Vì thấy cô là người ngoan ngoãn, hiền lành, đức độ; kiếp trước là tiên nữ trên tiên giới, nghe lệnh Ngọc Hoàng mà hạ phàm báo ân cha mẹ; nên Mẫu độ cho cô thành tiên, trở về bên hầu cận bên cạnh Mẫu, cứu giúp nhân gian. Sau đó Mẫu rút cây gậy khắc đầu rồng bên mình ra trao cho cô. Cô nhận cây gậy rồi trở về nhà, bốn ngày sau thì hóa.
Rồi khi về thiên giới, cô được Mẫu Thượng Ngàn truyền cho vạn phép, giao cho cô dạy người rừng biết thống nhất về ngôn ngữ.Lúc thanh nhàn cô về ngự cảnh sơn lâm núi rừng ở đất Ninh Bình quê nhà trong ba gian đền mát cô cùng các bạn tiên nữ ca hát vui thú trên dốc Sườn Bò (nay thuộc xã Văn Phương, Nho Quan).Có khi cô biến hiện ra người thiếu nữ xinh đẹp, luận đàm văn thơ cùng các bậc danh sĩ tương truyền cô cũng rất giỏi văn thơ làm biết bao kẻ phải mến phục.Cô Đôi cũng là tiên cô cai quản kho lộc Sơn Lâm Sơn Trang người trần gian ai nhất tâm thì thường được Cô Đôi ban thưởng nhược bằng có nợ mà không mau trả lễ cô lại bắt đền nặng hơn.
Đền thờ Cô Đôi Thượng Ngàn
Hai ngôi đền thờ cô thuộc địa phận Nho Quan, tỉnh Ninh Bình và huyện Cao Phong, tỉnh Hòa Bình – nơi gắn với truyền thuyết sinh hóa của Cô.Đền Bồng Lai (Còn gọi là đền Bồng Lai Hạ) ở Nho Quan, Ninh Bình là nơi Cô được giáng sinh và Đền Bồng Lai Thượng ở Cao Phong, Hòa Bình là nơi Cô hóa.
Ngôi đền Bồng Lai Hòa Bình nằm trong khu du lịch tâm linh núi đầu Rồng – Thị Trấn Cao Phong – Hòa Bình và là nơi thờ Cô Đôi Thượng Ngàn. Đền còn gọi là: Đền Thượng Bồng Lai, hay Bồng Lai Linh Từ. Quả thực, nếu ai đã từng đến đây, đều phải công nhận đúng là chốn “Bông Lai tiên cảnh”. Đây là một ngôi đền khang trang, tố hảo đẹp bậc nhất Việt nam.
Cô Đôi Thượng Ngàn còn được thờ tại Đền Cô cách đền Mẫu Đông Cuông khoảng 500m. Ngôi đền này được xây dựng với quan niệm rằng cô là tỳ nữ bên cạnh Mẫu Thượng Ngàn. Khu du lịch Hàn Sơn – Thanh Hóa cũng có một ngôi Đền Cô Đôi Thượng Ngàn. Ngoài ra, Cô Đôi Thượng Ngàn chủ yếu được phối thờ tại các cung Tứ Phủ Thánh Cô hoặc một ban riêng ở các đền phủ.
Văn Cô Đôi Thượng Ngàn
Văn cô Đôi Thượng Ngàn thứ nhất
Thiên Thai là cảnh bồng lai
Tấu Cô Đôi Thượng đại tài hái hoa
Hầu vua hầu mẫu ba toà
Tiếng tăm lừng lẫy chúa bà yêu thương
Về đồng đánh phấn soi gương
Lược ngà chải chuốt vành dây đội đầu
Rong chơi quán Sở tần Lâù
Xe giá lên chầu thưọng đế vua cha
Đệ tử Cô vô số hằng hà
Chiêu tài tiếp lộc gần xa cho đồng
Hầu vua hầu mẫu bơ toà
Vua cha cũng quý, chúa bà yêu thương
Về đồng đánh phấn soi gương
Khăn xanh lấy chít vành dây đội đầu
Rong chơi quán Sở Tần lâù
Loan giá lên chầu thưọng đế vua cha
Đền thờ Cô vô số hằng hà
Ban tài tiếp lộc gần xa cho đồng)
Đứng trên ngàn rừng xanh ngan ngát
Thấy cô về ngỡ Phật quan âm
Tay đàn miệng hát ca ngâm
Điểm đa điểm đót tiếng trầm nhặt khoan
Vượn trên non ru con rầu rĩ
Dưới suối ngàn chin năn nỉ véo von
Vui về thú cảnh Đông cuông
Trên ngàn cô thượng ca ngâm chơi bời
Cảnh núi rừng sương rơi lác đác
Thú hữu tình càng ngự càng vui
Ba gian lầu mát thảnh thơi
Sớm rong đỉnh núi tối ngồi sườn non
Ca rằng tang tính tình tang
Ai ơi có biết cô ngàn tôi chăng
Bốn bề hiu quạnh vắng tanh
măng tre măng lứa mọc xanh đầy ngàn
Chắp tay bái lạy cô ngàn
Sơn lâm công chúa giáng đàn chứng đây
Trần gian hồ dễ ai hay
mời cô lai giáng đền này chứng minh
Hiệu cô là công chúa Sơn tinh
mặt tròn vành nguyệt má in phấn hồng
Da cô trắng tựa tuyết đông
tóc dà dà biếc lưng ong dịu dàng
Chân cô đưa nhởn đưa ngang
Bước nào bước ấy tiên nàng nguyệt nga
Chạnh lòng vàng đá người ta
Chau mày quân tử xót xa yêng hùng
Mỗi năm đẹp một não nùng
Dạy chim oanh hót bạn cùng văn nhân
vẻ nào vẻ chẳng thêm xuân
éo le nhiều nỗi thanh tân chơi bời
Tốt tươi miệng nở hoa cười
Đáng xinh đáng lịch đáng người thuyền quyên
nàng ân nàng ái kề bên
Cô Lan cô Huệ chúa tiên thượng ngàn
Non xanh nước biếc suối vàng
Đông cuông cảnh ấy lại càng lâng lâng
có phen cô dạy ngưòi rừng
nói ra trăm tiếng giống chung ngôn từ
Cô theo hầu Diệu tín thiền sư
Anh linh nổi tiếng Đông Cuông Từ Sơn Lâm
Ngự sơn lâm đông cuông tuần quán
Cô Đôi ngàn vạn phép anh linh
Tiên Cô biến hoá hiện hình
Cung thỉnh các bộ sơn tinh ngự về
Chữ biển đề Đại vương Lê Mại
Phép Khuông phù quốc thái dân an
Thỉnh cô chứng giám đàn tràng
Độ cho đồng tử an khang đời đời.
Văn cô Đôi Thượng Ngàn thứ hai
Ngọc điện chốn kim môn, cô ra vào ngọc điện chốn kim môn
Danh thơm ngoài cõi tiếng đồn trong í i cung.
Xinh thay một thú cô Đôi ngàn
Bầu trời cảnh phật í i ì í i phong quang bốn mùa
Trên bát ngát trăm hoa đua nở
Dưới cảnh bầy cầm thú đua chơi i ì í a ới a à ới a a…
Chim bay phấp phới mọi nơi
Cá theo ngược nước í i i ì í i lượn bơi vẫy vùng
Trên rừng tùng gió rung lác đác
Đỉnh sườn non đá chất cheo leo
Kìa dòng sông Thương nước chảy trong veo i ì í a ới a à ới a a…
Sông Thương nước chảy trong veo
Thuyền xuôi người ngược í i ì í i có tiếng hò reo vang lừng
Nhìn đá núi mấy tầng cao thấp
Ngàn cỏ hoa tăm tắp màu xanh i ì í a ới a à ới a a…
Cô chơi bốn mùa gió mát trăng thanh
Hoa khoe sắc thắm í i ì í i đua tranh mọi màu
Niềm thích thú một bầu phong cảnh
Mùi cơm lam thịt thính cô ưa.
Cô chơi Đồng Đăng, ao Cả, chợ Bờ i i ì i…
Bài sai đố triệu lục cung
Nàng ân nàng ái vốn dòng sơn trang
Tính cô hay măng trúc măng giang á a a á à à a…
Thiều quang sáng tỏ lưng trời
Một màu xuân sắc tốt tươi rườm rà
Trên ngàn xanh lắm quả nhiều hoa á a a á à à a…
Ngàn xanh lắm quả nhiều hoa
Cô Đôi dạo gót vào ra sớm chiều
Chiếc hồ mây nặng trĩu lưng đeo á a a á à à a…
Chân cô đã bước tới đâu
Gieo mầm nhân nghĩa nối cầu vinh hoa
Cô đẹp sao Bắc đẩu ngân hà á a a á à à a…
Á a a á à à a…
Ế ê ê ề ê ế …..
Dốc cao mặc dốc băng băng qua đèo,đèo còn xa.
Dốc cao mặc dốc băng băng qua đèo,đèo còn xa
Ánh trăng mở chiếu.soi bên đồi cô đẹp làm sao.
Ánh trăng mở chiếu .soi bên đồi cô đẹp làm sao
Trời mịt mùng núi ngàn cheo leo,núi non mịt mùng.
Nước chảy róc rách ôi nước chảy về đâu
Nước tuôn rì rào nước chảy rì rào.
Những nàng tiên ca hát vang muôn lời ca.
Cô lên ngàn cô xuống núi.
Hú vang vang cả núi đồi
Ơi rừng ơi núi ơi rừng ơi núi ơi …ế ê ê ề…..
Ngày 5 cho chí ngày 10 là ngày phiên chợ đồng đăng kỳ lừa
Bước nhanh chân kẻo chợ về trưa bán hàng chưa hết lại mua hàng về.
Á a a a á à a a
Á…. a…. a… a… á …à …a.. a..
Xe loan thánh giá hồi cung
Văn Cô Đôi Thượng Ngàn thứ ba
Đứng trên ngàn rừng xanh ngan ngát
Thỉnh cô về mộ Phật Quan Âm
Tay đàn miệng lại ca ngâm
Thánh tha thánh thót tiếng trầm nhặt khoan
Vượn trên non ru con rầu rĩ
Dưới suối ngàn chim nỉ véo von
Vui về thú cảnh lâm sơn
Cô mường cô mán hát ngâm chơi bời
Hát tiếng đầy tiếng với lã chã
Thú hữu tình càng ngự càng vui
Ba gian đền mát thảnh thơi
Sớm rong sườn núi tối ngồi đầu non
Trúc véo von đàn thông lừng lẫy
Nước đầu ghềnh rây rẫy khoan khoan
Hát rằng tang tính tình tang
Ai ơi có biết cô ngàn tôi chăng
Tặc thụ khiểu là á mị tắc
Tặc thụ nắm là mị phí giao
Phất phơ cô tựa non cao
Rừng kia núi nọ ra vào sơn lâm
Khi măng vầu cơm lam gạo lốc
Mái sim cùng rau luộc dài vây
Thỉnh cô giáng hạ chứng tri
Cô Mường cô mán một khi giáng đàn
Hát líu lường líu lo líu liếc
Giá ngự đồng trạc quyết anh linh
Thỉnh mời Công Chúa Sơn Tinh
Tay ngần ngần trắng má xinh vẻ hồng
Vẻ phù dung dịu dàng cách điệu
Nét đoan trang yểu điệu phi phong
Hây hây da trắng tuyết đông
Tóc rà rà biếc lưng ong dịu dàng
Thoảng mùi hương chân đi nhã nhặn
Mặc áo xiêm chân dận hài hoa
Trạnh lòng vàng đá người ta
Chau mày quân tử xót xa anh hùng
Cách não nùng nhiều bề lịch sự
So tài cao sĩ tú thi nhân
Mỗi năm là một vẻ xuân
Thanh tân đòi một tấm thân vạn mười
Vẻ tốt tươi miệng cười hoa nở
Bức thanh thanh tố nữ thuyền quyên
Cô ân cô ái kề bên
Cô lan cô huệ chúa tiên thượng ngàn
Hợp bàn loan non bồng nước nhược
Đàn ngũ huyền lầu thuộc Chiêu Quân
Cảnh thanh xuân lại thêm xuân
Éo le nhiều nỗi thanh tân chơi bời
Giả làm người thướt tha ghẹo khách
Dạy chim thiêng sênh phách véo von
Khi cô dạy vượn ru con
Réo ra réo rắt ní non buồn rầu
Loài cầm thú gọi nhau réo rắt
Dựng ngư ca tiểu dịch lừng lừng
Có phen cô dạy người rừng
Nói ra trăm tiếng giống chung ngôn từ
Đất Trang Chu hiệu là Diệu Tín
Đức thuyền sư nổi tiếng anh linh
Lạng Sơn chốn ấy cảnh thanh
Đông Cuông Tuần Quán hữu tình thanh tao
Giữa năm thân anh hào giáng khí
Thác đinh sinh sơn trị chúa tiên
Vốn người hình thể phương viên
Trâm anh lệnh tốc nên hiển hào
Bản dao cao cha là chúa mọi
Phép thần tiên khắp cõi ai đương
Tổ sư đắc đạo sơn trang
Sinh ra một nàng vạn phép truyền cho
Phán thụ các di sơn mọi phép
Giáng mo phù trượng quyết anh linh
Nào bà Diệu Nghĩa tàng hình
Thỉnh mời các bộ sơn tinh ngự về
Chữ biển đề Địa Vương Lê Mại
Bảo hộ cho tai nạn băng tiêu
Đời đời phúc lộc phong nhiêu
Hây hây ngày Thuấn tháng Nghiêu thọ trường.
Hầu Giá Cô Đôi Thượng Ngàn
Cô Đôi Thượng rất hay ngự về đồng vì danh tiếng Cô lừng lẫy ai ai cũng biết đến đệ tử Cô đông vô số và Cô cũng hay bắt đồng
Trong đại lễ khai đàn mở phủ người ta thường dâng lễ vàng cây lên 4 vi tiên cô là Cô Đôi, Cô Bơ, Cô Chín và Cô Bé
Cô Đôi thường là giá Cô ngự về đầu tiên mở khăn cho hàng Thánh Cô để chứng lễ
Cô về đồng thường khai quang rồi múa mồi, múa tay tiên, hái tài hái lộc ban cho đệ tử
Trang phục áo xanh ngắn đến hông, quầy đen hoặc quầy hoa.Đầu đội khăn voan kết thành hình đóa hoa hoặc khăn vấn, hai bên dắt hoa.
+ Ngày 09/1: Tiệc Đức Vua Cha Ngọc Hoàng Thượng Đế
Trong tín ngưỡng Tam Tứ Phủ Đức Vua Cha là những vị vua cha có quyền năng tối cao đứng đầu hàng vị các vị thần linh
Gắn với việc thờ đức Vua Cha bên cạnh Vua Cha Ngọc Hoàng hay Ngọc Hoàng Thượng Đế
Thì còn có Vua Cha Bát Hải, Vua Cha Diêm Vương, Vua Cha Nhạc Phủ
Trong bài đọc sau đây http://xemboimienphi.vn sẽ giới thiệu tới bạn đọc về truyền thuyết đền thờ và cách sắm lễ Ngọc Hoàng Thượng Đế.
Ngọc Hoàng Thượng Đế (Chữ Hán: 玉皇上帝)
Cũng gọi Ngọc Hoàng Đại Đế (玉皇大帝), gọi tắt là Ngọc Hoàng (玉皇) hay Ngọc Đế (玉帝) trong quan niệm tín ngưỡng của dân gian và Đạo giáo tại Trung Quốc và tại Việt Nam, Triều Tiên, Nhật Bản. Là tước vị nói đến vị vua tối cao của bầu trời, là chủ của vạn vật.
Quan điểm thuần Việt cho rằng: Ngọc Hoàng Thượng đế (Vua cha Ngọc Hoàng, Cha Trời, ông Trời) là vị cha tạo hóa, sinh ra vạn vật từ con người đến cảnh vật, cây cỏ... Là đấng quyền uy tối cao nhất. Ngài tồn tại hiện hữu không cố định tại một tầng trời nào. Và chỉ có một vua cha tạo hóa là lớn nhất chứ không có nhiều Ngọc Hoàng, hay nhiều vị vua Trời nào khác cai quản con dân Việt.
Theo quan điểm của người Trung Quốc nói chung: Nguyên hình của Ngọc Hoàng Thượng đế xuất phát từ Thượng đế - Hạo Thiên Thượng đế, tên gọi vị thần bầu trời tối cao của Trung Hoa cổ đại, ngài cũng đã đắc quả Phật danh hiệu là Thanh Tịnh Giác Vương Như Lai nhưng hiện tướng là Ngọc Hoàng. Cũng có thể Ngài chính là Thiên Đế cai quản tầng Trời thứ 2 có 33 cõi Trời với 32 cõi Trời chư hầu chia làm 8 phương Trời (mỗi cõi Trời này đều có 1 vị Vua Trời cai quản riêng) và cõi Trung Ương, cõi Trung Ương là nơi Ngài ngự (tầng Trời này là Đao Lợi thiên).
Qua con mắt Đạo giáo, Ngọc Hoàng Thượng đế là 1 vị tiên đã đạt tới bậc Thánh được cho là người sáng lập nên thiên đình, ngự trên tòa điện như vị vua ở trên mây mà cai quản chúng thần thánh tiên của Tam giới. Hình tượng Ngọc Hoàng Thượng đế hoặc nguyên bản "Hạo Thiên" có ảnh hưởng rất lớn trong văn hóa tín ngưỡng của Việt Nam, Ngọc Hoàng bên cạnh là vị vua trời, còn được gọi một cách đại khái là Ông Trời, vô cùng nhân từ. Ngoài ra phía dưới còn có tầng Trời Tứ Thiên Vương cũng là các vị vua trời dưới quyền của Ngài, Tứ Thiên Vương cũng được xưng là Thượng Đế bởi mỗi vị cũng là một vị Vua cõi Trời cai quản cõi Trời riêng của mình và Tam Giới, điều này càng làm tôn quý địa vị của vua ở tầng Trời phía trên là tầng Trời thứ 2 Hạo Thiên Ngọc Hoàng Thượng Đế.
Thời nhà Tống, tôn hiệu đầy đủ của ông là Hạo Thiên Ngọc Hoàng Thượng đế (昊天玉皇上帝).
Lịch sử
Người Việt Cổ đã sử dụng thần thoại Thần Trụ Trời để giải thích về nguồn gốc của thế giới. Sau này khi đạo Lão từ Trung Quốc du nhập vào Việt Nam thì Ông Trời mới được gọi là Ngọc Hoàng.
Theo Đạo giáo Trung Quốc thì Ngọc Hoàng Thượng Đế là vị đứng đầu trong Tứ Ngự, được Tam Thanh lựa chọn ra để cai quản các Thiên Vương cõi Trời và chư Thần Tiên trong Tam Giới là vị Đại Diện cho Trời tức Tạo Hóa, duy trì và chấp chưởng giám sát Thiên Điều và luật lệ, Ngài còn có thể sữa đổi, bổ sung và đặt ra luật lệ cho phù hợp với sự cai quản của Ngài trong Tam Giới. Nếu không tính đến Tam Thanh thì Ngọc Hoàng Thượng Đế là vị vua trời tối cao với quyền hạng tối thượng. Tam Thanh sau khi lập ra Ngọc Hoàng Thượng Đế thì ba vị này đều rút về quy ẩn và tiếp tục tu và giảng Đạo tại chính Cung của từng vị và dường như không còn can thiệp vào chuyện của Tam Giới nữa, nhằm bảo vệ quyền hạng của Ngọc Hoàng Thượng Đế đương vị, đúng với cốt cách của bậc Thánh tối thượng không còn vướng vào quyền lực, rời xa quy luật Tam Giới, an lạc với thú vui tu Đạo. Ngọc Hoàng Thượng Đế cai quản tất cả các Thiên Vương (vua Trời) của các cõi Trời chư hầu, các Long Vương (vua Rồng) của Thuỷ vực ao hồ sông biển, các Diêm Vương (vua cõi Âm Giới - Địa Ngục).
Từ thượng cổ, người Trung Quốc đã tôn thờ một vị vua trên trời, gọi là Ngọc Hoàng. Tuy nhiên từ đời Thương thì Ngọc Hoàng đã hoàn toàn chỉ là một vị vua cai quản cõi Tiên giới, không có quyền năng sáng thế. Vị Vua trời này được cho là sống tại một cung điện tại chính giữa bầu trời, tại Thiên Cực Bắc, điểm này lại tương đồng với nơi cư ngụ của Chấn Vũ Thiên Đế. Đến các triều đại về sau, vị thần này được gọi dưới nhiều danh hiệu khác nhau:
-
Thái Nhất: Thiên quan thư trong Sử ký của Tư Mã Thiên dùng từ này
-
Thái Vi Ngọc Đế, Tinh Chủ Thái Vi viên: thời Hán Vũ đế
-
Phạm Thiên Ngọc Đế, Đế chủ Thiên Thị Viên: thời Hán Tuyên đế
-
Diễm Hoa Thiếu Vi Ngọc Đế, Thiên Tiên Định Vị: thời Hán Ai Đế
-
Tử Vi Ngọc đế: đời Hán Quang Vũ đế
-
Ngọc Hoàng Đạo Quân, Cao Thượng Ngọc Đế: thời Nam Triều
-
Hạo thiên Kim khuyết Vô thượng Chí tôn Tự nhiên Diệu hữu Di la Chí chân Ngọc hoàng Thượng đế, Huyền khung Cao thượng Ngọc hoàng Đại đế.
-
Đến đời Minh, danh hiệu đầy đủ là: Cao thiên Thượng thánh Đại từ Nhân giả Ngọc Hoàng Đại Thiên tôn Huyền khung Cao Thượng đế. (Nghĩa là Vị thánh tối cao trên đỉnh trời, vô cùng nhân từ, là Ngọc Hoàng, bậc Thiên tôn vĩ đại, Huyền diệu lớn lao làm chủ trên cao).
Ngoài ra Ngọc Hoàng Thượng đế còn được gọi bằng các tôn hiệu: Thiên Đế, Ngọc Đế, Đế Tể
Trong đạo Mo của người Tráng (một dân tộc gần gũi của người Việt Nam) thì có một vị thần cai quản bầu trời tên là bố Lạc Đà (phiên âm Hán việt từ LuoTuo, cũng có thuyết đồng nhất Lạc Đà chính là Lộc Tục). Biểu tượng của bố Lạc Đà chính là hình con chim Lạc trên Trống Đồng của người Việt. Có lẽ các quý tộc người Hoa của thời đại Lý Trần đã dùng hình ảnh của ông để đặt tên cho giai đoạn huyền sử của mình là Hồng Bàng (Bàng mang nghĩa là chim).
Nguồn gốc
Theo truyền thuyết dân gian phổ biến ở Trung Quốc thì Ngọc Hoàng Thượng đế vốn người trần, tên là Trương Hữu Nhân, là trang chủ ở Trương Gia Loan, quận Thông Châu, thủ đô Bắc Kinh. Vì có tính khiêm nhường và kiên nhẫn, ông được gọi là Trương Bách Nhẫn; do hay giúp đỡ người khác, tu luyện thành tiên nên ông được gọi là Đại Quý Nhân.
Trương Hữu Nhân có một vợ họ Vương, tức Tây Vương Mẫu và bảy cô con gái: Đại Thư, Nhị Thư, Tam Thư, Tứ Thư, Ngũ Thư, Lục Thư và Trương Thất Nữ. Thuyết khác nói vợ của Ngọc Hoàng có hiệu là Thiên Hậu, có chín con trai. Em gái Ngọc Hoàng là Dao Cơ lấy người phàm trần là Dương Thiên Hựu sinh ra Nhị Lang. Cũng theo truyền thuyết Táo Quân ở Trung Hoa, vì Trương Lang cùng họ với Ngọc Hoàng Thượng đế, nên được Ngọc Hoàng đã phong cho Trương Lang làm Táo vương.[1] Ngọc Hoàng ở tại một cung điện trên trời gọi tắt là điện Linh Tiêu, cùng với vợ mình là Tây Vương Mẫu.
Trong tiểu thuyết Tây du ký, Ngọc Hoàng được mô tả như một vị vua nhân từ nhưng không có tài năng, không có chính kiến, chỉ biết trông chờ sự giúp đỡ của các thần tiên khác. Chính vì vậy mà nhân vật Tôn Ngộ Không đòi phế bỏ Ngọc Hoàng để mình lên thay.
Trong đạo Mo của số ít người Tráng thì Ngọc Hoàng tên thật là bố Lạc Đà, có vợ là mẹ Hoa. Họ có với nhau tám người con trai và một người con gái, đều là thần mặt trời. Nhưng bảy người con trai đã bị nữ thần Đà Giang dùng cung tên bắn chết, người con trai cuối cùng nhờ bôi tro lên mặt trở thành mặt trăng nên mới được tha chết, để rồi chỉ còn lại một nữ thần mặt trời của thế gian.
Theo một thuyết chịu ảnh hưởng Phật giáo Ấn Độ thì Ngọc Hoàng là vua của cõi trời thứ hai từ dưới lên cõi trời Đao Lợi[2]. Cõi này có 32 nước trời chư hầu và 1 nước trời lớn ở giữa, tổng cộng là 33 nước trời. Vua cõi Đao Lợi là Đế Thích. Ông điều hành, thực thi pháp luật ở tầng Đao Lợi và tầng trời thấp nhất là Tứ Thiên Vương. Cũng như trong truyền thuyết Trung Hoa về Ngọc Hoàng, Đế Thích không phải đấng sáng tạo mọi thứ và toàn năng mà chỉ là vua trời. Vua tầng trời Nhị thiền tầng thứ 8 là Phạm Thiên Baka, vốn còn cao hơn cả "đấng tối cao trong Ấn giáo" chỉ là vua tầng trời thứ 7, do thần thông quá cao, tuổi thọ quá nhiều khó mà tính đếm, lại sinh ra đầu tiên trong tầng trời của mình, nhưng không đủ khả năng để nhận thức được rằng có những tầng trời cao hơn, nên nghĩ là mình sáng tạo mọi thứ, sau này được Phật Thích Ca chỉ dạy và đã quy y Phật. Chiếu theo Kinh Tạng Phật Giáo thì thực chất Ngọc Hoàng Thượng Đế chính Thích Đề Hoàn Nhơn hay Đế Thích Thiên vua tầng Trời thứ 2, ngự tại thành Thiện Kiến, còn theo Trung Quốc thì là tại Nam Thiên Môn Linh Tiêu Điện. Ngài có câu chú hiệu theo Kinh Tạng Phật Giáo là : Nam mô Da Đà Nhân.
Vai trò
Ngọc Hoàng Thượng đế là vị vua của Thiên đình, cai quản toàn bộ bầu trời, mặt đất, biển cả, và cõi âm phủ. Ngọc Hoàng đứng đầu tất cả các thần, tiên, Thánh, Nhân có quyền lực tối cao với các quyền năng tự nhiên như mây mưa sấm chớp, nước lửa... Ngọc Hoàng có quyền ra lệnh cho các vị thần thực hiện các ý định của mình, thường là những điều tốt đẹp. Ngọc Hoàng cũng là người xét phong cho các vị thần, hoặc xét phạt các thần tiên và thánh nhân.
Trong Đạo giáo, Ngọc Hoàng vẫn ở dưới Tam Thanh, do Nguyên Thuỷ Thiên Tôn chỉ định làm vua.
Trong đạo Mo, bằng đôi cánh của mình, bố Lạc Đà đã kéo bầu trời bay lên cao tách khỏi mặt đất, nhờ thế vạn vật mới có thể sinh trưởng được. Vì lẽ đó ngày tận thế trong đạo Mo chính là ngày mà "Trời Sập".
Theo đạo Cao Đài, Ngọc Hoàng Thượng đế còn được gọi với nhiều danh từ khác nhau: Chúa Trời, Ông trời, Đại Từ Phụ, Đấng Tạo Hóa, Đức Chí Tôn...là đấng tạo hóa sáng lập ra càn khôn vũ trụ và vạn vật, là nguồn cội của các tôn giáo, là đấng tối cao toàn năng, làm chủ cả thần, thánh, tiên, phật.
Việt Nam
Trong dân gian
Việc thờ Ngọc Hoàng Thượng đế rất phổ biến trong tín ngưỡng tôn giáo của người Việt. Các chùa miền Bắc Việt Nam từ lâu đã phối thờ Ngọc Hoàng Thượng đế và các vị thần khác như Nam Tào, Bắc Đẩu, Phạm Thiên, Đế Thích… Đây là dấu ấn của tư tưởng Tam giáo đồng nguyên (Nho – Phật – Đạo cùng một nguồn mà ra). Hàng năm, vào ngày sinh Ngọc Hoàng là mùng 9 tháng Giêng, thường được chọn là ngày làm lễ cúng vía Trời hay lễ tế Trời để tôn vinh Ngọc Hoàng thượng đế.
Trong đạo Mẫu của Việt Nam, Ngọc Hoàng được gọi là Vua cha Ngọc Hoàng, là cha của Thánh Mẫu Liễu Hạnh, là đấng thần chủ tối cao. Ngọc Hoàng được cho là ở và làm việc tại một cung điện trên trời gọi là Thiên Phủ, nơi có rất nhiều tiên nữ hầu hạ, và các thiên tướng, thiên binh canh gác.[3] Là vị Thánh cao nhất trong đạo Mẫu nên Ngọc Hoàng thượng đế thường có ban thờ riêng trong các đền và phủ thuộc hệ thống tín ngưỡng thờ Mẫu Tam Phủ.
Truyện dân gian Việt Nam kể con cóc lên cầu Ngọc Hoàng làm mưa. Ngọc Hoàng nhận lời rằng mỗi khi cóc gọi làm mưa xuống trần gian. Câu chuyện nổi tiếng khác là "Ngọc Hoàng và người học trò nghèo" thì lại ca ngợi quyền năng và sự công bằng của Ngọc Hoàng.
Dân gian Việt Nam có rất nhiều bài thơ có chữ trời. Thường nhất là những câu mà trời dùng để chỉ toàn bộ cảnh vật thiên nhiên tồn tại quanh con người, trước hết là không gian và cảnh vật trên không. Bên cạnh đó trời như một lực lượng siêu tự nhiên, một đấng quyền uy quyết định tất cả: Trời làm bão lụt mênh mông/Sông khô hồ cạn, cá trên đồng còn chi. Trời còn làm ra vạn vật, thậm chí cả cái sướng, cái khổ của con người: Trời sinh cái cực mần chi/Bán thì nỏ được, cho thì không ai xin Hay câu ca dao: Lạy trời trăm lạy trời ơi/Trông cho trong ruộng ngoài khơi được mùa.
Trong ca dao Việt có nhiều câu nhắc đến đạo trời: Theo nhau cho trọn đạo trời/Dẫu mà không chiếu, trải tơi mà nằm. Vì là đạo nên đạo trời cũng có vị trí, giá trị trong tâm linh người Việt như những đạo khác nên trời và phật thường được đặt gần nhau, được xem như những đấng thiêng liêng như nhau, những đạo giống nhau: Chắp tay vái lạy bụt trời/Gió đông phẳng lặng, đạo trời theo nhau.
Nhà bác học Nguyễn Văn Huyên đã nhận xét: “Ông trời đối với người dân quê Việt Nam là nguồn gốc mọi sự sống và mọi lẽ công bằng. Đấy không phải là một vị thần trừu tượng và không thể hiểu. Người ta xem ông như một con người, vua của các vua. Ông có một triều đình, ông điều khiển tất cả cuộc sống trên trời và dưới đất. Ông trừng phạt kẻ xấu và ban thưởng người tốt”.[4]
Di tích thờ Ngọc Hoàng
Ở Việt Nam có các di tích sau đây thờ Ngọc Hoàng Thượng đế (chỉ thống kê nơi thờ chính, không tính việc phối thờ Ngọc Hoàng trong rất nhiều đền, chùa và điện thờ Mẫu Tam Phủ):
-
Đàn Kính Thiên Tràng An ở xã Gia Sinh, Gia Viễn, Ninh Bình là nơi thờ Ngọc Hoàng Thượng đế cùng các vị Phạm Thiên, Đế Thích, Nam Tào, Bắc Đẩu với Lễ tế Thiên được diễn ra hàng năm.
-
Đàn Nam Giao thuộc di tích cố đô Huế là nơi các vua nhà Nguyễn tổ chức lễ tế trời đất vào mùa xuân hàng năm. Lễ tế Nam Giao là nghi lễ quan trọng bậc nhất dưới chế độ quân chủ vì chỉ nhà vua mới có quyền làm lễ tế Giao, tức là tế Trời Đất, nhằm khẳng định tính chính thống của triều đại, uy quyền của Hoàng đế tuân theo mệnh trời mà cai trị dân chúng.
-
Đền Đậu An tại thôn An Xá, xã An Viên, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên là nơi thờ Ngọc Hoàng Thượng đế cùng các thiên thần.[5]
-
Chùa Ngọc Hoàng ở thôn Đại Lai, xã Đại Lai, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh.
-
Chùa Ngọc Hoàng toạ lạc tại số 73 đường Mai Thị Lựu, phường Đa Kao, quận 1, TP.HCM, vốn là một ngôi điện thờ Ngọc Hoàng Thượng đế.
-
Nhà thờ họ Trương Việt Nam tại thị trấn Thiên Tôn, Hoa Lư, Ninh Bình thờ Ngọc Hoàng Thượng đế với tên húy Trương Hữu Nhân hay Trương Ngọc Hoàng.
-
Điện Bồ Hong trên đỉnh núi Cấm thuộc xã An Hảo, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang.[6]
-
Chùa Vân An ở thị trấn huyện Bảo Lạc, Cao Bằng thờ Ngọc Hoàng Thượng đế và Quan thế âm Bồ Tát với lễ hội Lồng Tồng hằng năm được tổ chức vào ngày mùng 9 tháng Giêng, ngày sinh của Ngọc Hoàng Thượng đế.[7]
-
Đền Ô Xuyên, xã Cổ Bì,Bình Giang, Hải Dương thờ Ngọc Hoàng Thượng đế và 5 vị Thành hoàng làng. Tương truyền, đây là nơi Ngọc Hoàng thường xuống chơi du ngoạn.
Đức Ngọc hoàng thượng đế là ai? Truyền thuyết Đức Vua Cha Thiên Phủ
Ngọc Hoàng Thượng Đế là vị thánh chủ của Thiên Đình trong quan niệm của cả người Trung Quốc và Việt Nam. Ngài có nhiều tên gọi khác nhau như Ngọc Hoàng Đại Đế, Ngọc Đế hay Vua Cha Thiên Phủ.
Ngọc Hoàng Thượng Đế là đấng thần chủ tối cao. Ngài đứng đầu các vị thần, tiên. Ngài có quyền lực điều khiển vạn vật thế gian, gió mây sấm chớp, …
Có rất nhiều truyền thuyết xung quanh việc xuất thân của ngài. Theo một số phim ảnh tiểu thuyết thì ngài là người phàm đã tu luyện qua một nghìn bảy trăm năm mươi kiếp. Mỗi kiếp mười hai vạn chín nghìn sáu trăm năm. Theo truyền thuyết này thì ngài là người có quyền hạn và tu vi lớn nhất lục giới (gồm Nhân, Thần, Ma, Yêu, Quỷ, Tiên) nên các chư thần đều kính mộ ngài phong làm Đế. Thiên Đế phân chia pháp lực cho các thần cai quản các nơi với các chức vị khác nhau.
Tín ngưỡng bản địa thờ Ngọc Hoàng Đại Đế
Tại Việt Nam, người Việt cũng tín thờ vị thần linh có quyền phép tối cao Ngọc Hoàng Thượng Đế. Truyền thống này được duy trì bao đời nay. Có nhiều ý kiến cho rằng, tục thờ Ngọc Hoàng Đại Đế là do sự du nhập của Phật Giáo Ấn Độ và Đạo Giáo Trung Quốc kết hợp với sự biến đổi theo văn hóa bản địa của người Việt mà hình thành nên. Tuy nhiên thực tế ngôi ĐỀN ĐẬU AN HƯNG YÊN có lịch sử hơn 2200 năm thờ Ngọc Hoàng Đại Đế lại minh chứng đây là tín ngưỡng bản địa.
Bởi vì, đền Đậu An thờ Ngọc Hoàng Thượng Đế trong đền với niên hiệu “Thiên Định”. Theo các ghi chép tại đền thì ngôi đền được xây dựng từ năm 226 TCN. Tại thời điểm đó, nước ta chưa chịu ảnh hưởng bởi văn hóa người phương Bắc. Theo chính sử thì mãi đến năm 218 TCN thì nhà Tần mới bắt đầu đánh chiếm đất Việt. Lúc ấy, Văn Lang, Âu Lạc là những quốc gia hoàn toàn độc lập, không liên quan đến phương Bắc. Tại đền còn lưu giữ câu đối:
“Thiên Định Kỷ Nguyên, Thụy Ứng Ngọc Hoàng giáng lai
Địa linh thiên cổ, điện đài thượng đế ngự long đầu.”
Tức:
“Thiên Định năm xưa, Thụy Ứng Ngọc Hoàng xuống hạ thế
Đất thiêng nghìn năm tuổi, điện đài thượng đế ngự đầu rồng.”
Đức Vua Cha Thiên Phủ trong tín ngưỡng Tứ Phủ
Trong tín ngưỡng tứ phủ thì ngọc hoàng được gọi là Vua Cha Thiên Phủ. Ngài là cha của Mẫu Liễu Hạnh, Liễu Hạnh Công Chúa. Là đấng thần chủ tối cao.
Cũng giống như quan niệm dân gian, trong Tam Tứ Phủ Việt Nam, ngài là vị vua của Thiên Đình. Ngài cai quản toàn bộ bầu trời, mặt đất, biển cả, và cõi âm phủ. Ngọc Hoàng đứng đầu các vị thần tiên, có quyền lực tối cao, và quyền điều khiển gió mưa sấm chớp,… Ngài có quyền chỉ định các vị thần thực hiện theo ý định của mình. Thường là những ý định tốt đẹp cho muôn dân. Ngoài ra, ngài cũng là người xét phong cho các vị thần hay xét phạt các vị thần tiên. Nếu bạn đọc để ý thì sẽ thấy “Ngọc Hoàng” xuất hiện ở một số thần tích của một số vị thần.
Cần chú ý gì khi sắm lễ Ngọc Hoàng Thượng Đế theo tín ngưỡng Tứ Phủ
Theo tín ngưỡng Tứ Phủ, lễ sắm đơn giản dâng Ngọc Hoàng Thượng Đế tại đền thờ ngài thường bao gồm các thức vật: một đĩa hoa, một đĩa quả gồm nhiều loại quả, cơi trầu, quả cau, cút rượu, xôi thịt, thẻ hương, giấy tiền và một cánh sớ.
Sau khi dâng những thức lễ này trên ban thờ thánh, bạn chờ hết một tuần hương rồi hạ lễ. Riêng cánh sớ và giấy tiền đem đi hóa tại nơi hóa sớ của đền.
Đền thờ Ngọc Hoàng Thượng Đế
Ngọc Hoàng Thượng Đế là vị thần chủ tối cao được nhân dân tín thờ. Ngài được thờ tự tại nhiều ngôi đền, chùa trên khắp cả nước. Tuy nhiên, hai ngôi đền nổi tiếng linh thiêng thờ Ngọc Hoàng Thượng Đế nhất phải kể đến Đền Đậu An – 2200 năm thờ Ngọc Hoàng Thượng Đế tại Hưng Yên và đền Ngọc Hoàng Thượng Đế Bằng Sở tại Hà Nội.
Đền Đậu An – Hưng Yên
Địa chỉ: thôn An Xá, xã An Viên, huyện Tiên Lữ, Hưng Yên gần trường đại học Thủy Lợi CS3.
Trong hai ngôi đền thì đền Đậu An nổi tiếng hơn cả. Ngôi đền nằm trên thế đất thiêng hình đầu rồng, được bao bọc bởi làn nước hồ trong xanh với hàng nhãn lồng cổ thụ rả bóng mát. Mặc dù có lịch sử hơn 2000 năm, nhưng những ghi chép về sự tích cùng thời gian xây dựng đền vẫn còn nguyên vẹn, cung cấp rất nhiều tư liệu lịch sử quý giá cho các nhà khoa học.
Sự tích của đền ghi lại các vị Thiên Tiên, Đại Tiên đã hạ thế cứu dân. Dạy cho nhân dân khẩn hoang, diệt thú ổn định cuộc sống. Để cầu mưa gió thuận hòa, nhân dân bình yên an ổn làm ăn thì Ngũ Lão Tiên Ông cùng nhân dân lập “Thụy Ứng quán” (Đền Đậu An sau này). Năm ấy là năm 226 TCN.
Ngày nay, ngôi đền Đậu An đã trải qua nhiều lần tu sửa trở nên khang trang và rộng rãi hơn. Bên trong đền vẫn đặt tượng thờ Ngọc Hoàng Thượng Đế với hiệu “Thiên Định” để thờ tự ở chính cung. Bên ngoài sân còn lưu giữ tháp cửu trùng thiên được xây dựng từ thời nhà Lý – ngọn tháp gắn liền với quan niệm của nhân dân về Thiên Phủ. Kiến trúc ngôi đền mang nét cổ kính vô cùng đặc sắc.
Hàng năm ngôi đền được rất nhiều du khách ghé thăm.Vừa để thăm ngôi đền cổ vừa để thực hiện nghi thức cúng lễ cầu cho gia quyến được bình an, khỏe mạnh, có tài có lộc. Thông thường những dịp đón khách đông nhất tại đền thường rơi vào ngày đầu năm mới hoặc ngày diễn ra lễ hội đền Đậu An. Lễ hội được tổ chức từ ngày mùng 6 cho đến ngày 12 tháng 4 âm lịch hàng năm.Trong đó ngày mùng 8 là ngày lễ lớn nhất. Phần lễ được diễn ra với đầy đủ nghi thức được thực hiện từ xưa đến nay. Đặc sắc nhất trong nghi lễ này là việc con hương bất lá cây si để cầu cho gia sự bình an êm ấm, có tài có lộc.Và điều này thực sự linh ứng nên càng ngày càng thu hút con hương đổ về đền ngày lễ hội để xin lộc.
Đền Ngọc Hoàng Thượng Đế Bằng Sở
Địa chỉ: thôn Bằng Sở, xã Ninh Sở, huyện Thường Tín, Hà Nội
Ngoài ngôi đền Đậu An nổi tiếng thì Ngọc Hoàng Thượng Đế cũng được cho là thờ chính tại ngôi đền cùng tên được nhân dân xây dựng tại thôn Bằng Sở, huyện Thường Tín, Hà Nội. Tuy nhiên có khá ít tài liệu về ngôi đền này.
Ngày vía Ngọc Hoàng Thượng Đế
Ngày mùng 9 tháng 1 được coi là ngày vía Ngọc Hoàng Thượng Đế. Đây là ngày Thánh Đản, Ngọc Hoàng tự thân giáng hạ nhân gian. Theo hầu ngài có rất nhiều vị tiên thiên, tiên thánh, Kim Đồng Ngọc Nữ cùng 7 vạn thiên binh thiên tướng, Thần Tài, Văn Xương, Tử Vi Đại Đế, Nam Tào Bắc Đẩu, … Các vị thần đang cai quản hạ giới như Thổ Địa, Thành Hoàng, thần sông, thần núi, Thổ Công, … sẽ nghinh thỉnh Ngọc Hoàng hạ phàm đầu năm định xét phúc tội.
Văn Ngọc Hoàng Thượng Đế
Quản cai Lục giới thần thông
Phép thiêng ứng hiện ra đồng tối anh linh
Đấng thần tiên thiên đình nhất phẩm
Quyền tối cao uy lẫm Linh Tiêu
Chân tu lục giới đều yêu
Chư thần kính mộ sớm chiều ngợi ca
Cũng có lúc vào ra cửa Khuyết
Khi thừa nhàn yến tiệc ban công
Chữ rằng sắc sắc không không
Thụ thừa Phật Pháp mênh mông chẳng rời
Trải nhiều kiếp nhiều đời hiếu hạnh
Chịu trăm bề ấm lạnh hàn vi
Đức tu dưỡng tính kiên trì
Vẹn đường lục đạo từ bi căn lành
Ngọc Đế hiệu xưng danh thiên giới
Các thần tiên ba cõi phải theo
Thơ ca phú vịnh tuồng chèo
Viết về Ngọc Đế kính yêu một lòng
Trên Thiên Giới chí công chí hảo
Chủ quần tiên xiêm áo sắc vàng
Nức danh hai tiếng Ngọc Hoàng
Độ cho trăm họ nhân gian cát tường
Con bái thỉnh Trung Ương Ngọc Đế
Ngài quản cai Chín Bệ Thiên Dinh
Quản cai hai chữ Tử Sinh
Cho nhân gian được thái bình dài lâu
Hầu ngài có Nam Tào, Bắc Đẩu
Dưới đó là quan mẫu Đương Cai
Cùng ngài Bản Cảnh không sai
Thiên binh thiên tướng dũng oai hộ tùng
Vậy có thơ rằng:
Uy quyền bậc nhất điện Linh Tiêu
Cửa khuyết vào ra vẫn sớm chiều
Ngọc Hoàng Thượng Đế người nhân đức
Lục cõi Tam Thanh mãi kính yêu.
Truyền thuyết về Ngọc Hoàng Thượng Đế
Ngọc Hoàng Thượng Đế còn gọi là Ngọc Hoàng Đại Đế gọi tắt là Ngọc Đế được coi là vị vua tối cao của bầu trời là chủ của
Thiên đình trong quan niệm của người Trung Quốc Việt Nam và nhiều quốc gia châu Á.
Ngoài ra Ngọc Hoàng Thượng Đế còn được gọi bằng các tôn hiệu: Thiên Đế Ngọc Đế
Người đời quan niệm Ngọc Hoàng Thượng Đe cai quản toàn bộ bầu trời mặt đất biển cả và cõi âm phủ.Ngài đứng đầu tất cả các thần tiên có quyền lực tối cao với các quyền năng tự nhiên như mây mưa sấm chóp, nước lửa… có quyền ra lệnh cho các vị thần thực hiện các ý định của mình thường là những điều tốt đẹp.Ngọc Hoàng cũng là người xét phong cho các vị thần hoặc xét phạt các thần tiên cũng như toàn bộ chúng hữu tình có ở trong 3 cõi Thiên – Địa – Nhân.
Hình tượng Ngọc Hoàng Thượng Đế do Phật giáo của Ấn Độ gặp Đạo giáo của Trung Quốc rồi truyền qua Việt Nam. Đen đây gặp tín ngưỡng bản địa thì tạo thêm những hình tượng mới. Sau này ở Việt Nam hình thành và phát triển tư tưởng Tam giáo đồng nguyên (Ba tôn giáo Phật, Lão, Nho cùng một gốc), nên trong chùa có thờ cả Phật, Ngọc Hoàng Thượng Đế, Tiên Thần, Mầu, và cả những người có công với triều đình, quốc gia, tạo nên một thế giới tâm linh chung, không còn tách biệt, mà trong đó Phật là trung tâm và cao nhất.
Hình tượng tiêu biểu của Đạo giáo trong chùa là tượng Ngọc Hoàng Thượng Đế và Nam Tào, Bắc Đẩu, Ngài có vai trò như Thiên chủ Indra (Đe Thích) của Ấn Độ, cai quản bầu trời, thế giới thần và người. Bắc Đẩu chuyên ghi sổ sinh, Nam Tào ghi sổ tử.
Ngọc Hoàng được cho là ở và làm việc tại một cung điện trên trời gọi là Kim Khuyết Vân cung Linh Tiêu bảo điện (gọi tắt là điện Linh Tiêu), nơi có rất nhiều tiên nữ hầu hạ, và các thiên tướng, thiên binh canh gác.
Theo truyền thuyết thì Ngọc Hoàng đã tu 1550 kiếp, mỗi kiếp (kalpa) dài 126 nghìn năm, mới lên được ngôi vị Ngọc Hoàng. Một vài đạo giáo ở Việt Nam còn gọi Ngọc Hoàng Thượng Đế với nhiều danh từ khác nhau: Chúa Trời, Ông Trời, Đại Từ Phụ, Đấng Tạo Hóa, Đức Chí Tôn…, là đấng tạo hóa sáng lập ra Càn Khôn vũ trụ và vạn vật, là nguồn cội của các tôn giáo, là đấng tối cao toàn năng, làm chủ cả thần, thánh, tiên và con người cùng cây cỏ, muông thú…
Ở thuyết khác thì NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ thống lãnh trời, đất, người, thần linh ba cõi, cùng quản lý mọi sự thịnh suy tốt xấu của vũ trụ vạn vật. Ngài có các thuộc hạ như: Văn Xương đế quân coi về sự học hành, Quan Thánh đế quân coi về việc mua bán, Xảo Thánh Tiên sư coi về công nghiệp, Thần Nông Tiên đế coi về nghề nông, Đông Nhạc đại đế cai trị các địa phương, cùng với những phụ tá như: Thanh Sơn vương, Thành Hoàng gia, Thổ Địa công, Địa Cơ chủ. Ngoài ra còn có nhũng vị coi về phần âm như: Phong Đô đại đế và Thập Điện Diêm Vương, v.v. Tất cả đều dưới quyền cai trị, chỉ đạo, phân bổ của NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ.
Danh xưng Ngọc Đế xuất phát từ sự tôn trọng “Ông Trời” của người xưa, coi là một vị “VUA”, có năng lực chi phối hết thảy trên trời dưới đất, hai bên chư thần văn võ. Sau này, lợi dụng tinh thần sùng bái “Ông Trời”, người ta gọi vua là “Con của Trời” (Thiên tử), nên “vua mà nói ra thì tất cả phải nghe theo”.
Người xưa lấy ngày 9 tháng Giêng Âm lịch là ngày “Đản sinh” của Ngọc Đế. Tháng giêng là tháng khởi đầu của năm, chủ của bốn mùa, cây cối nhờ vào Mộc khí mà sinh sôi nảy nở. số 9 là con số lớn nhất của các số, đại biểu cho ý nghĩa “cực đại, cực đa, cực cao”. Cho nên, người ta lấy con số 9 đầu tiên (thượng cửu) của năm (9 tháng Giêng) làm ngày sinh của NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ là tỏ ý tôn sùng ngài. Qua đây ta thấy khi nói đến ngày sinh của các vị thần, chúng ta cần phải lưu ý đến hàm nghĩa của “con số” biểu trưng.
Việc cúng bái NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ có nguồn gốc quan hệ đến sự sùng bái Trời Đất của người xưa và tư tưởng kinh Trời sợ Đất của con người mà thành. Người xưa cho rằng, Trời là vị chúa tể của vạn vật, là nguồn gốc của sự sinh, dưỡng và kiện toàn muôn vật, cho nên mọi người không thể không kính Trời sợ Đất, thuận theo ý Trời mà hành đạo. Cho nên người làm vua là để phụng mệnh Tròi, nhân danh “Con Trời” để cai trị dân chúng thì nhất nhất không thể không sùng bái Trời, nên phải có định kỳ “Te Trời”. Đó là chức trách tối quan trọng của nhà vua. Trải qua nhiều triều đại, mồi năm nhà vua đều phải cử hành “LỄ GIAO” (lễ tế Trời), nhưng chỉ có nhà vua mới là người “đủ tư cách tế Tròi” mà thôi! Mãi về sau này, khi thời đại phong kiến kết thúc, dân chúng mới bắt đầu được phép “tế Trời”. Nhưng Trời không thể hiểu như là “bầu trời xanh trên cao” được, khái niệm Trời rất vô hình, mênh mông, thì làm sao biết chồ nào, người nào để cúng tế? Vì vậy, người ta phải cụ thể hóa Trời bằng danh xưng “NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ ” để có đối tượng rõ ràng mà cúng bái.
Việc cúng tế “Ông Trời” phải được thực hiện sao cho long trọng, trang nghiêm hơn các Thần linh khác, vì Ngài là vị quyền uy tối cao trên tất cả thần thánh khác. Do đó, lúc đầu không ai dám đưa hình tượng nào về Ngài để cúng tế, mà chỉ dùng hai biểu tượng là “Thiên Công Lô” (lò hương cúng Trời) và “Thiên Công Tòa” (ngai vua Trời) để cúng bái mà thôi. Các Miếu thờ đều đặt “Thiên Công Lô” ở trước cửa, khi cúng bái thì ngẩng mặt lên trời mà vái, từ đó phát sinh tục lệ đốt nhang trong cúng tế. Đốt nhang là để gửi lên Ông Trời.
Trong con mắt của mọi người, NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ là lớn nhất, nên việc cúng tế phải làm rất cẩn thận. Vào buổi chiều hôm trước (tức chiều mùng 8 tháng Giêng), cả nhà già trẻ lớn bé đều ăn chay, tắm gội sạch sẽ, sửa soạn phẩm vật thịnh soạn. Ke đó, dâng hương cúng tế, lạy ba lạy (Tam Thiên Phật) chín vái (9 phương Trời).
Vì địa vị của NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ quá cao, nên phàm những việc nhỏ nhặt như cầu tài, cầu tự, cầu danh, cầu lợi… Ngài đều phán cho các Quan hay Thần Tiên phụ trách mảng việc mà chu phù. Vì thế, khi cúng Ngọc Đế, tất phải nhớ cúng thêm cả hai ban văn võ bá quan theo hầu cận Ngài, không được chỉ để một tượng Ngọc Đế đơn độc mà cúng.
Nghi thức cúng Trời chỉ diễn ra từ khuya đêm mùng Tám đến khi mặt trời mọc sáng mùng Chín thì ngừng. Trên bàn cúng Trời, có: cặp đèn “thần đăng”, năm thứ trái cây (cam, quít, tần quả, chuối, mía), phải đủ 5 màu, nấu sáu món chay là: kim châm, mộc nhĩ (nấm mèo), nấm hương cô, rau thái tâm, đậu uyển, tàu hủ, tất cả thức ăn đều phải được đậy kỹ bằng vải lưới thật mỏng. Đặc biệt còn phải có ba hộp trà ngon. Có tổ chức múa mâm vàng ca hát chúc tụng phát “lộc”. Một vài nơi, người dân có tục cúng gà trong dịp này phải dùng gà trống để cúng chứ không được dùng gà mái.
XEM BÓI MIỄN PHÍ ONLINE 0966662332
+ Ngày 10/1: Tiệc Quan Lớn Đệ Nhất
Quan Lớn Đệ Nhất Thượng Thiên
THẦN TÍCH QUAN LỚN ĐỆ NHẤT THƯỢNG THIÊN
Quan Lớn Đệ Nhất Thượng Thiên hay danh hiệu khác là Tôn Ông Đệ Nhất Thượng Thiên. Tương truyền, Ông là Tôn Quan Đại Thần trên Đế Đình Thiên Cung được sắc phong ngôi Thượng Thiên Nhất Phẩm Công Hầu, quản cai Tam Giới đình thần văn võ.
Sắc phong
“Tôn Ông Đệ Nhất”
Danh hiệu Vua phong Tham nghị triều chính Vương Quan.
Theo dân gian, Ngài là con Trời được Thái Hậu Bà sinh ra ngày mồng 10 tháng 1 năm Bính Dần được phái xuống làm con Vua Cha Bát Hải Động Đình. Hiện hóa lên trần gian phù giúp nhân dân và các đời Vua Hùng. Theo truyền tụng thì vào thời Vua Hùng Vương thứ 6, Ngài hạ phàm làm Đức Thánh Cả, là phó tướng phù giúp Đức Thánh Gióng đánh giặc Ân.
Vào thời Vua Hùng thứ XVIII, Ngài giáng hạ làm Quan Lớn Thượng để giúp “Vĩnh Công – Vua Cha Bát Hải Động Đình” đánh giặc ngoại xâm. Theo như Thần Tích Đền Đồng Bằng, khi có giặc ngoại xâm, Hùng Duệ Vương đã sai sứ giả về Hoa Đào Trang để truyền chỉ dụ triệu kỳ nhân dẹp giặc. Lúc đó có một Hoàng Xà hiện ra rồi bỗng hoá thành 1 chàng trai lực lưỡng, tuấn tú hơn người chính là Phạm Vĩnh, hay còn gọi là Vĩnh Công, tức Vua Cha Bát Hải Động Đình. Ngài nhận chỉ dụ, nhờ sứ giả báo với Vua Hùng là sẽ tuyển 10 tướng, chiêu mộ binh sĩ trong 10 ngày, rồi xuất quân đánh giặc trên cả 8 cửa biển nước Nam, hứa sau 3 ngày là giặc tan.
Tương truyền ngay ngày tuyển mộ đầu tiên, Vĩnh Công đã chọn được 3 tướng là Quan Lớn Đệ Nhất Thượng Thiên, Quan Lớn Đệ Tam Thoải Quốc và Quan Lớn Đệ Tứ và sau 10 ngày thì chọn đủ được 10 tướng.
Trên 2 mũi tấn công chủ yếu bằng đường thuỷ của giặc phương Bắc là cửa sông Cái và cửa sông Bạch Đằng. Vĩnh Công đã cùng Quan Lớn Đệ Nhất Thượng Thiên chặn giặc ở cửa sông Cái, Quan Lớn Đệ Tam Thoải Quốc cùng Quân sư Nuồi và Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh chặn giặc tại cửa sông Bạch Đằng, Quan Lớn Điều Thất phụ trách ứng chiến và phối hợp tác chiến cùng các cánh quân chặn giặc đường bộ của Sơn Thánh, các vị Quan Lớn khác đều được phân công đánh giặc trên 6 cửa biển khác của Nước Nam. Đúng hẹn 3 ngày, Vĩnh Công cùng tướng sĩ đánh tan giặc dữ trên cả 8 cửa biển, đất nước trở lại thanh bình.
Cũng theo một số tài liệu thì đời trước Ngài ở Vân Đình và thác ở sông Đáy, Vân Đình.
Đời sau Ngài hạ sinh ở Nam Ninh nhưng sống và thác ở Thái Bình.
Sau cùng Ngài lại giáng ở Nam Ninh, sống và thác tại đó. Tên húy của Ngài là Nguyễn Hồng Liệt.
Khánh tiệc đản sinh của Ngài vào ngày 10/1 âm lịch, còn khánh tiệc đản nhật của Ngài vào ngày 24/8 âm lịch.
HẦU QUAN LỚN ĐỆ NHẤT THƯỢNG THIÊN
Quan Lớn Đệ Nhất Thượng Thiên rất ít khi về ngự đồng so với Tôn Ông Đệ Tam Thủy Phủ và Tôn Ông Đệ Ngũ Tuần Tranh.
Theo quan niệm của Đạo Mẫu, dân ta cho hàng đệ nhất là hàng đi tu. Ngài Ngự áo đỏ thêu rồng, nét đỏ, đai đỏ. Vào những dịp có đại lễ (ngày đầu niên, mở phủ) thì Quan Lớn Đệ Nhất về Ngự đồng xông Trầm, chứng lễ và không hiến tửu thuốc.
Thông thường khi khai đàn mở phủ, thỉnh Quan Lớn Đệ Nhất Thượng Thiên về để pháp sư tuyên sớ điệp sau đó quan phê sớ rồi tuyên bố khai đàn mở phủ hoặc Quan Lớn Ngài còn “điểm dấu thánh" (tức là lấy nén hương đã đốt, chấm một dấu nhỏ vào áo công đồng và khăn phủ diện của đồng tân, coi như khăn áo đã được quan lớn đánh dấu là khăn áo của con cái Tứ Phủ, khăn áo đã được “điểm dấu thánh" là của riêng thanh đồng đó, không ai được dùng chung cũng như hạn chế việc thay đổi).
Cũng có khi Quan Lớn Đệ Nhất Thượng Thiên chỉ về biên sớ sau đó truyền cho các quan sau mở phủ nhưng cũng có khi chính Quan Lớn về khai giếng mở hồ Thượng Thiên [(gồm: bóc trứng, đập chĩnh, kéo cầu,... và khai quang mã đàn, hình nhân bản mệnh (hồng) và Thiên Phủ (đỏ)].
ĐỀN THỜ QUAN LỚN ĐỆ NHẤT THƯỢNG THIÊN
Đền thờ Quan Lớn Đệ Nhất Thượng Thiên còn gọi là Quan Đệ Nhất Linh Từ, thuộc quần thể di tích lịch sử văn hóa Đồng Bằng. Đây là di tích được xây từ thời Vua Hùng thứ XVIII. Đền nằm ở phía phải và cách đền Vua Cha Bát Hải khoảng 200m.
Tương truyền Đền là nơi Quan thường xuyên lui về nghỉ ngơi sau những ngày lo công việc trong triều đình thời bấy giờ. Nhân dân lập đền thờ để ghi nhớ công ơn của Ngài. Trải qua những năm tháng thăng trầm của lịch sử, những khắc nhiệt của thiên nhiên di tích đã bị phong hóa một thời gian dài. Những năm gần đây Đền đã được trùng tu xây dựng lại trên di tích nền cũ cảnh xưa. Hiện nay trong đến vẫn còn lưu lại một pho tượng cổ của Quan Lớn Đệ Nhất Thượng Thiên.
KẾT LUẬN
Quan Lớn Đệ Nhất Thượng Thiên thuộc hàng Quan Lớn trong Lục Vị Tôn Ông. Ông Ngự đồng vào ngày đầu niên mới hoặc lễ mở phủ, Ngài giáng hạ xuống Việt Nam chống giặc ngoại xâm, hộ quốc an dân.
Quan Lớn Đệ Nhất Thượng Thiên
+ Ngày 15/1: Đại Lễ Thượng Nguyên
Tết Thượng Nguyên là gì vào ngày nào?
Tết Thượng Nguyên hay còn được gọi là Tết Nguyên Tiêu, đây là ngày rằm đầu tiên vào tháng Giêng tức ngày 15/1 Âm lịch. Tết Thượng Nguyên nằm trong hệ thống Tết Thượng - Trung - Hạ Nguyên, trong đó Tết Trung Nguyên là ngày rằm tháng 7 Âm lịch và Tết Hạ Nguyên là ngày rằm tháng 10 Âm lịch.
Trong văn hóa của người Việt, Tết Thượng Nguyên được coi là một trong những ngày lễ lớn vô cùng quan trọng, không thua kém gì Tết Nguyên Đán. Chính vì vậy mà các cụ xưa thường có câu “cúng quanh năm không bằng rằm tháng Giêng” hay “lễ Phật quanh năm không bằng ngày rằm tháng Giêng”. Vào ngày Tết Thượng Nguyên, các gia đình thường sắm sửa mâm lễ cúng để dâng lên tổ tiên và thần linh, một số người còn đến chùa để cầu mong bình an và những điều tốt đẹp cho bản thân và gia đình.
Cách Cúng Lễ Thượng Nguyên
Trước tiên bạn cần chuẩn bị các lễ vật cúng rằm tháng Giêng bao gồm rượu, nước, trầu cau, đèn cầy (nến), nhang, vàng mã, bánh kẹo, hoa quả và hoa tươi. Sau đó, bạn chuẩn mâm cỗ cúng Tết Thượng Nguyên tươm tất để dâng lên tổ tiên và thần linh. Theo truyền thống của người Việt xưa, mâm cỗ cúng Tết Thượng Nguyên đầy đủ thường bao gồm các món chính là bánh chưng, thịt gà trống luộc, canh mọc, miến xào, canh bóng, giò, nem, củ kiệu (củ hành muối) và nước chấm.
Tuy nhiên, tùy vào điều kiện và sở thích của gia đình mà bạn có thể thêm hoặc bớt các món ăn sao cho hợp lý nhất, tránh gây lãng phí. Bên cạnh đó, bạn cũng có thể chuẩn bị một mâm cỗ cúng chay cũng được.
Sau khi chuẩn bị mâm cúng rằm tháng Giêng xong, bạn sẽ tiến hành thực hiện nghi lễ cúng Tết Nguyên Tiêu. Trước khi cúng, bạn nên tắm rửa sạch sẽ, ăn mặc chỉnh tề và đầu tóc cần gọn gàng. Sau đó, bạn đốt một vài nén hương rồi thắp ở mỗi bát hương 1 hoặc 3 nén hương, vì theo văn hóa tín ngưỡng của người Việt thì thắp hương số lẻ để tượng trưng cho cõi âm. Tiếp theo, bạn hãy thành tâm đọc bài văn khấn Tết Nguyên Tiêu sau đây:
Con lạy chín phương trời, mười phương chư Phật, chư Phật mười phương.
Con kính lạy Hoàng Thiên Hậu Thổ Chư Vị Tôn thần.
Con kính lạy ngài Bản Cảnh Thành Hoàng, ngài Bản Xứ Thổ Địa, ngài Bản Gia Táo Quân cùng Chư Vị Tôn thần.
Con kính lạy Cao Tằng Tổ Khảo, Cao Tằng Tổ Tỷ, Thúc Bá Đệ Huynh, Cô Di, Tỷ Muội họ nội, họ ngoại.
Tín chủ (chúng) con là...
Ngụ tại (Nơi ở tại)...
Hôm nay là ngày rằm tháng Giêng năm..., gặp tiết Nguyên Tiêu, tín chủ con lòng thành, sửa sang hương đăng, sắm sanh lễ vật, dâng lên trước án.
Chúng con kính mời ngài Bản Cảnh Thành Hoàng Chư Vị Đại Vương, ngài Bản Xứ Thần Linh Thổ Địa, ngài Bản Gia Táo Quân, Ngũ Phương, Long Mạch, Tài Thần. Cúi xin các ngài linh thiêng nghe thấu lời mời, giáng lâm trước án, chứng giám lòng thành thụ hưởng lễ vật.
Chúng con kính mời các cụ Tổ Khảo, Tổ Tỷ, Chư Vị Hương Linh, gia tiên nội, ngoại họ… (họ của gia đình bạn) nghe lời khẩn cầu, kính mời của con cháu, giáng về chứng giám tâm thành, thụ hưởng lễ vật.
Tín chủ con lại kính mời ông bà tiền chủ, hậu chủ tại gia về hưởng lễ vật, chứng giám lòng thành phù hộ độ trì cho gia chung chúng con được vạn sự tốt lành. Bốn mùa không hạn ách, tám tiết hưởng an bình (vái lạy 3 lần).
Truyền Thuyết Về Tản Viên Sơn Thánh
Tản Viên Sơn Thánh còn gọi là Sơn Tinh là vị thần cai quản dãy núi Ba Vì (núi Tản Viên) một trong bốn vị thánh bất tử của người Việt (tứ bất tử)
Các sự tích truyền thuyết về Đức thánh Tản (đặc biệt là truyền thuyết Sơn Tinh-Thủy Tinh) thể hiện khát vọng làm chủ thiên nhiên của người Việt mở đất dựng nước.
Trong tâm thức dân gian của người Việt Tản Viên là vị thánh biểu đạt cho những khả năng to lớn và vĩnh viễn của cộng đồng trong lao động sáng tạo ra nguồn của cải vô tận và trong chiến đấu chống thiên tai (lũ lụt) để bảo vệ cuộc sống chung.
Thánh Tản Viên được coi là vị thánh được nhắc tới đầu tiên.Có lẽ đây là vị thánh liên quan tới truyền thuyết về việc bảo tồn giữ gìn đất nước trong cuộc đấu tranh đối chọi với thiên nhiên và với giặc ngoại xâm của dân tộc.
Truyện kể về xung đột mang màu sắc “tình ái” giữa hai vị thần tượng trưng cho hai thế lực đối chọi nhau: Thuỷ Tinh (Thần Nước), là sức mạnh tự nhiên, biểu hiện của thiên tai lũ lụt bão tố … mà hàng năm nhân dân ta phải gánh chịu, nhất là cư dân lưu vực đồng bằng sông Hồng (mà Thăng Long là vùng chịu ảnh hưởng khá nặng nề). Còn Sơn Tinh (Thần Núi), còn gọi là Thánh Tản Viên, đại diện cho sức mạnh vật chất, ý chí, sự thông minh, lòng quả cảm và sự đoàn kết toàn dân, đã chống chọi kiên cường và chống chọi thành công với sức huỷ diệt tàn phá của mọi thiên tai địch hoạ.
Hiện có hai quan niệm và cách giải thích nguồn gốc xuất thân của Tản Viên:
1. Các học giả thời phong kiến cho Tản Viên là “hạo khí anh linh của trời đất sinh ra”, hoặc cho “là 1 trong 50 người con của Lạc Long Quân, Âu Cơ theo cha xuống biển”. Chàng “từ biển đi vào, qua cửa Thần Phù, ngược sông Hồng đến Long Đỗ (Hà Nội), Trấn Trạch, rồi ngược sông Lô, đến Phúc Lộc giang”.
Từ đấy, “nhìn thấy núi Tản Viên cao vời, xinh đẹp, lại thêm phía dưới dân chúng thuần phác, thái bình”, nên chàng “đã làm một con đường thẳng như kẻ chỉ, từ Bạch Phiên Tân lên thẳng phía Nam núi Tản Viên, tới động An Uyên, thì lập diện để nghỉ ngơi”. Các tác giả Lịch triều Hiến chương (Phan Huy Chú) và Việt sử Thông giám cương mục… cũng đều có những quan niệm tương tự.
2. Trong khi đó theo quan niệm của dân gian, được thể hiện qua các bản thần thích thần phả ở các làng trong vùng Truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh (Hà Nội, Vĩnh Phúc, Phú Thọ) thì Thánh Tản Viên lại là người có thực, xuất thân từ tầng lớp nghèo khổ trong dân chúng.
Chàng tên thực là Nguyễn Tuấn, có tài “hô phong hoán vũ”, dũng cảm. Sơn Tinh được Hùng Vương kén làm rể, gả con gái Mỵ Nương. Sau đó, Thủy Tinh vì không được chọn, đã nổi giận đem binh đến đánh, xảy ra các cuộc chinh chiến trong nhiều năm trời. Kết cục, Thủy Tinh luôn là kẻ bại trận.
Truyền thuyết về Tản Viên Sơn Thánh:
Truyền thuyết thời Hùng Vương về Tản Viên Sơn Thánh, có rất nhiều, có thể kể đến: Tản Viên Sơn Thánh; Sơn Tinh Thủy Tinh; Tản Viên đón vợ; Trần Giới, Trần Hà; Ba anh em lốt rắn; Cao Sơn và Quý Minh; Đại Hải đánh Thục; An Dương Vương lập cột đá thề; Sơn Tinh gánh đất trị thủy;
Cuốn Ngọc phả trong đền Lăng Sương, ở xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy, Phú Thọ kể lại gốc tích ra đời, trưởng thành của thánh Sơn Tinh, tên thật là Nguyễn Tuấn. Thân phụ ngài là ông Nguyễn Cao Hành, thân mẫu là Đinh Thị Đen, vốn là những người tu nhân tích đức nhưng hiếm muộn con cái.
Trong một lần mẫu Đen (tên mà người dân trong vùng gọi thân mẫu sinh thành ra thánh Tản Viên) ra giếng gánh nước thì gặp con rồng vàng. Mẫu gánh nước về tắm thì đột nhiên mang thai. Người thường chỉ mang thai 9 tháng nhưng mẫu mang thai đúng 14 tháng mới sinh. Đến thai kỳ thì sinh được một con trai có tướng mạo khôi ngô nên đặt tên cho là Nguyễn Tuấn”.
Truyền thuyết kể lại rằng thân mẫu Nguyễn Tuấn thường ngồi trên phiến đá đó cúi xuống để lấy nước nên in dấu thành vết. Độ sâu của giếng chỉ khoảng 3m – 4m nhưng chưa bao giờ cạn nước, kể cả vào mùa khô. “Vào mùa hè khô hanh, ruộng đồng khắp nơi đều cạn nước nhưng giếng này vẫn đầy nước, nhìn trong vắt”, ông Tuất nói.
Khi Nguyễn Tuấn lên 6 tuổi đã mồ côi cha, sau đó hai mẹ con chuyển sang nơi sinh nhai mới thuộc xóm Cốc ở núi Tản Viên. Cũng tại đây, chàng thanh niên Nguyễn Tuấn được thần núi Ma Thị Cao Sơn nhận làm con nuôi. Sau 3 năm sinh sống ở chân núi Tản, hai mẹ con lại trở về sống ở động Lăng Sương (đền Lăng Sương ngày nay).
Năm 12 tuổi, Nguyễn Tuấn ngày ngày vượt sông Đà sang núi Tản Viên để đốn củi về phụ giúp thân mẫu. Cứ mỗi khi quay trở lại núi vào ngày hôm sau, chàng lại thấy những cây mình chặt hôm trước mọc trở lại. Thấy lạ, chàng mới quyết định núp để tìm hiểu. Nhờ đó mà Nguyễn Tuấn gặp được ông Tử Vi thần tướng Bạch Tuyết – chính là người đã làm cho các cây gỗ bị chặt mọc lại. Thấy chàng trai trẻ Nguyễn Tuấn có tướng mạo khôi ngô tuấn tú, Tử Vi thần tướng đã truyền lại cho chàng cây gậy đầu sinh đầu tử. Trên đường qua sông về nhà, Nguyễn Tuấn nhìn thấy con trai vua Thủy Tề bị tử nạn, chàng đã sử dụng cây gậy thần, cứu mạng con vua Thủy Tề.
Cảm kích ơn cứu mạng, vua Thủy Tề dâng vàng bạc châu báu để trả ơn nhưng Nguyễn Tuấn đều từ chối. Khi nhìn thấy cuốn sách ước – một bảo vật của vua Thủy Tề, Nguyễn Tuấn ngỏ ý xin ban tặng nhưng vua Thủy Tề từ chối vì đó là bảo bối quý hiếm.
Mặc dù nhà vua từ chối nhưng người con trai quyết trả ơn cho Nguyễn Tuấn, bèn đánh cắp cuốn sách để tặng cho vị ân nhân. Vua Thủy Tề biết được, liền dâng nước và quân đội lên để đòi lại sách quý. Tuy nhiên, có trong tay cuốn sách bảo bối, Nguyễn Tuấn đã đẩy lùi đạo quân sóng nước.
Người vợ của Nguyễn Tuấn sau này là con gái Hùng Vương. Khi lấy được công chúa, Nguyễn Tuấn được vua cha truyền lại ngôi báu. Sau đó, Nguyễn Tuấn đã nhường lại ngôi cho Thục Phán An Dương Vương, từ đó nước Âu Lạc ra đời.
Với công lao đẩy lùi thủy hạn, an dân hộ quốc, sau này, nhân dân địa phương đã lập đàn thờ và tôn ngài thành Tản Viên Sơn Thánh. Sơn Tinh cũng là nhân vật đầu tiên trong Tứ Bất Tử của nước ta.
Những tích bút ghi cho thấy một giả thiết khác về nguồn gốc xuất thân của Đức thánh Tản Viên (Sơn Tinh), nhiều tình tiết có phần khác hẳn với truyền thuyết Sơn Tinh vốn đã lưu truyền trong dân gian từ trước đến nay.
Truyện Sơn Tinh, Thủy Tinh:
Truyện Sơn Tinh, Thủy Tinh, kể rằng: Vua Hùng thứ 18 sinh được 20 người con trai và 6 nàng con gái lần lượt qua đời, chỉ còn lại Tiên Dung công chúa và Ngọc Hoa công chúa. Tiên Dung đã lấy Chử Đồng Tử còn Ngọc Hoa chưa lấy ai. Ngọc Hoa xinh đẹp da ngà mặt ngọc, xinh đẹp tuyệt vời, được vua cha rất yêu quí. Vua Hùng lập lầu kén rể. Sơn Tinh và Thủy Tinh nghe tin, cùng tìm đến thi tài. Sơn Tinh, Thủy Tinh đều có tài nghệ hơn người, hình dung tuấn tú.
Trước lầu cao có vua Hùng và Ngọc Hoa ngự. Thủy Tinh thi trước, ra oai gọi gió, hô mưa, chợt thấy mưa rơi sầm sập, sấm nổ vang ầm ĩ, trời đất tối tăm, bốn bề nước réo, cây nghiêng núi ngả, muôn loài đều khiếp sợ, người và muông thú vội tìm chỗ trú ẩn cho kín, ai nấy nín hơi ngậm miệng không dám ló ra. Đến lượt Sơn Tinh, chàng giơ cao chiếc gậy thần, lập tức sét câm, mưa trốn, trời trong mây sáng, cây cỏ lại xanh tươi, chim hót hoa cười, rõ ra cảnh tượng mùa xuân hòa vui ấm áp.
Vua Hùng thấy cả hai chàng trai đều có tài lạ, không biết gả Ngọc Hoa cho ai, trong dạ phân vân, mới thách đồ dẫn cưới phải có “voi 9 ngà, gà 9 cựa, ngựa 9 hồng mao” và hẹn rằng ngày mai ai đem đồ lễ tới trước thì sẽ được đón công chúa về làm vợ. Cả hai chàng Sơn Tinh và Thủy Tinh vái tạ nhà vua, vội vã ra về lo sửa soạn đồ sính lễ.
Sơn Tinh, nhờ có cuốn sách ước vua Thủy Tề tặng, nên tuy ở ngay tại thành Phong Châu, nhưng chỉ việc mở sách ước ra là có đủ các vật quí, lạ của núi rừng sông bể, đủ cả “voi 9 ngà, gà 9 cựa, ngựa 9 hồng mao” như vua Hùng đã thách. Trời chưa sáng, Sơn Tinh sợ trùng trình Thủy Tinh kéo đến, mới giả tiếng gà gáy. Tức thì, gà khắp vùng gáy theo inh ỏi. Cửa thành mở rộng.
Sơn Tinh vào chầu vua Hùng, tiến dâng lễ vật và được vua Hùng cho đón Ngọc Hoa về nhà trai. Đám rước dâu vừa tới làng Trẹo (nay là thôn Triệu Phú, xã Hy Cương, huyện Lâm Thao, gần Đền Hùng) thì gặp Thủy Tinh đang đốc thúc quân gia khiêng các lễ vật tới. Thấy Sơn Tinh đã đón Ngọc Hoa, Thủy Tinh nổi giận đùng đùng, vứt tung lễ vật rơi vãi khắp nơi, rồi thét quân xông tới cướp Ngọc Hoa. Hai bên giao chiến một trận dữ dội.
Lúc đó trời đất bỗng tối sầm, chỉ thấy ánh chớp sáng lòe, tiếng sét đánh inh tai, tiếng hò reo vang dội một vùng rộng lớn. Trong đám loạn quân, Ngọc Hoa bị lạc, không thấy Sơn Tinh đâu, mới cất tiếng hú gọi chồng (hiện nay, thôn Triệu Phú có tục cầu tiếng hú, để nhắc lại tiếng hú của Ngọc Hoa gọi chồng thủa nào). Trong lúc đang ra sức chống đỡ Thủy Tinh, nghe tiếng hú của vợ, Sơn Tinh vội đi tìm Ngọc Hoa. Tới chiều tối mới mở được đường máu, đưa Ngọc Hoa về núi Tản.
Không cam tâm để mất Ngọc Hoa, Thủy Tinh liền nổi sóng dữ thét quân đuổi theo. Sơn Tinh đưa vợ lên tít ngọn núi Tản. Bấy giờ sóng vỗ nghiêng trời, nước dâng ngập đất, các loài thủy tộc múa may nhảy nhót theo nước dâng tiến lên. Nước vỗ đồng bãi tràn rừng quật núi, sông nước réo lên ầm ầm, mưa đổ như trút, chớp lòe sấm động đất như nghiêng, trời như đổ, bốn bế nước đục mênh mông. Sơn Tinh ra sức chống cự, cùng với nhân dân và các bộ hạ đắp đất, lao gỗ để chặn nước. Nước dâng tới đâu, Sơn Tinh lại hóa phép dâng đất lên cao hơn.
Thủy Tinh thấy đánh mãi không được, nổi giận mở một con đường nước xoáy thẳng vào chân núi Tản (dấu tích còn lại đến ngày nay là ngòi Lạt ở địa phận huyện Thanh Sơn, chảy giữa hai xã Tu Vũ huyện Thanh Thủy, Lương Nha huyện Thanh Sơn, hướng chảy thẳng vào núi Chẹ trước núi Tản, cách núi bởi con sông Đà). Sơn Tinh vội gánh đá đổ thành một hòn núi lớn phía trước núi Tản chặn đứng mũi nước xoáy của Thủy Tinh (dấu tích hiện còn là hòn Núi Chẹ là một dãy núi đá vôi đứng bên bờ sông, ngay trước núi Tản, như một bức bình phong che cho núi Tản).
Nước ở thượng nguồn lại sầm sập lao về. Sơn Tinh thả lưới sắt, giăng chông đá ngang sông để đánh bắt quân Thủy Tinh (dấu tích nay là bãi Đá Chông, một bãi đá dựng lởm chởm dăng ngang dòng sông Đà, thẳng tới xã Đoan Hạ, huyện Thanh Thủy). Hai em của Sơn Tinh là Nguyễn Hiển và Nguyễn Sùng là Tả hữu lâm thần hai bên bờ sông Đà hô ném các loại cây đắng có chất độc như cây mền dẻ, cây thàn mát xuống nước. Quân Thủy Tinh bị trúng độc, xác nổi đặc mặt sông, Thủy Tinh thua to, vội vã rút quân về. Từ đấy, cứ hàng năm, vào tháng sáu, tháng bẩy âm lịch, nước lại dâng to ở các sông gây lụt lũ. Nhân dân nói đó là Thủy Tinh nhớ mối thù cũ, dâng nước đánh Sơn Tinh. (Tổng tập Văn nghệ dân gian đất Tổ, Tập 1, Sở Văn hóa – Thông tin – Thể thao Phú Thọ và Hội Văn nghệ dân gia Phú Thọ, năm 2000, tr 119-122).
Các truyền thuyết khác:
Truyền thuyết về Tản Viên Sơn Thánh có nhiều dị bản, trong đó có một số dị bản sau: Động Lăng Xương có hai anh em Nguyễn Cao Hành và Nguyễn Cao Ban, tuổi đã cao mà chưa có con. Người anh là Nguyễn Cao Hành có nuôi một người cháu ruột của vợ mình tên là Đinh Thị Điên và ăn nằm với người cháu này. Đinh Thị Điên có mang, đẻ được một người con trai, đặt tên là Tuấn – Nguyễn Tuấn. Vợ chồng người em Nguyễn Cao Ban cũng sinh được 2 người con trai, đặt tên là Hiển – Nguyễn Hiển và Sùng – Nguyễn Sùng. Trong thời gian mang thai những khi Đinh Thị Điên đi làm đồng thường vẫn có mây lớn che đầu. Một hôm bà đang cấy lúa, chợt thấy trong người cảm động, biết là sắp sinh nở, bỏ các cây mạ, tìm giếng rửa chân tay. Rửa xong, về tới nhà thì đẻ.
Từ lúc cấy cho tới lúc đẻ vẫn có mây lành che đầu. Hiển và Sùng 12 tuổi thì cả cha lẫn mẹ mất. Người cậu ruột đưa cả hai anh em sang chân núi Tản ở với người đàn bà hủi họ Bùi, có họ mà không có tên. Vào năm Nguyễn Tuấn lên 6 tuổi, thì bố mất, mẹ yếu. Tuấn sang ở với bà họ Bùi. Ba năm sau, Nguyễn Tuấn quay về ở với mẹ, đổi tên là Tùng – Nguyễn Tùng. Một hôm Nguyễn Tùng nghĩ bụng hai mẹ con ở hai nơi khó chăm sóc, mới đưa mẹ đẻ sang núi Tản cùng ở với mẹ nuôi họ Bùi kia. Từ đấy, ba anh em Nguyễn Tuấn, Nguyễn Hiển và Nguyễn Sùng cùng ở với hai mẹ, sum họp một nhà ở chân núi Tản. Một năm sau, bà Đinh Thị Điên qua đời.
Một dị bản khác, kể rằng: Hùng Duệ Vương tuổi già mà không có con nối dõi. Thục Phán là chủ đạo bộ Ai Lao, vốn người kiêu dũng, cho rằng vận nhà Hùng đã hết, sợ rằng ngôi vua sẽ về tay Sơn Tinh là con rể vua Hùng, mới nổi quân về đánh vua Hùng. Quân Thục chia làm 5 đạo thủy bộ cùng tiến, thế mạnh như vũ bão, các đồn lũy của vua Hùng không chống cự nổi. Hùng Duệ Vương vô cùng lo sợ, truyền gọi con rể Tản Viên về triều, hỏi mưu kế, rồi trao quyền đánh dẹp quân Thục cho Tản Viên.
Tản Viên Sơn Thánh và hai em là Tả hữu lâm thần Nguyễn Hiển, Nguyễn Sùng (truyền thuyết ở xã Thanh Uyên, huyện Tam Nông, kể là Cao Sơn và Quý Minh – người trang Thanh Uyên, là hai anh em kết nghĩa với Tản Viên, đã chiêu mộ được hơn hai trăm người về giúp Tản Viên đánh Thục), đưa hơn ba nghìn người vùng sông Đà về nhận mệnh vua, rồi tiến quân qua sông Thao, đóng trại ở các làng Cổ Tiết và Quang Húc (nay thuộc huyện Tam Nông). Tản Viên xin nhà vua ban chiếu cầu người tài giỏi ra giúp nước. Vua Hùng nghe theo. Người người kéo về Phong Châu, theo Tản Viên Sơn Thánh đánh Thục nhiều lần, thu được thắng lợi to.
Sách Đại Nam nhất thống chí, thời Nguyễn, ghi chép lai lịch Đền thần Tản Viên, như sau: “Thần có ba vị: một vị tên là Nguyễn Hương, một vị tên là Nguyễn Tuấn, một vị tên là Nguyễn Lang. Có thuyết nói: thần tên là Hương Lang con Lạc Long Quân. Đời Đường Nghiêu nước lớn ngập cả núi gò, Hương Lang có phép tiên, trừ được nạn lụt, sau lại đánh tan được quân nhà Tần, bèn đi khắp nơi xem xét danh thắng đến núi Tản Viên, dựng cung điện để ở, sau người ta lập đền thờ. Sơn thần rất thiêng, thường có hạc múa, voi quì, rồng chầu, hổ phục. Cao Biền nhà Đường có ý muốn yểm, nhưng không yểm được, đời Thái Ninh Đường Ý Tông ban cho tiền của để sửa lại đền, nay đền vẫn còn, các triều đều có phong tặng.
Xét Lĩnh Nam trích quái chép rằng: Hùng Vương có con gái là Mỵ Nương, muốn tìm người lứa đôi, một hôm có hai người cùng đến cầu hôn, Sơn Tinh và Thủy Tinh. Hùng Vương hẹn với hai người rằng ai đưa sính lễ đến trước thì được lấy Mỵ Nương. Ngày hôm sau, Sơn Tinh đem đủ lễ vật đến trước, đón Mỵ Nương về núi Tản Viên. Thủy Tinh đến sau, bèn đem các loài thủy tộc đuổi theo. Sơn Tinh liền hóa phép thần, Thủy Tinh không sao xâm phạm được. Tương truyền Sơn Tinh tức là Nguyễn Tuấn. Lời phụ lục trong Dư địa chí của Nguyễn Trãi nói: Thần núi Tản Viên linh thiêng lạ thường, vua Lý Nhân Tông sai thợ dựng đền ở ngọn thứ nhất trên núi, có lầu 12 tầng”. (Đại Nam nhất thống chí, Nxb Thuận Hóa, T4, 1997, tr 237- 238).
Tuy có nhiều ghi chép khác nhau về lai lịch của Nguyễn Tuấn – Tản Viên Sơn Thánh như nêu ở trên, song xuyên suốt trong các bản ghi chép ấy là khẳng định vị thần chủ núi Ba Vì – Sơn Tinh. Tản Viên Sơn Thánh ấy chính là hóa thân của một người họ Nguyễn, tên là Tuấn, sinh ra ở động Lăng Xương xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ, vào đời Hùng Vương thứ 18.
Nguyễn Tuấn có cha, có mẹ, có vợ là Ngọc Hoa – công chúa của Hùng Vương thứ 18. Sơn Tinh – Tản Viên Sơn Thánh có vị trí cao trong tâm thức người Việt cổ, có ảnh hưởng rất lớn với triều đình Hùng Vương thứ 18, với xã hội Văn Lang thủa sơ khai. Nguyễn Tuấn – vừa là anh hùng văn hóa, vị thần trị thủy chiến thắng lũ lụt, thần tổ dạy cho dân nhiều nghề; vừa là thủ lĩnh quân sự kiệt xuất, vị thần chiến tranh chống Thục, lại cũng là một nhà chính trị khôn ngoan nhìn xa trông rộng , vị thần khuyên vua Hùng nhường ngôi cho vua Thục và lên núi “dưỡng nhàn”.
Thờ cúng:
Đã có nhiều đền thờ nhân vật Sơn Tinh được người dân ở một vùng lập nên, như đền Và (Sơn Tây, Hà Nội), các ngôi đền trên núi Ba Vì (Hà Nội). Tuy nhiên, những ngôi đền này chỉ là nơi được lập nên để thờ vọng chứ không phải là đất phát tích của Tản Viên Sơn (Sơn Tinh). Trong cuốn Ngọc phả ghi rõ, ngôi đền có tên là Lăng Sương, ở xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy, Phú Thọ chính là nơi đầu tiên thờ thánh Tản Viên. Đền Lăng Sương được xây dựng từ năm 1011, đời nhà Lý. Theo tài liệu còn được lưu giữ tại đây thì, đền được dựng lên trên nền đất cũ nơi thánh Sơn Tinh sinh ra và lớn lên. Di tích đền Lăng Sương là nơi hiếm hoi còn lưu lại những giải thích cặn kẽ nhất về Đức thánh Tản Viên.
Hàng năm, hội đền Lăng Sương diễn ra từ ngày 14 – 16 tháng Giêng âm lịch, trong đó ngày 15 là ngày chính lễ. Trong 3 ngày này, hội đền đã thu hút hàng trăm lượt du khách đến tham gia và bái lễ. Đền Lăng Sương được coi là một điểm đến tâm linh quý báu của đất tổ Hùng Vương trong hành trình tìm về cội nguồn dân tộc.
Tại các di tích thờ Nguyễn Tuấn – Tản Viên Sơn Thánh trên cả một vùng rộng lớn quanh dãy núi Ba Vì, ngã ba sông Hồng, sông Đà thuộc địa phận các tỉnh Phú Thọ, Hà Tây, Hòa Bình, hàng năm nhân dân đều tổ chức lễ hội. Tiêu biểu phải kể đến một số lễ hội, như:
– Hội đền Và: tổ chức lễ hội lớn vào ngày Rằm tháng giêng, là hội về Thánh Tản lớn nhất, nức tiếng Xứ Đoài. Vào năm đại hội, các làng có liên quan đến Thánh Tản và Đền Và (có 8 làng: Vân Gia, Thanh Trì, Nghĩa Phủ, Mai Trại, Dạm Trại (xã Trung Hưng), Phù Sa, Phú Nhi (xã Viên Sơn), và làng Di Bình (xã Vĩnh Thịnh – huyện Yên Lạc tỉnh Vĩnh Phúc) đều tập trung về đền Và. Hội bắt đầu từ ngày 13 đến hết 15 tháng giêng, với đám rước lớn ngày 14. Ngoài hội Xuân này, tại Đền Và còn có hội Thu vào ngày 14 tháng 9 âm lịch, tiêu điểm là hội đả ngư / đánh bắt cá cầu may.
– Hội đền Măng Sơn (ở xã Sơn Đông, Hà Tây cũ): hàng năm mở hội vào ngày 6 tháng Giêng để tưởng niệm đức Thánh Tản đã dạy dân làng nghề săn bắn. Hội được tổ chức dưới hình thức té và rước nước.
– Hội Dô ở Liệp Tuyết (Quốc Oai – Hà Tây cũ) cũng tưởng niệm Thánh Tản vào ngày 10 tháng giêng.
– Lễ hội làng Khê Thượng (xã Sơn Đà, huyện Ba Vì) hàng năm mở hội Thánh Tản vào ngày mồng 3 đến 7 tháng giêng (còn gọi là tục Rước chúa trai – rước Thánh Tản sang sông để chúc tết bố vợ rồi mới quay về ăn tết với dân làng.Trong lúc Khê Thượng mở hội Rước chúa Trai thì đồng thời làng Vi, làng Trẹo (huyện Phù Ninh- Phú Thọ) cũng mở hội Rước chúa Gái – tức nàng Ngọc Hoa công chúa dựa theo truyền thuyết Ngọc Hoa về thăm cha lâu ngày không trở lại nên Tản Viên phải sang đón và được hai làng Vi Trẹo tôn kính giúp đỡ.
Sự thờ phụng Đức Thánh Nguyễn Tuấn – Tản Viên Sơn Thánh trên đây bắt nguồn từ tín ngưỡng thờ thần núi chủ cộng với tục thờ người có công với dân với nước. Trải qua nhiều thế hệ nhân dân ta một lòng tôn kính ngưỡng mộ Đức Thánh Nguyễn Tuấn – Thánh Tản, bởi họ tìm thấy ở Ngài phẩm chất và truyền thống tốt đẹp của dân tộc và quê hương mình.Đức Thánh Nguyễn Tuấn – Tản Viên Sơn Thánh trở nên Bất Tử trong đời sống văn hóa – tâm linh của người Việt cổ, được di dưỡng qua năm tháng, ngày càng tỏa sáng trong cuộc sống hôm nay.
Đức Thánh Tản Viên: sự tích và đền thờ trấn tứ phương
Đức Thánh Tản Viên hay còn được biết đến là vị thần Sơn Tinh trong truyền thuyết Sơn Tinh – Thủy Tinh nổi tiếng trong cộng đồng người Việt hiện đại. Đây là vị thánh biểu đạt cho những ước mơ, khát vọng của người dân lao động xưa về một cuộc sống ấm no, có thể chế ngự hoàn toàn thiên tai lũ lụt. Hiện nay Đức Thánh Tản Viên vẫn là vị thần được nhân dân tôn sùng và gửi gắm những hy vọng, khát khao về cuộc sống bình an, êm ấm. Biểu hiện bởi rất nhiều ngôi đền khang trang được nhân dân xây dựng tại miền Bắc Việt Nam và thường xuyên lui tới nhang khói, cúng lễ đủ đầy thành tâm.
Đức Thánh Tản Viên là ai?
Đức Thánh Tản Viên hay còn được biết đến với nhiều danh xưng khác nhau như Vua Cha Nhạc Phủ, Tản Viên Sơn Thánh hay gần gũi nhất là thần Sơn Tinh. Ngài là một trong bốn vị thánh bất tử của người Việt. Đồng thời, ngài cũng được coi là đệ nhất phúc thần của nước Việt đứng đầu tứ bất tử.
Ngài thuộc Tứ Phủ Vạn Linh tại hàng vị Đức Vua Cha cùng với Vua Cha Thiên Phủ (Ngọc Hoàng Thượng Đế), Vua Cha Thủy Phủ (Vua Cha Bát Hải Động Đình), Vua Cha Địa Phủ.
Ngoài ra, ngài còn được biết đến là cha của Mẫu Đệ Nhị Thượng Ngàn hay La Bình Công Chúa. Việc này được đề cập rất rõ trong truyền thuyết về Mẫu Thượng Ngàn.
Theo truyền thuyết thì ngài là người cai quản dãy núi Ba Vì (núi Tản Viên). Ngài linh thiêng, anh linh ứng nghiệm vô cùng. Ghi trong truyện núi Tản Viên, tác giả Lĩnh Nam chích quái có viết: “Linh khí không thể lường được, tương truyền rằng thần rất linh thiêng và ứng nghiệm.”
Về xuất thân của Đức Thánh Tản Viên, có rất nhiều nguồn giải thích cho nguồn gốc nhà ngài.
- Tản Viên Sơn Thánh là con của Lạc Long Quân và Âu Cơ. Theo đó, ngài là một trong năm mươi người con được chia về biển. Sau đó, ngài đi qua cửa biển Thần Phù, ngược sông Hồng mà về. Thấy núi Tản Viên cao vời, xinh đẹp tú lệ ba hòn sắp thẳng đứng. Lại thêm dân chúng quanh vùng cực chất phác, đôn hậu nên người đã làm một đường thẳng như kẻ chỉ từ làng Bạch Phiên Tân mà đến phía nam núi Tản Viên, đến Uyên Đông, lại đến Nham Tuyền là chỗ nguồn khác, rồi đi lên núi Thạch Bàn đầu non Vân Mộng mà ở. Những vết chân ấy, người đời sau lập đền thờ phụng, hạn thì đảo, lụt thì cầu, ngự hỏa tai ngăn đại hạn mau hơn tiếng vang cực kỳ linh ứng.
- Tản Viên Sơn Thánh là ba anh em. Theo đó, nói tới Tản Viên Sơn Thánh là nói tới cả ba anh em thần núi hay còn được gọi là Tam Vị Đại Vương Quốc Chúa Thượng Đẳng Thần gồm Sơn Tinh, Cao Sơn và Quý Minh. Hiện ba đền Thượng, Trung, Hạ tại Ba Vì đang thờ phụng Tam vị Tản Viên Sơn Thánh.
- Tản Viên Sơn Thánh là người thật. Theo quan niệm dân gian tại các làng trong truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh (Hà Nội, Vĩnh Phúc, Phú Thọ), kết hợp ngọc phả đền Lăng Xương thì Thánh Tản Viên là người tên Nguyễn Tuấn. Ông là con trưởng của Nguyễn Cao Hành và bà Đinh Thị Đen ở đạo Sơn Tây nay là Phú Thọ. Ông nhận bà Ma Thị Cao ở núi Ngọc Tản làm mẹ nuôi. Từ đây, ông trở thành người cứu độ nhân dân có phép thần thông biến hóa, có văn võ song toàn và trở thành vị thần núi Tản Viên. Sau này khi Hùng Vương kén rể cho con gái Ngọc Hoa, ông chọn Sơn Tinh – Nguyễn Tuấn.
Truyền thuyết Đức Thánh Tản gắn với những công lao to lớn truyền lưu ngàn đời
Công lao to lớn nhất của Đức Thánh Tản phải kể đến việc ngài cùng với Vua Cha Bát Hải Vĩnh Công Đại Vương phối hợp cùng đánh tan giặc ngoại xâm khỏi bờ cõi Văn Lang. Khi đó, Vĩnh Công Đại Vương chặn mũi công của giặc trên biển và Tản Viên Sơn Thánh thì chặn mũi công của địch trên đường bộ, đánh tan quân giặc chỉ trong 3 ngày.
Thời bình, ông lại đi khắp nơi dạy nhân dân làm ăn sinh sống.
Ông dạy dân Ba Vì biết làm ra lửa bằng ống giang già, biết săn bắn với kế làm hầm gài tên căng lưới, dạy dân Quốc Oai biết gieo hạt trồng lúa, dạy dân ven sông Hồng biết làm lưới kéo vó, dạy dân chúng biết võ nghệ đánh giặc bảo vệ tổ quốc, dạy nhân dân biết dệt vải hát ca. Hiện nay tại nhiều ngôi đền, người dân vẫn tổ chức lễ hội mô phỏng lại cách thức làm ăn mà Sơn Tinh đã dạy cho nhân dân, đồng thời tỏ lòng biết ơn vị thánh đã giúp cuộc sống nhân dân ấm no hơn.
Một số sắc phong của Tản Viên Sơn Thánh
Với những công lao to lớn với nhân dân và đất nước, Tản Viên Sơn Thánh được rất nhiều triều vua ban sắc phong thể hiện sự tôn kính trọng vọng.
Vua Trưng Vương (Trưng Trắc) sắc phong ngài là :”Tản Viên sơn quốc chúa đại vương Dực bảo Trung hưng Thượng đẳng thần.”
Vua Trần Nhân Tông sắc phong ngài là “Hữu thánh hưng quốc hiển ứng vương”.
Vua Tự Đức phong ngài là thượng đẳng tối linh thần
Ngoài ra, tại đền Và Sơn Tây vẫn còn lưu trữ 18 bản sắc phong khác dành cho Đức Thánh Tản thuộc nhiều đời vua khác nhau. Trong đó có 17 bản chính có dấu ấn.
Ngoài ra vị thần Tản Viên Sơn Thánh thần thông quảng đại không chỉ sống trong lòng người dân mà ngài còn xuất hiện cả trong những tác phẩm văn học được miêu tả với những từ ngữ trân quý nhất. Những tác phẩm viết về nhà Ngài gồm có “Việt điện u linh”, “Lĩnh Nam chích quái”, “Thánh Tông di ký toàn thư”, “Thánh Tông di ký toàn thư”
Tản Viên Sơn Thần
Đệ nhất phúc đẳng thần
Đệ nhất bách thần
Thượng Đẳng tối linh thần
Nam thiên thánh tổ
Ngài là vị thánh anh linh, tiêu biểu cho người anh hùng dân tộc chống ngoại xâm cùng nhân dân khống chế thiên tai, lũ lụt.
Núi Tản Viên – linh thiêng ngọn núi thuộc truyền thuyết Đức Thánh Tản Viên
Núi Tản Viên hay núi Ba Vì được cho là ngọn núi nắm giữ đường long mạch quan trọng. Đồng thời, đây chính là ngọn núi xuất hiện trong truyền thuyết Sơn Tinh – Thủy Tinh khi “Thủy Tinh dâng nước cao bao nhiêu thì Sơn Tinh dâng núi cao bấy nhiêu”. Khu vực trong lời kể được cho là ngọn núi Ba Vì.
Ca dao cũng truyền tụng về núi Ba Vì: “Nhất cao là núi Ba Vì, thứ ba Tam Đảo, thứ nhì Độc Tôn”.
Thực tế, núi Ba Vì thấp hơn núi Tam đảo tới gần 300m nhưng dân gian vẫn coi ngọn núi này là cao nhất địa giới. Bởi Ba Vì là nơi ngự của Thần Núi Tản Viên nên trong tâm thức người Việt, không ngọn núi nào sánh bằng với núi Ba Vì.
Ở ngôi đền cổ thờ vị thần núi cũng có câu đối: “Châu hình đẩu tiễn thiên hoành không/ Hạo khí quan mang vạn cổ tồn”.
Dịch là “Dáng hình sừng sững ngang trời rộng/Hạo khí mênh mang thuở còn”.
Tại quyển “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi cũng trích dẫn “Núi ất là núi tổ của nước ta đó.” Thể hiện vị thế cùng với tầm quan trọng bậc nhất của ngọn núi Tản Viên Ba Vì.
Ngày nay, dọc dãy núi Ba Vì là hệ thống đền thờ Tản Viên Sơn thánh trấn 4 hướng đông tây nam bắc:
Tây Cung gồm đền Trung và đền Hạ.
Nam Cung là đền Ao Vua.
Đông Cung là đền Và Sơn Tây.
Bắc Cung là đền Thính ở Vĩnh Phúc.
Ngày nay, núi Ba Vì trở thành địa điểm thu hút khách du lịch cả trong và ngoài nước. Cùng với hệ thống đền thờ phong phú cùng phong cảnh hoang sơ tuyệt đẹp sẵn có, Ba Vì trở thành khu du lịch sinh thái nghỉ dưỡng hấp dẫn mọi du khách là điều vô cùng dễ hiểu.
Cần chú ý gì khi sắm lễ Đức Thánh Tản Viên
Từ xa xưa, nhân dân đã luôn tin thờ và duy trì tục lễ Đức thánh Tản. Trong tâm thức, con hương luôn kính cẩn chấp bái, chấp niệm tin rằng Đức Thánh Tản luôn phù hộ độ trì cho quốc thái dân an, cuộc sống bình an, an ổn. Bởi vậy mà mỗi năm luôn có hàng ngàn con hương tín thờ và thường xuyên ghé thăm đền thờ đức thánh để dâng lễ bạc tâm thành lên ban thờ thánh. Đông nhất là vào những ngày lễ tiết lớn trong năm như ngày đầu xuân năm mới hay mùa lễ hội tại đền. Mỗi con hương, đệ tử đến đền lại mang theo một mâm lễ đủ đầy hương hoa, phẩm quả mong ngài chứng giáng phù hộ độ trì cho gia quyến bình an, khỏe mạnh, có tài có lộc, làm ăn thuận lợi, tốt tươi.
Một mâm lễ dâng ban thờ Đức Thánh Tản Viên gồm một đĩa hoa, một đĩa quả gồm nhiều loại quả, cơi trầu, quả cau, cút rượu, xôi thịt, thẻ hương, giấy tiền và một cánh sớ.
Đền Thờ Tản Viên Sơn Thánh
Đền thờ Thánh Tản Viên được nhân dân thờ tự tại rất nhiều ngôi đền tại khu vực dãy núi Ba Vì nổi tiếng nhất là các ngôi đền Thượng, Trung, Hạ gọi chung là đền thờ Tản Viên Ba Vì, đền Và tại Sơn Tây, đền Tranh và đền Thính tại Vĩnh Phúc, đền Lăng Sương tại Phú Thọ.
Theo thần tích tại Đền Và thì cung Trung và cung Hạ là nơi cầu đảo, tế lễ. Đông Cung là nơi “nghe tâu bày các việc”. Bắc Cung là nơi nghỉ ngơi.
Đền thờ Tản Viên (Ba Vì)
Địa chỉ: xã Minh Quang và Ba Vì, thuộc huyện Ba Vì
Đền thờ Tản Viên Ba Vì là tên gọi chung của hệ thống ba đền thờ Thượng, Trung, Hạ lần lượt nằm tại đỉnh, lưng chừng và chân núi thờ thần Tản Viên Sơn Thánh.
Đền Thượng hay còn gọi là chính cung Thần Điện nằm tại khu vực đỉnh núi cao 1227m so với mực nước biển. Theo các truyền thuyết và ngọc phả có liên quan thì đền Thượng có từ thời An Dương Vương. Là ngôi đền cổ kính, được nhân dân lập từ xa xưa.
Đền Trung còn gọi là Trung Cung tọa lạc tại lưng chừng núi Ba Vì. Tại chính cung đền thờ bà Ma thị Cao Sơn – người mẹ nuôi của Tản Viên Sơn Thánh, đồng thời là vị thần chủ cai quản núi Tản Viên. Đây là ngôi đền có vị thế đẹp nhất trong hệ thống các ngôi đền thờ thần Tản Viên.
Đền Hạ còn được gọi là Tây Cung. Ngôi đền được xây dựng dưới chân núi Tản, ngay bên bờ sông Đà. Theo ngọc phả ghi lại tại đền Và thì đầu thế kỷ 18 người dân đã xây dựng đền Hạ.
Khách hành hương khi dâng hương tại ba ngôi đền có thể kết hợp việc cúng lễ với du lịch thắng cảnh khu vực vườn quốc gia Ba Vì nổi tiếng.
Khu di tích đền Và (Sơn Tây)
Địa chỉ: thôn Vân Gia, xã Trung Hưng, thị xã Sơn Tây
Đền Và là ngôi đền nổi tiếng nhất trong hệ thống đền thờ tản viên sơn thánh ở Hà Nội. Năm 1964, đền Và được xếp hạng di tích lịch sử văn cấp quốc gia.
Theo truyền thuyết, đền Và là hành cung của Tản Viên Sơn Thánh mỗi lần người đi tuần thú hay du ngoạn.
Đền Và lưu giữ trong mình rất nhiều giá trị quý giá như 5 bản thần tích của Tản Viên Sơn Thánh, 18 đạo sắc phong, 47 đôi câu đối được chạm khắc công phu trên vách cột, cùng hoành phi gỗ, đá. …
Tại hậu cung đền thờ Tam Vị Đức Thánh Tản gồm Thánh Tản Viên, Quý Minh và Cao Sơn.
Ngôi đền được truyền tụng là đền thiêng, vô cùng linh ứng lời thỉnh cầu của con hương.
Lễ hội đền Và được tổ chức vào ngày 13 – 15 tháng giêng, cứ 3 năm lại tổ chức một lần lễ to. Lễ hội đền Và được đánh giá là lễ hội lớn nhất, đặc sắc nhất xứ Đoài.
Đền Tranh và đền Thính (Vĩnh Phúc)
Địa chỉ đền Tranh: xã Trung Nguyên, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc
Địa chỉ đền Thính: xã Tam Hồng, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc
Hai ngôi đền thờ thần Tản Viên đều được xây dựng gần nhau thuộc huyện Yên Lạc, Vĩnh Phúc.
Hai ngôi đền đều có lịch sử xây dựng từ xa xưa, đã trải qua nhiều lần tu sửa tôn tạo nên đền rộng hơn và khang trang hơn nhiều. Chủ yếu các nét kiến trúc trong đền nghiêng phần nhiều về kiến trúc nghệ thuật thời nhà Nguyễn.
Mặc dù được xây dựng gần nhau những mùa lễ hội tại hai ngôi đền này được tổ chức không giống nhau.
Tại đền Tranh, người ta tổ chức lễ hội vào ngày rằm tháng Giêng, ngày 6/2 và ngày 6/8 âm lịch. Nhân dân tại đền Tranh tổ chức lễ hội đền theo hình thức diễn xướng, nhắc lại công lao đức thánh ngài và tiến hành nghi lễ gieo hạt, cầu mưa thuận gió hòa.
Với cùng hình thức tổ chức các nghi lễ trong hội, lễ hội đền Thính được tổ chức vào mùng 6 đến mùng 9 tháng giêng âm lịch. Hội làng tại đây bao gồm nhiều trò chơi dân gian như đấu vật, chọi gà, kéo co
Đền Lăng Sương (Phú Thọ)
Địa chỉ: xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ
Nếu bạn đã biết đến hệ thống đền Và Sơn Tây, đền Tranh, đền Thính Vĩnh Phúc thờ thần Tản Viên thì không thể không biết đến đền Lăng Sương tại Phú Thọ. Theo cuốn ngọc phả, đền Lăng Sương mới là nơi phát tích của thánh Tản Viên. Những ngôi đền còn lại đều chỉ là đền thờ vọng.
Theo ghi chép tại đền, đền Lăng Sương được xây dựng năm 1011 vào thời nhà Lý. Khu vực xây dựng đền cũng được đặt trên nền móng nơi thánh Sơn Tinh sinh ra và lớn lên. Bởi vậy, ngôi đền được rất nhiều con hương, đệ tử tứ phương lặn lội đường xa tìm về để dâng lễ, cúng bái hàng năm.
Đền Lăng Sương tổ chức lễ hội vào ngày 14 – 16 tháng Giêng âm lịch hàng năm. Trong đó, ngày 15 là ngày lễ chính. Song song với hoạt động tế lễ, nhân dân thập phương cũng thường tập trung về đền vào ngày lễ hội bởi theo quan niệm, ngày linh thiêng nhất, tốt nhất để dâng hương cửa đức ngài là ngày lễ hội.
Văn Đức Thánh Tản Viên
Bản 1:
Nhạc Phủ Thánh Đế Văn
Động sơn trang thượng ngàn thánh phủ
Đức Tản Viên đấng chủ sơn lâm
Nổi cơn gió cuốn ầm ầm
Di sơn đảo hải cứu dân thoát nàn
Cõi Nam bang nhờ ơn đại thánh
Đất Sơn Tây, Tản Lĩnh ngất cao
Đôi bên tả hữu bộ tào
Tam thập lục động ra vào quản cai
Chốn sơn lâm muôn loài cầm thú
Nhờ thánh ân Nhạc Phủ thần vương
Lại thêm bát bộ sơn trang
Dời non chuyển núi phép càng thần thông
Nay ngưỡng trông thánh vương soi xét
Độ thanh đồng khắp hết gần xa
Độ cho khang thái cửa nhà
Cây tài nhánh lộc nở hoa bốn mùa
Khắp thôn bản gió mưa hòa thuận
Cõi lâm sơn ngàn mận ngàn mơ
Đỉnh non gió thổi phất phơ
Suối reo thác đổ tiếng tơ chạnh lòng
Chúng đệ tử một lòng thành kính
Tiến văn trình thỉnh thánh giáng lâm
Chữ rằng thánh giáng lưu ân
Sơn trang lưu lộc thiên xuân thọ trường.
Bản 2: Tản Viên Sơn truyện cổ tích
Trước bày Đại Việt Hùng Vương
Dân an đệm chiếu bốn phương thuận hòa
Đâu đâu hát thái bình ca
Phong đăng bách cốc nhà nhà đủ no
Có người là con học trò
Tên là Nguyễn Tuấn thế lo làm tày.
Phòng văn án tuyết đêm ngày
Gạo châu củi quế thiếu rày lấy đâu
Đọa tài khắp một tay thâu
Sớm lo chẳng đủ lấy đâu ngày dùng
Tuổi vừa được chốn xuân nồng
Thất gia chưa có dụng phòng chống nao
Lên chơi rừng quế nguồn đào
Giang sơn chốn chốn thấp cao mọi ngàn
Chim kêu vượn hót làm đàn
Có nơi là Tản Viên Sơn hiệu lành.
Bốn bề non nước cực thiêng
Dẫu có thụy khí anh linh lạ thường
Cảnh thanh kỳ lạ khác thường
Non nhân nước trí bốn phương hữu tình.
Nhuộm tươi chân ngắt mầu xanh
Dương bằng một cảnh hồ thanh ngất trời
Hình hô một cảnh lâu đầi
Đỉnh cao đột ngột chống trời một phương.
Quần sơn chầu lại nên hàng
Thế lo đất phức ắt đường nơi đây.
Cảnh thanh đắc ý mừng thay
Lập làm lều tiện tháng ngày náu chơi.
Lâu la chiếu đất màn trời
Làng Nhan cửa Khổng chẳng đời chí xưa.
Sơn hào song viết thừa lưa
Thói quen nên kẻ tiều phu trí mầu
Ngày ngày bẻ được củi mau
Xăm xăm làng hạnh gạo châu đổi dời.
Đèn trăng quạt gió vẫn chơi
Hôm mai no đủ cầu gì thế gian.
Một ngày lên đỉnh Cao sơn
Nhìn xem sắc mộc thiên bạn lạ dường.
Cây cao chót vót sơn trường
Đàn lên tán lục rợp trương lạnh lùng.
Tần Hoàng xưa có sắc phong
Ơn vua chức trọng phù tùng uy nghi.
Hương xuân ngát nức tư bề
Nguyễn Lang thấy lạ đòi khi lo lường
Chữ rằng: trừ mộc khử ương
Tay cầm thiết phủ chém thương tồi tàn.
Ngả cây tiếng dậy lâm san
Chuyển lên kinh khủng thế gian hãi hùng.
Nguyễn Lang chẳng chuyển hình dung
Để khô làm củi dình phòng bán mai.
Ai hay là sự bởi trời
Bỗng đâu xui khiến có nơi hộ trì.
Thấy sao Thái bạch tử vi
Thần thông biển hiện một khi nên người.
Một ông lão tử tám mươi
Tay cầm tích tượng bởi trời sấy sa.
Thấy cây tươi tốt dầm dà
Nguyễn Lang hoài chém tồi pha thương này
Xăm xăm tích trượng cầm tay
Gõ vào cây ấy một giây lạ dường
Tự nhiên cây ngọn hồi dương
Dựng nên cây tốt tán trường xanh rờn.
Ngày sau Nguyễn Tuấn lại lên,
Thấy cây vặc vặc vẹn toàn như xưa.
Gẫm rằng sự lạ qua ưa
Cây này đã ngả hôm qua tan tành.
Một giờ ngọn lại tươi xanh
Thấy âu là có thần linh hộ trì.
Cây sao quái gở nhiều bề
Sự thì đã lạ thấy thì chẳng ngoa.
Tay cầm phủ việt lại pha
Chém cây ấy xuống ngã ra tan tành.
Một bên đứng nép hòa rình
Thấy ông Thái Bạch kim tinh đến gần
Liền hối tích trượng chân nhân
Gõ vào cây ấy chuyển vần lạ bao.
Dựng nên đột ngột xanh cao
Cây nên vặc vặc tơ hào chẳng ngoa.
Tán xanh cây tốt dầm dà
Thấy ông Thái Bạch tuổi già lu khu
Thấy trời có ý tựa cho
Nguyễn Lang thấy ý liền lo lời này.
Ắt là Trời, Phật tới đây,
Đè ông liền cướp được rày mừng sao.
Phật trên một tiếng cả cao:
“Kìa mày lấy gậy thì tao càng mừng
Đây hòa cứu tử độ sinh
Tự nhiên phúc đức bởi mình hòa ra.
Cứu dân độ quốc gần xa
Công cao đệ nhất người ta trọng dùng”.
Nói thôi dạy phép thần thông
Bụt liền thoắt biến về trong bảo đài.
Ác vàng xế bóng non đoài
Nguyễn Lang trở lại Sơn trai chốn nhà.
Ngày sau gánh cửi bên hà
Mục đồng kính nhưỡng âu ca chơi bời.
Vo ve tiếng địch vừa vui
Đã không thì nói vui chơi đêm ngày.
Nam thanh nữ tú làm bày.
Khi ca khi nói khi cười khi không.
Bảo nhau đã nức dậy đường
Hò reo tập trận Đinh Hoàng cờ lau.
Ngựa bò cờ nón voi trâu
Kèn loa tiếng trống đâu đâu dậy đường
Thuở ấy Thủy Tề Long vương
Có một nam tử là chàng Tiểu Long.
Phù sinh thơ dại trẻ trung
Rắn vừa đội lốt chơi rông lạc đường.
Trường giang tới bãi Tiêu Tương,
Trẻ thơ bài ấy lòng càng muốn coi.
Miên man lễn bãi đầu doi
Rắn liền thấy trẻ vui chơi lại gần.
Thế gian ai biết thủy quân
Làm chi ai biết thiên nhân Thủy Tề.
Tay cầm dùi mít liền bè
Đánh Tiểu Long chết tức thì bảo nhau:
“Đánh rắn đánh cho dập đầu
Kẻo hòa chàng ấy ngày sau trả thù.”
Để lên bãi cát nằm co
Tiểu Long hồn phách bơ vơ rụng rời.
Tình cờ đem để có nơi
Nguyễn Lang đến đấy ngược xuôi bao giờ.
Đông tây vắng vẻ bằng tờ
Bãi non tới xuống trời vừa tà dương.
Rắn liền nằm bãi Tiêu Tương
Như rồng uốn khúc, tới nhường lạ thay.
Nguyễn Lang tích trượng cầm tay
Gẫm rằng ta thử gậy này thấy nao.
Gậy thiên thần mới cho tao,
Thiêng liêng nhường ấy nhẽ nào được hay.
Ngày xưa người chữa được cây
Bây giờ ta chữa rắn thế nao.
Bèn cầm tích trượng gõ vào
Thần thông sao khéo lạ nào tự nhiên.
Rắn lại trương cất đầu lên
Hoàn hồn uốn khúc lại yêu vẹn toàn.
Cúi đầu quỳ lạy tạ ơn
Tiểu Long trở xuống thủy tiên tức thì.
Thần thông phút đến Thủy tề
Vua cha coi thấy lòng thì mừng thay:
“Con sao ba bốn hôm nay
Tìm hoài chẳng thấy là hay nơi nào?”
Tiểu Long lén lén tâu vào:
“Đi chơi lạc đến ngòi Tào thương thay.
Lân la đến chốn Sơn Tây
Bãi Tương ngàn Sở chốn nay hữu tình.
Một nơi là một khoe thanh
Giang sơn thành thị dường tranh mỹ mùi.
Cảnh kỳ dư ngất xuân đài
Chẳng ngờ là chốn ấy người phàm gian.
Chơi xuân đồng mục có đàn,
Thấy vui tôi muốn lên xem tới gần.
Lối thiêng trái dáng chân nhân
Nó ngờ là rắn hại dân bấy chầy,
Trẻ trung thờ dại chẳng hay
Nó liền đánh chết bỏ thây bên ngàn.
Có người là Tản Viên Sơn
Tên là Nguyễn Tuấn phép tiên ai tầy.
Thần thông tích trượng cầm tay
Hoàn sinh của Bụt ấy nay bao giờ.
Tài hiền tướng mạnh qua ưa
Chữa tôi lại sống tỉnh xưa lại hoàn.
Mới hay phúc bởi hoàng thiên
Rày tôi về tới Thủy tiên chốn nhà.
Lại xem thấy mặt mẹ cha”.
Long Vương thấy nói xót xa trong lòng.
Mừng con mở tiệc đền rồng
Thỉnh mời Nguyễn Tuấn đến cùng tạ ơn.
Sai tam bộ sứ Thủy tiên,
Tiểu Long hiển hiện cùng lên tới nhà.
Tiểu Long quỳ lạy trình qua:
“Tôi la thủy tộc kênh hà Long Vương.
Mục đồng ngày ấy làm thương
Ơn nhờ chữa được nghĩa càng cảm thay.
Cha tôi thỉnh xuống một giây
Đền rồng bẩm tạ ơn nay cho chàng.
Dầu cha cho bạc cho vàng
Sau là tiền vải vóc càng nhiều thay.
Thái hoa thung thúc đã đầy
Của ấy chẳng tày sách ước quốc gia.
Ước chi được nấy chẳng ngoa
Thiên vàn xin đức vua cha cho về”.
Dặn dò mọi nỗi vân vi
Đem nhau vừa xuống Thủy tề Long cung.
Vừa khi vua ngự đền rồng
Thành vàng báu ngọc lạ lùng nhiều sao.
Khắp đầy đài các cung cao.
Phủ lầu tượng vị đền cao ngàn tầng.
Long Vương cao ấy phán rằng:
“Người tiên thói ở ra lòng thế bay”
Tiểu Long được đội ơn này
Chữa tôi ngày trước, khi nay vừa hồi.
Nhân duyên ngõ nhẽ đôi người
Kết làm huynh đệ chưa đời chí xưa.
Vàng thì muôn nén lấy đi,
Bạc thì muôn gánh thái hoa vô vàn.
Lưu li hổ phách hô san
Trân châu mã nã đầy bàn mười mâm.
Báu yêu thức tốt dư trăm
Khiến người đưa đến sơn lâm cho chàng.
Nguyễn Lang vái tạ từ nhường:
“Cửa vua châu báu vàn muôn kênh hà.
Song le tôi khí chật nhà
Tôi xin sách ước quốc gia bấy chầy.”
Long Vương lòng chẳng thiết thay
Nửa cho, nửa lại tiếc rày chẳng cho.
Tiểu Long đến trước tâu vua:
“Tôi xin sách ấy vua cho ơn người”.
Long Vương nghe nói ngùi ngùi
Tố thư một cuốn đưa nay cho chàng.
Nguyễn Lang khấp khởi lòng vàng
Tức thì vái tạ Thánh hoàng trở ra.
Tiểu Long vừa bước đưa qua
Trượng phu bốn bề một nhà anh ba
Dặn dò sau trước một bề
Đầu đào báo lý chưa hề làm chi.
Giang sơn đối mặt bái từ
Người lên non Tản người về Thủy cung.
Nguyễn Lang được phép thần thông,
Ước chi được nấy trong lòng mừng thay.
Ước nên đài các đông tây
Ước nên châu báu chưa đầy chân chan
Ước nên thiên hạ bình an
Ước nên bốn bể phượng loan một nhà.
Ước nên phong vũ nhuận hòa
Được mùa bách cốc nhà nhà đủ no.
Ước nên thọ khảo muoont hu
Phúc nhà con cháu phúc nhà tiên ông.
Ước chi được nấy lạ lùng
Như trong ước muốn, như lòng ước xưa.
Thuở ấy Thủy tề giang hà
Ngường con lên trị quốc gia bấy chầy.
Sơn quân thấy vậy mừng thay
Bọn xưa chẳng phụ thường hay đi về.
Thuở ấy Hùng vương cung phí
Sinh được con gái tên là Mỵ Nương.
Tuổi vừa mười bốn phi phương
Tinh thần ngọc đúc Thọ Dương ai tày,
Má hồng đa ngọc hây hây.
Ngờ thần tiên nữ xuống rày đài dương.
Nương long chúm chím tuyết sương
Tiết mai dường thuở thường thường mới đây.
Tốt thay điệu điệu lưng ong,
Mình thì chật bức quần hồng vừa vui.
Thong dong ngọc thốt miệng cười
Chân đi thoắt thoắt khoan thai dịu dàng.
Nết na tư chất khác thường
Hình dung yểu điệu nhan hồng thuyền quyên.
Càng nhìn càng một hữu duyên,
Hà sơn khả vi hương tiên khôn bằng.
Da ngà tóc phượng khác hằng
Thế gian ai thấy là chăng phải lòng.
Một nơi là một lạnh lùng
Ngọc lành cao giá đợi cùng chốn sang.
Tiến đồn dậy khắp lân bang
Đã nên một gái mọi dường con cha.
Đầu cài trâm hốt ngọc hoa
Của bằng các bạn hằng nga tốt lành.
Tiến đồn mọi quận mọi thành.
Thục vương muốn kết ả anh một nhà.
Song le chẳng gả chồng xa
Hùng Vương làm hội quốc gia bầy chầy.
Khắp hòa thiên hạ đông tây
Mặc cho con kén ai nay có tài.
Dậy dường đồn nức mọi nơi
Trông xem mừng gặp duyên trời dẩy dun.
Ai ai cũng đến cửa son
Mỵ Nương hợp ngọc lòng còn hồ nghi.
Chưa lòng kết tóc phu thê
Thế gian cùng đến đều thì ước ao.
Long Vương lên đỉnh án cao
Tìm chàng họ Tuấn kết giao bấy chầy,
Đôi người khấp khởi mừng thay
Đền cao gác rộng hây hầy ỷ la
Tiệc bày mỹ vị xướng ca
Nghênh hôn mừng rỡ thật là vui thay.
Chả lân thịt phượng khắp bày
Mâm đầy ngọc thực, chén đầy quỳnh tương.
Vang lừng một đám phong quan
Sơn Tinh cùng chúa Long Vương khuyên mời.
Hùng Vương làm hội tháng trời
Tiến đồn vang nức đòi nơi xa gần.
Long Vương cùng chúa Sơn quân
Đôi vua nghe tiếng mười phân ra mừng.
Vội vàng mở tiệc tưng bừng
Đôi vua về núi tếch rừng một khi.
Trường An thẳng tới làm kỳ
Thấy Hùng Vương hội nhiều bề mừng thay.
Xăm xăm tới trước tâu bày:
“Đôi tôi kén rẻ phen này xứng chăng?
Chúng tôi tú pháp tài năng
Ngõ đây Nguyệt Lão hợp trăng tình cờ”.
Long Vương phun nước liền mưa
Sơn quân đứng núi một giờ mọc lên.
Thuở ấy thủy tộc thủy tiên
Trong lòng lấy hột xảy liên từ đình.
Đặt bày muôn khóm thụy tinh
Một dây liền mọc lá cành nở ra.
Nên cây tươi tốt dầm dà
Trăm hoa đua nở dà dà cành xanh.
Thuở ấy họ Tuấn Sơn quân
Tây cầm phủ việt lấy cành chém cây.
Đòi nơi lá rụng hoa rơi,
Lại lấy tích trượng cầm tay vội vàng.
Gõ vào ngay cây cam đường
Tự nhiên cây lại hồi dương tức thì.
Quả hoa lại kết liền chi
Cây nên vặc vặc tư bề hồi dương.
Chồi lá lá ngọc cành vàng
Hùng Vương xem thấy lòng càng mừng thay.
Đôi người thi phú đều hay
Hùng Vương mới nói lời này phán ra:
“Cây cao hòa có một hoa
Duyên ai nấy gặp biết hòa làm sao
Đôi người dạ cũng đều yêu
Tài khôn nhường ấy biết nào phụ ai
Song le duyên phận mặc trời
Lòng lo lưỡng lự mở lời ấy khôn.
Nhân vì nhà có một con.
Bây giờ dụng sự kết hôn gả chồng.
Mặc ai sính lễ việc dùng
Đặt bày trước mặt sân rồng đến sơ
Ấy là phận đẹp duyên ưa
Nhân duyên mặc lão tình cờ mặc ai.
Đôi vua bái tạ trước ngai
Về nhà sắm sửa sính tài kíp thay.
Sơn quân sách ước cầm tay
Ước nên vàng bạc của đầy dư muôn.
Trâu bò gà lợn đến tuôn
Sẵn sàng bày đặt trước đền hư không.
Mời khuyên yến ẩm đền rồng
Mỵ Nương trước lấy về cùng Tản Viên.
Long Vương sau đến lỡ tin
Thẹn thò xấu mặt lòng càng hận thay.
Bèn liền chốc ý phân tây
Ơn xưa chẳng đoái lại hay oán thù.
Thời vừa tháng bảy đầu thu
Kim phong hải khẩu gió mưa bay dời.
Tiết sang vừa chịu lệnh trời
Cầm quyền Bạch đế đòi nơi lạ dường.
Thuở ấy Thủy Tề Long Vương
Hận vì chẳng được Mỵ Nương kết nghì.
Vãng lai tin tuyệt đi về
Giao lân nào có ỏ ê tới lòng.
Nẻo hòa dạ khác thì vong
Long Vương sắm sửa thủy cung binh quyền.
Hận rằng lên đánh Tản Viên
Chư quân eo óc nước dâng lên ngàn.
Kình nghê sấu vực giương vây
Rắn rồng uốn khúc rồng bay một đoàn.
Nước dâng lai láng đầy ngàn
Mưa tuôn bão giật sấm ran đùng đùng.
Nhị hà dòng nước mênh mông
Kình nghê thổi gió rắn rồng phun mưa.
Đua nhau thừa tướng trường xà
Miết lân ngư trượng kể dư muôn vàn.
Giương vây vùng vẫy tiến ngàn
Uy ta điện chớp sấm ran lôi đình.
Tam đầu cửu vĩ tiên binh
Đến Từ Liên huyện sự tình nghỉ ngơi.
Thấy bà lão mẫu tốt tươi
Một mình xuống tắm thửa nơi giang bà.
Long Vương thử triệu niên nga
Không dưng bắt lấy lão bà thảm thương.
Chẳng ngờ phải mẹ vua Chèm
Ra đi đến Bắc trấn biên hòa về.
Mình cao nghìn trường chín ghê
Theo xuống hòa tắm thông tri đâu là.
Bởi về thấy rằng vắng mẹ già
Chăng ngờ thủy tộc bắt hòa chăng thương.
Ông Chèm báo oán Long Vương
Lưới giăng ngăn khúc bến giang đón về.
Thuở ấy Long tộc Thủy tề
Đem quân lên đánh Ba Vì Tản Viên.
Sơn quân vùng chúa Thủy tiên
Đôi vua ra trận ấy liền bảo nhau:
“Ấy vua Thủy tộc đi đâu
Mặt trăng mặt vực thấy nhau chẳng chào.
Hay là chàng có lòng nào
Đem quân rồng rắn lên ngàn làm chi?”
Thưa rằng: “Bởi vua Ba Vì
Lừa nhau làm sự vô nghì trước sau.
Hơn lòng lấy cướp vợ nhau
Chăng vì bầu bạn dạ hầu bất nhân.
Thấy chàng làm chúa Sơn quân
Ra lòng khinh bạc mười phần sai ngoa.
Bạn xưa sao chẳng thực thà
Cho nên thủy tộc kênh hà cất binh.
Nhọc lòng văn vũ triều đình
Cho nên lỗi đạo đệ huynh bởi người.”
Sơn quân hòa nói hòa cười:
“Đôi ta cùng đội ơn trời giáng sinh.
Chàng đã ra dạ tương tranh
Cho nên lỗi đạo đệ huynh chăng hòa”.
Ắt là sơn thủy nên xa
Sơn quân cũng chúa kênh hà tranh khi.
Sơn quân những tướng hùng uy
Khi hươu hùng hổ làm vì tiến ra.
Chư quân đối địch giang hà
Hươu Tần Khi Sở rày đà nên công.
Long Vương đội lấy lốt rồng
Phun mưa thổi gió đùng đùng bốn phương.
Phong vân một trận lạ dường
Kình nghê sấu vực quân càng nhiều thay.
Cá mừng gặp hội rồng mây
Nhẩy qua cửa Vũ một giây nên rồng.
Đua nhau những trí anh hùng
Điểu phượng theo rồng, phù chú lấy sang.
Đôi bên giao chiến vội vàng
Non tiên hổ báo theo chàng long ngư.
Đánh nhau vừa được ba giờ
Long Vương hóa phép giục ba quân vào.
Biến làm đội rác râu tào
Nổi lên mặt nước tiến vào đột xung.
Sơn quân gẫm được sự lòng
Trúc thưa trúc mật tây đông tứ bề.
Đôi bên đều cũng uy nghi
Lạc hay chế ngự ai thì thua ai.
Bảo nhau chém rác quân tào
Đều thì có máu, đều thì lạ thay,
Trúc tên bắn phải mưa bay
Kình nghê cá rắn thác đầy làm nơ.
Vốn xưa đã được sách trời
Thủy Tinh thua xuống thuở nơi giang hà.
Ba quân hồi khải hoàn gia,
Sơn trường lấy gỗ trở ra tiến về.
Thủy quân nẻo cũ quen về
Ngày sau tức thì đến xã Từ Liêm.
Tiên binh xung lưới ông Chèm
Ai hòa chẳng được càng thêm lo lường.
Hội đồng cá rắn biên giang
Ông Chèm ra thấy lòng càng mừng thay.
Trở ơn thân mẫu khi nay
Dạng chân sông cả, đôi tay vơ quàng.
Bủa vây mọi khúc biên giang
Rắn rồng bắt lấy bật ngang vào đồi.
Long Vương mất vía rụng rời
Đường về chẳng được mặc người khôn qua.
Long Vương hải tàng còn xa,
Mở rèm cửa Hát luồn qua chu kiều,
Năm năm thường một neo chèo
Đem quân lên đánh Ba Vì Tản Viên.
Sơn quân thấy bạn chăng hiền
Lại lấy sách ước ra nguyền một giây.
Chước chi tao ước được mày
Chúa Tiên tinh ước một giây lạ dường.
Long Vương thủy tộc ba đầu
Ông Đàm ông Cột ông Lương ông Chài.
Song le mạnh chẳng qua trời
Sách thiêng chư tưởng rụng tời hồn kinh.
Tự nhiên lên núi nộp mình
Thần thông biến hóa hiện hình càng ghê.
Đều thì cá rắn chín ghê
Mình dài trắm thước uy nghi lạ lùng.
Rắn thiêng hóa phép nên rồng
Sơn Tinh thương tích trong lòng dây dây.
Nhớ xưa hai nghĩa chẳng rời
Tùy hàng bầu bạn mong hoàn lại tha.
Hiện nên tướng cả lòng xà
Cức cung bách bái nằm ca tiền đường.
Thuở ấy Sơn quân phán rằng
Tiếc thay những tướng tài hiền Long quân
Đều hay hộ quốc cứu dân
Huy hòa bốn bể xa gần được ơn.
Lại đi đánh trả Thủy tiên
Sơn quân có được hoàng thiên hộ trì.
Bản 3: Đức Thánh Tản Viên Chân Kinh
Chí tâm phục mệnh lễ
Tản Viên Sơn thánh
Sơn quốc chúa đại vương
Dực bảo trung hưng
Thượng đẳng tối linh thần
Thái Bạch, Long Vương
Ban mộc tinh, bí pháp truyền
Ban phúc, phù công danh
Cứu chúng sinh chi khổ nạn
Thần trú lưu hành, phổ tiêu bất thường
Hồng thủy phi diệt, khai trừ thủy cảnh
Thiên đạo vạn thông, cảm hữu can chi
Xá tống hỏa quan, xích thư sở cáo
Tứ sinh lục đạo. Hữu cảm tất phù
Tam giới thập phương vô cầu bất ứng
Lăng xương cốt cách ngọc tinh thần
Mang dấu rồng thiên xuống hạ trần
Thái Vĩ cùng tiên trên Thượng giới
Sinh ra Thánh Tản tại nước Nam
Nam quốc Tản Viên Sơn thánh
Hương hỏa hiển thánh
Đại bi – Đại nguyện – Địa thánh – Đại từ
Khai sơn hộ quốc
Lịch ứng thượng đẳng tối linh thần
Đệ nhất bách thần
Nam thiên thánh tổ thiên tôn.
TẢN VIÊN SƠN THÁNH VÀ TÍN NGƯỠNG TỨ PHỦ
Tục truyền Đại Vương sinh ngày rằm tháng giêng ngày mùng 6 tháng 11 thì hóa.Cùng với Phù Đổng Thiên Vương Chử Đạo Tổ Thánh Mẫu Phủ Dày.Ngài là vị Thánh đứng đầu trong bốn vị Thánh bất tử của dân tộc ta.
Các triều đại kính trọng gia phong Đại Vương hiệu VIết Tản Viên Hiệu Thánh Khuông Quốc Hiệu Ứng Vương hưởng hương khói cúng tế không dứt liệt vào hàng Quốc tế
xem như vị đệ nhất phúc thần của nước Việt ta.
Dân gian tôn kính, kêu ngài Tản Viên Sơn Thánh, Đệ Nhất Thượng Đẳng Phúc Thần, Đệ Nhất Bách Thần, Nam Thiên Thánh Tổ, là Thần của các Thần nước Nam.
Trong tín ngưỡng Tứ Phủ
Hiện nay trong hệ thống thờ tứ phủ có 4 vị mẫu cai quản các Thiên, Địa, Nhạc, Thoải. Bên cạnh các Mẫu có 3 vị Vua cha được thờ làm thần chủ các phủ là Ngọc Hoàng Thượng Đế (Thiên Phủ), Bát Hải Động Đình (Thoải Phủ), Bắc Âm Phong Đô Nguyên Thiên Đại Đế (Địa Phủ). Như vậy còn khuyết vị trí vua cha Nhạc phủ.
Vị trí Vua cha Nhạc phủ là có, được thỉnh đến trong văn công đồng:
Tận hư không giới thánh hiền
Dục giới sắc giới chư thiên đều mời
Vua Đế Thích quản cai Thiên chủ
Vua Ngọc Hoàng Thiên phủ chi tôn
Dương phủ Ngũ Nhạc thần vương
Địa phủ thập điện minh vương các tòa
Dưới Thoải phủ giang hà ngoại hải
Chốn Động Đình Bát Hải Long Vương…
Ngũ Nhạc Thần Vương là ai?
Theo truyền thuyết Tản Viên Sơn Thánh đã đi khắp nơi, dựng nhiều hành cung trên đất Việt, hệ thống hành cung của Tản Viên được chia làm 5 khu chính như sau:
+ Thượng cung: là đền Thượng nằm trên đỉnh Tran của núi Ba Vì
+ Đông cung: là Đền Và ở cạnh thị xã Sơn Tây, cạnh Sông Hồng
+ Tây cung: gồm đền Chung trên núi Chàng Rể và đên Hạ ở bờ hữu sông Đà, đối diện với động Lăng Xương, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ – Nơi thờ đấng sinh thành Ngài là cha Nguyễn Cao Hạnh và mẹ Đinh Thị Đen.
+ Nam cung: là đền Ao Vua
+ Bắc cung: là đền Thính ở Tam Hồng – Yên Lạc – Vĩnh Phúc. (Thính là đọc tranh âm của Thánh). Ngoài ra còn có Bắc cung thượng là đền Tranh ở Trung Nguyên – Yên Lạc – Vĩnh Phúc.
Vậy thì Ngũ Nhạc Thần Vương cũng có thể hiểu chính là Tản Viên Sơn Thánh, trong đó Ngũ ứng với 5 hành cung của Đức Thánh Tản để trấn giữ vùng núi Tản, chứ không phải để chỉ 5 vị thần như cách hiểu trong Đạo Giáo. Điều này cũng giống như Vĩnh Công được phong làm Vua cha Bát Hải Động Đình, trong đó bát ở đây là chỉ 8 cửa biển nước Nam mà trước kia Vĩnh Công đã lập nên chiên công đánh giặc ngoại xâm, chứ không phải bát chỉ con số 8, ứng với 8 vị Long Vương trong Đạo Giáo.
Ngọc phả tại đền Và kể về Đức Thánh Tản có đoạn: “Vua Hùng gia phong cho Sơn Thánh làm Nhạc Phủ Kiên Thượng Đẳng…” . Như vậy rõ rang Tản Viên Sơn Thánh là Thần Vương của Nhạc phủ trong tín ngưỡng Tứ phủ. Ngọc phả lại có đoạn; “… từ đó phụng mệnh Hoàng Đế cùng với Tứ phủ công đồng ở trên hải đảo đi tuần xét mọi việc trong nhân gian”. Như vậy đây là một bằng chứng logic nữa để thấy rằng Vua cha Nhạc phủ trong tín ngưỡng Tứ phủ chính là Tản Viên Sơn Thánh.
Việc đưa Đức Tản Viên Sơn Thánh trở thành Đức Vua Cha của Nhạc Phủ là hoàn toàn hợp lý vì Đức Thánh Tản chính là Cha của Mẫu Thượng ngàn, tức La Bình Công Chúa. Như chúng ta đã biết, Mẫu Liễu Hạnh là Công Chúa,là con của Ngọc Hoàng Thượng Đế. Mẫu Thủy Cung là Công Chúa, con của Vua Cha Bát Hải Động Đình. Mẫu Thượng Ngàn là La BÌnh Công chúa vốn là con của Tản Viên Sơn Thánh, vậy thì Tản Viên Sơn Thánh ở ngôi vị Vua Cha Nhạc Phủ là hoàn toàn hợp lý về mặt logic.
Tín ngưỡng Tứ Phủ công đồng hình thành ở vùng Đồng Bằng sông Hồng, là vùng đất phía Đông do dòng dõi Lạc Long nắm giữ. Có lẽ vì thế mà vai trò của Nhạc Phủ, với thần chủ là Tản Viên Sơn Thánh, thuộc dòng tộc phía Tây (Thục) đã bị mờ nhạt đi trong tín ngưỡng này. Để tín ngưỡng Tứ phủ trở thành tín ngưỡng chung của người Việt ở đồng bằng cũng như vùng núi, để tram người con cùng một bọc đông bào, chung cha chung mẹ thờ đúng tổ tiên của mình thì cần xác nhận vị tôn chủ Nhạc Phủ của Tản Viên Sơn Thánh.
+ Ngày 17/1: Tiệc Cô Tân An
Đối với nhiều du khách thập phương sau khi về đền Bảo Hà lễ Quan Hoàng Bảy thì thường ghé thăm đền Cô Bé Tân An Đền cô được dựng thờ bên kia sông đối diện đền Quan Hoàng Bảy
Vậy Cô Bé Tân An là ai thần tích và đền thờ cô bé Tân An ở đâu trong bài viết này xin gửi tới bạn tổng hợp một số thông tin về cô
Dưới suối khe lững lờ nước chảy
Ông hổ gầm vang dậy sơn lâm
Nhớ xưa có giặc ngoại xâm
Nữ trung anh kiệt dẹp quân bạo tàn
Cô Bé Tân An là ai ?
Cô Bé Tân An được cho là hiện thân của Cô Bé Thượng Ngàn trên đất Bảo Hà. Tương truyền Cô Bé Tân An có tên húy là Hoàng Bà Xa, cô là con của Quan Hoàng Bảy. Cô đã cùng cha có công chinh phạt giặc ác, giữ yên bờ cõi, được cư dân vùng Bảo Hà và Khau Ban (địa danh Văn Bàn cổ xưa) nhang khói phụng thờ
Thần Tích Cô Bé Tân An
Theo sử chép, cuối đời Lê ( năm 1740- 1786), các châu Thủy Vĩ Văn Bàn và nhiều nơi khác thuộc phủ Quy Hòa luôn bị giặc Tàu tràn sang cướp phá. Trước tình hình đó, Triều đình cử danh tướng tên là Nguyễn Hoàng Bảy đưa quân đội tiến dọc sông Thao, đánh đuổi giặc cỏ, giải phóng Khau Bàn và xây dựng Bảo Hà thành căn cứ địa lớn. Tương truyền rằng, khi lên trấn ải vùng này, tướng quân họ Nguyễn đã mang theo con gái là Nguyễn Hoàng Bà Xa cùng đi.
Trong cuộc kháng chiến đánh giặc giữ vùng biên cương, Nguyễn Hoàng Bà Xa luôn là cánh tay đắc lực, sát cánh cùng cha đánh đuổi quân giặc. Bà còn chiêu dụ các thổ ty, tộc trưởng, luyện binh sĩ, rèn rũa khí giới, dự trữ lương thảo, chữa bệnh cho dân nghèo… Sau khi chiến thắng giặc, bà lại cùng dân khai khẩn đất hoang, khai mỏ, để xây dựng quê hương giàu đẹp. Bà là người yêu nước thương dân, nên sau khi mất ” Hương thơm còn lẫy lừng ánh hòa quang sáng tỏ muôn nơi”. Nhân dân trong vùng đã lập đền thờ để tưởng nhớ công lao to lớn của bà.
Nguyễn Hoàng Bà Xa còn được gọi là cô Tân An hay cô Bảy Tân An, hầu cận quan Hoàng Bảy chứ không phải là cô Bảy trong Tứ phủ thánh cô.
Một dị bản khác về đền Cô Bé Tân An còn lưu truyền như sau: Có một số cụ đồng cựu cho rằng đền Cô Tân An có từ trước khi cha con Ông Hoàng Bảy lên trần giữ vùng biên cương này. Ngày đó nơi đây chỉ là một miếu nhỏ thờ Mẫu Thượng Ngàn với hiện thân là La Bình Công Chúa. Đây là nơi cha con Quan Hoàng Bảy thường xuyên đến lễ mỗi khi xuất quân chiến đấu. Sau khi cha con Quan Hoàng Bảy mất, nhớ công ơn cô con gái của Quan Hoàng Bảy Nguyễn Hoàng Bà Xa nên nhân dân đã đưa bà vào phối thờ vào đền. Trải qua các thăng trầm của lịch sử, ngôi đền trở thành ngôi đền thờ chính của Nguyễn Hoàng Bà Xa.
Văn Cô Bé Tân An
Đất Tân An địa linh chung tú
Châu Văn Bàn cảnh thú sơn trang
Non xanh nước biếc trăng ngàn
Thỉnh mời Cô Bé Tân An ngự về
Thú non tiên bốn bề sông núi
Dấu sơn hà tụ hội khí thiêng
Tân An cổ tích lưu truyền Tiếng thơm
Cô Bé khắp miền gần xa
Có phen chơi Bảo Hà Trái Hút
Dạo tiếng đàn thánh thót nhặt khoan
Chiềng Ken, Tân Thượng, Tân An
Nậm Tha, Nậm Rạng, Làng Giàng, Khánh Yên
Ngàn núi đá nọ miền sơn thuỷ
Ngôi đền thờ tú khí danh lam
Trăm hoa đua nở trên ngàn
Mẫu đơn đua sắc phong lan khoe màu
Bầy chim non bên lầu ríu rít
Cảnh rừng chiều mờ mịt sương giăng
Non xa thấp thoáng bóng trăng
Ngàn mây lấp ló cung Hằng nhởn nhơ
Dưới suối khe lững lờ nước chảy
Ông hổ gầm vang dậy sơn lâm
Nhớ xưa có giặc ngoại xâm
Nữ trung anh kiệt dẹp quân bạo tàn
Danh thắng tích Tân An thiên cổ
Dẫu biến dời vẫn tỏ sử xanh
Thượng ngàn ghi dấu oai linh
Chữ tâm ẩn hiện phân minh tỏ tường
Chữ trung hiếu cương thường gìn giữ
Nghiệp tham sân tân khổ còn đâu
Chữ tâm linh ứng nhiệm mầu
Cải tà quy chính trước sau mới là
Khắp bốn phương gần xa nô nức
Chư thanh đồng đệ tử con nhang
Đèn hương võng tía quạt vàng
Thỉnh mời cô bé đào đàn chứng minh
Nay đệ tử văn trình tấu đối
Dốc lòng thành sám hối cửa thiêng
Thỉnh Cô trắc giáng bản đền
Khuông phù đệ tử thiên niên thọ trường
Phép linh ứng ra tay tế độ
Nguyện vì đời cứu khổ độ mê
Đền thờ Cô Bé Tân An
Hiện nay, Đền Cô Tân An II (đối diện với đền Quan Hoàng Bảy qua dòng sông) và Đền Quan Hoàng Bảy có chung một Ban Quản lý của UBND xã cử và hai đền đều được tổ chức chung một lễ hội. Như vậy, nhìn theo khía cạnh này, thì đền Cô Tân An II có tính chính tắc hơn bởi tính pháp lý của chính quyền. Đền Bảo Hà hợp cùng Đền Cô Tân An II đã trở thành “Quần thể di tích Thần vệ quốc Hoàng Bảy” là địa chỉ du lịch tâm linh của hàng vạn lượt du khách mỗi năm.
Khánh tiệc Cô Bé Tân An
Ngày tiệc Cô Bé Tân An vào ngày 17 tháng 1 âm lịch
” Đất Tân An địa linh chung tú
Chầu Văn Bàn cảnh thú sơn trang
Non xanh nước biếc trăng ngàn
Thỉnh mời Cô Bé Tân An ngự về
Thú non tiên bốn bề sông núi
Dấu sơn hà tụ hội khí thiêng
Tân An cổ tích lưu truyền
Tiếng thơm Cô Bé khắp miền gần xa…”
+ Ngày 19-21:Tiệc Tứ Vị Vua Bà
Tứ Vị Thánh Nương Là Các Bà Thánh Mẫu Được Thờ Phụng
Ở Khắp Vùng Duyên Hải Nước Ta Và Ở Các Tỉnh Đồng Bằng
Mọi truyền thuyết đều tập trung vào bà Hoàng hậu nhà Tống và vào thời điểm Cửa Cờn Xứ Nghệ
Tôn hiệu ghi trong các thần tích thường thấy là :
- Đại Càn tứ vị Thánh mẫu ( Ninh Bình )
- Đại Càn quốc gia Nam Hải Tứ Vị Thánh Nương ( Hà Nội )
- Đại Càn quốc gia Nam hải tam tòa tú vị hồng thánh nương đại nương ( Nam định )
- Nam Việt Tống triều quốc mẫu tứ vị hồng nương Càn hải linh từ ( Hà Nam )
- Tứ thánh miếu sự tích ( Bắc Ninh )
Dưới đây là một số sự tích bằng cách kết hợp nhiều cách kể của dân gian chứ không theo một thần tích nào
----------------------------------------------------------------------
Bản 1
Năm 1276 quân Nguyên Mông ồ ạt tấn công Nam tống khiến hàng vạn quân Tống bị đánh tan
Tháng 1 / 1279 , quân Nguyên tấn công căn cứ cuối cùng của quân Nam Tống
Trong lúc nguy khốn Thái hậu và các công chúa nhà Tống xuống thuyền chạy về phía Quảng Đông
Nhưng gặp gió mạnh thuyền bị đắm mọi người đều chết.Lúc đó bỗng xuất hiện Rồng vàng tới hộ giá mẫu hậu
Và ba vị công chúa trôi dạt tới biển Cờn Hải và được vị sư già chùa Quy sơn cứu sống và trú ngụ tại đó
Sau một thời gian trong chùa bống có nhiều điều dị nghị về vụ sư già với Tống Hậu
Vị sư gia này không biện bạch được bèn khấn Phật và nhảy xuống biển tự vẫn
Mẫu hậu và ba vị công chúa thấy vị sư già vì mình mà chịu oan khuất cũng liều mình nhảy xuống biển chết theo xác của họ dạt vào cửa Cờn Hải.Họ hiển linh và được dân làng lập đền thờ và phong là " Nam Hải Phúc Thần "
Cai quản 12 cửa biển.Từ đó phàm những người đi biển đều đến cầu đảo Tứ vị Thánh Nương
Sau này vua Trần Nhân Tông Lê Thánh Tông đi chinh phạt giặc Chiêm và ở phương nam theo đường biển được Tứ Vị Thánh Nương hiển linh và trợ giúp . Sau khi thắng trận trở về các vua Đại Việt đều lễ tạ ơn phong thần
"Quốc mẫu Vương Bà Tứ Vị Thượng Đẳng Thần "Và "Đại Càn Thánh Nương Quốc Gia Nam Hải Tứ Vị Thánh Nương thượng Đẳng Thần "Sự kiện này được sách "Việt Điện U linh" Có Lý Tế Xuyên chép . Tuy nhiên trong sách cũng có những ngọc phả thần tích huyền tích huyên thoại truyền miệng có sự khác nhau về Tứ vị Thánh Nương
Ngoài Tống Hậu còn ba vị kia là ai ? Công chúa Người hầu Vua Đế Bình
Tục thờ Tứ Vị Thánh Nương hiện rất phổ biến ở nhiều làng người Việt ven biển từ Bắc vào Nam ngoài ra còn thấy ở các làng ven biển Trung Bộ.Tuy nhiên tục thờ này phổ biển nhất là miền biển Trung Bộ.Mà trung tâm là Đền Cờn ( Nghệ An ) Theo Ninh Viết Giao ngoài đền Cờn còn có hơn 30 làng khác nữa ở Quỳnh Lưu ( Nghệ An ) thờ Tứ Vị Thánh Nương . Riêng huyền Hoàng Hóa ( Thanh Hóa ) cung có 20 làng thờ Tứ Vị Thánh Nương dưới dạng thờ Tống Hậu Thiên Hậu
Ở Quang Nam - Đà Nẵng tục thờ Tứ Vị Thánh Nương rất phổ biến hầu như làng nào cũng có tuy nhiên ít khi có miếu thờ riêng bà.Như trường hợp làng Mỹ Khê gọi là Miếu Cả còn phần lớn là phối thờ với các vị thần khác và được gọi với cái tên là Bà Giàng Lạch tức vị thần chủ sông biển
Sơ lược về Tứ Vị Thánh Nương
Tứ Vị Thánh Nương là các bà Thánh mẫu được thờ phụng ở khắp vùng duyên hải nước ta , và ở các tỉnh đồng bằng . Mọi truyền thuyết đều tập trung vào bà Hoàng hậu nhà Tống và vào thời điểm Cửa Cờn Xứ Nghệ . Tôn hiệu ghi trong các thần tích thường thấy là:
– Đại Càn tứ vị Thánh mẫu ( Ninh Bình )
– Đại Càn quốc gia Nam hải tứ vị thánh nương ( Hà Nội )
– Đại Càn quốc gia Nam hải tam tòa tú vị hồng thánh nương đại nương ( Nam định)
– Nam Việt Tống triều quốc mẫu tứ vị hồng nương Càn hải linh từ ( Hà Nam )
– Tứ thánh miếu sự tích ( Bắc Ninh )
Truyền thuyết về Tứ Vị Vua Bà
(Trích trong cuốn “ Đạo mẫu Việt Nam ” )
Năm 1276 quân Nguyên Mông ồ ạt tấn công Nam tống khiến hàng vạn quân Tống bị đánh tan . Tháng 1 / 1279 , quân Nguyên tấn công căn cứ cuối cùng của quân Nam Tống . Trong lúc nguy khốn , Thái hậu và các công chúa nhà Tống xuống thuyền chạy về phía Quảng Đông nhưng gặp gió mạnh thuyền bị đắm , mọi người đều chết . Lúc đó , bỗng xuất hiện Rồng vàng tới hộ giá mẫu hậu và ba vị công chúa trôi dạt tới biển Cờn Hải và được vị sư già chùa Quy sơn cứu sống và trú ngụ tại đó .Sau một thời gian trong chùa bống có nhiều điều dị nghị về vị sư già với Tống Hậu . Vị sư gia này không biện bạch được bèn khấn Phật và nhảy xuống biển tự vẫn . Mẫu hậu và ba vị công chúa thấy vị sư già vì mình mà chịu oan khuất cũng liều mình nhảy xuống biển chết theo , xác của họ dạt vào cửa Cờn Hải . Họ hiển linh và được dân làng lập đền thờ và phong là ” Nam Hải Phúc Thần ” cai quản 12 cửa biển . Từ đó phàm những người đi biển đều đến cầu đảo Tứ vị Thánh Nương .
Sau này , vua Trần Nhân Tông , Lê Thánh Tông đi chinh phạt giặc Chiêm và ở phương nam theo đường biển được Tứ Vị Thánh Nương hiển linh và trợ giúp . Sau khi thắng trận trở về , các vua Đại Việt đều lễ tạ ơn phong thần ” Quốc mẫu Vương Bà Tứ Vị Thượng Đẳng Thần ” và ” Đại Càn Thánh Nương Quốc Gia Nam Hải Tứ vị Thánh Nương Thượng Đẳng Thần ” Sự kiện này được sách ” Việt Điện u linh ” có Lý Tế Xuyên chép .
Đại Việt sử ký toàn thư chép về sự kiện này như sau: “(Hưng Long) năm thứ 19 (1311)… Mùa đông, tháng 12, vua thân đi đánh Chiêm Thành, vì chúa nước ấy là Chế Chí phản trắc… (Hưng Long) năm thứ 20 (1312)… Mùa hạ, tháng 5, dụ bắt được chúa Chiêm Thành Chế Chí đem về… Tháng 6, vua từ Chiêm Thành về (đến kinh đô)… Lập đền thờ thần ở cửa biển Cần Hải. Trước đây, vua đi đánh Chiêm Thành, đến cửa biển Cần Hải (trước là Càn, tránh tên húy đổi là Cần), đóng quân lại, đêm nằm mơ thấy một thần nữ khóc lóc nói với vua: “Thiếp là cung phi nhà Triệu Tống, bị giặc bức bách, gặp phải sóng gió, trôi giạt đến đây. Thượng đế phong thiếp làm thần biển đã lâu. Nay bệ hạ mang quân đi, thiếp xin giúp đỡ lập công”. Tỉnh dậy, vua cho gọi các bô lão tới hỏi sự thực, cho tế, rồi lên đường. Biển vì thế không nổi sóng. (Quân vua) tiến thẳng tới thành Đồ Bàn, bắt được (chúa Chiêm) đem về. Đến nay, sai hữu ty lập đền, bốn mùa cúng tế”(3).
Trong xã hội phong kiến khi con người vẫn còn bị chi phối mạnh bởi đức tin ở lực lượng siêu nhiên (thánh, thần, phật, mẫu…) thì việc hành lễ ở đền thờ tứ vị thánh nương là thường tình và là một biện pháp chính trị khôn ngoan. Qua câu chuyện về giấc mơ của nhà vua, nhà vua muốn truyền thông điệp đến các tướng lĩnh, quân binh rằng chuyến chinh phạt này không những được bách thần trong nước phù trợ mà còn được cả các vị thần đế vương, hoàng thái hậu ngoài nước trợ giúp, tất sẽ giành chiến thắng. Điều ấy có giá trị như một sức mạnh tinh thần cổ vũ tướng sĩ dấn thân vào trận. Kết cục, cuộc chinh phạt đã đạt được mục tiêu nhà vua đặt ra. Và việc xét thưởng công trạng, trong đó có cả ân thưởng những vị thần phù trợ cho cuộc chiến thành công, cũng là một biện pháp khôn ngoan của vua chúa dưới thời phong kiến quan tâm quản lý cả các vị thần mà thực chất qua đó nhằm tăng uy quyền nhà vua và lấy lòng tin ở dân chúng. Đền thờ tứ vị thánh nương được nhà nước phong kiến trung ương ban tặng sắc phong ghi nhận công trạng “Đại Càn quốc gia Nam Hải tứ vị thánh nương”, cấp tiền bạc sửa sang, xây dựng khang trang, nhờ đó mà danh tính của vị thần thờ trở nên linh thiêng trong tâm thức của người dân.
Một chi tiết rất đáng quan tâm là trong giấc mơ của nhà vua, Dương Thái Hậu nhà Nam Tống cho vua biết rằng: “Thượng đế phong thiếp làm thần biển đã lâu”. Trong tín ngưỡng của người đi biển, cá voi còn gọi là Ngư Ông là vị ân nhân, vật cứu hộ, phúc thần của dân đi biển. Đền Cờn/càn thực chất thuở xa xưa, thoạt kỳ thủy là nơi thờ cá, nhất là cá voi, một tín ngưỡng thờ cá của cư dân sông nước, cư dân biển, sau có sự phối thờ các vị nhân thần và các nhân thần ấy đã dần giữ vị trí trung tâm làm mờ đi lớp tín ngưỡng thuở ban đầu. Sau này ở thời đại phong kiến một số nhân thần được tấn phong là vị thần phù trợ cho người đi biển như Nguyễn Phục, Đỗ Hoàng Giáp niên hiệu Thái Hòa 2 (1453) thời Lê Nhân Tông, giữ chức Tham chính sứ xứ Thanh Hóa. Khi vua Lê Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành, ông được giao việc đốc vận quân lương, vì gặp bão, chậm trễ kỳ hạn nên bị xử tội theo quân pháp. Biết ông chết oan, dân chúng dọc bờ biển từ Thanh Hóa đến Quảng Nam nhiều nơi lập đền thờ. Sau đó, triều đình phong kiến phong Nguyễn Phục là Nam Hải đại vương, vị phúc thần của dân đi biển. Ở Trung Quốc có một vị thần phù trợ cho người đi biển là Lâm Mặc, tức Ma Tổ, sau này là Thiên Hậu. Ma Tổ: “Đó chính là một vị thần hàng hải được thờ ở rất nhiều nơi trên lãnh thổ Trung Quốc và những nơi có người Hoa sinh sống trên thế giới. Bà được các triều đại từ Tống, Nguyên đến Minh, Thanh công nhận và phong cho nhiều tước. Sự tích của bà được nhiều sách Trung Quốc bàn tới: bà xuất thân từ một nhân vật có thật năm 960, dưới triều Bắc Tống, tại Phúc Kiến, bà được tin là người có khả năng siêu nhiên bởi việc đã cứu các anh trai đang đi buôn bán trên biển bị gặp sóng dữ. Bà chết trẻ, tương truyền được trời đón về, sau nhờ việc bà hiển linh cứu vị quan đời Tống (1123) mà bà được phong là phu nhân. Sau đó, bà còn hiển linh bắt cướp biển (1192) nên được phong là Thánh phi đời Tống. Đời Minh bà được biết đến dưới cái tên là Thiên phi và đến đời Thanh là Thiên hậu”(4).
Những người sống ở vùng biển Việt Nam hơn ai hết trong quá trình giao lưu với ngư dân Trung Quốc đều biết Thiên Hậu là vị thần phù trợ cho người đi biển nhưng họ lại không du nhập vị thần này vào thành vị phúc thần phù trợ cho người đi biển Việt Nam. Ở Trung Quốc, theo tác giả Long Bằng, phải đến năm Thánh Hóa thứ 5 nhà Minh (1469), triều Minh mới công khai cho xây dựng đền, miếu tưởng niệm các nhân vật nhà Nam Tống tại di tích Tống cung Nhai Sơn. Năm Hồng Trị thứ 4 nhà Minh (1491) xây miếu Tử Nguyên, còn gọi là miếu Toàn Tiết, người dân gọi là điện Quốc Mẫu để thờ Dương Thái Hậu ghi nhận danh tính, chức phận và đức hạnh giữ trọn phẩm tiết của Hoàng Thái Hậu nhà Nam Tống và người Trung Quốc từ đó đến nay không quan niệm bà là vị thần biển.
Thờ Phụng Tứ Vị Thánh Nương
Tục thờ Tứ Vị Thánh Nương hiện rất phổ biến ở nhiều làng người Việt ven biển từ Bắc vào Nam , ngoài ra còn thấy ở các làng ven biển Trung Bộ . Tuy nhiên tục thờ này phổ biển nhất là miền biển Trung Bộ . Mà trung tâm là Đền Cờn ( Nghệ An ) Hàng năm, lễ hội đền Cờn lại được tổ chức trong thể với nhiều hoạt động mang nét tâm linh được diễn ra. Đền Cờn là một trong 4 ngôi đền linh thiêng bậc nhất ở Nghệ An: “Nhất Cờn, nhì Quả, tam Bạch Mã, tứ Chiêu Trưng”.
Theo Ninh Viết Giao , ngoài đền Cờn còn có hơn 30 làng khác nữa ở Quỳnh Lưu ( Nghệ An ) thờ Tứ Vị Thánh Nương . Riêng huyền Hoàng Hóa ( Thanh Hóa ) cung có 20 làng thờ Tứ Vị Thánh Nương dưới dạng thờ Tống Hậu ,Thiên Hậu.
Ở Quang Nam – Đà Nẵng tục thờ Tứ Vị Thánh Nương rất phổ biến , hầu như làng nào cũng có tuy nhiên ít khi có miếu thờ riêng bà . Như trường hợp làng Mỹ Khê gọi là Miếu Cả , còn phần lớn là phối thờ với các vị thần khác và được gọi với cái tên là Bà Giàng Lạch, tức vị thần chủ sông biển.
Với người dân vùng ven biển như vùng duyên hải miền trung thì tục thờ Tứ Vị Thánh Nương hay còn gọi là
Tứ Vị Vua Bà vô cùng phổ biến. Người ta tin rằng bà có quyền phép sẽ phù hộ cho mưa gió thuận hòa, nhân dân làm ăn thuận lợi, có tiền có của, bình yên, êm ấm.
Tứ Vị Vua Bà là ai?
Tứ Vị Vua Bà là vị Mẫu Thần được phối thờ cùng Tứ Phủ
Mọi truyền thuyết đều cho rằng bà có quyền phép chuyên phụ trách
Miền sông nước, biển đảo.Do đó đền thờ bà được xây dựng phổ biến khắp vùng duyên hải nước ta.
Tôn hiệu bà được ghi chép lại rất đa dạng.Thường thấy trong các thần tích là
Đại Càn Tứ Vị Thánh Mẫu hay Đại Càn Quốc Gia Nam Hải
Tứ Vị Thánh Mẫu Đại Càn Quốc Gia Nam Hải Tam Tòa Tú Vị Hồng Thánh Nương Đại Nương
Nam Việt Tống Triều Quốc Mẫu Tứ Vị Hồng Nương Càn Hải Linh Từ Tứ Thánh Miếu sự tích.
Tại các đền thờ Tứ Vị Vua Bà cũng còn lưu giữ một số sắc phong với các duệ hiệu:
- Đại Càn Quốc Gia Nam Hải Thánh Mẫu Thượng Đẳng Thần
- Nam Việt Tống triều quốc mẫu tứ vị hồng nương phu nhân
- Đại càn quốc gia Nam Hải thần chiếu linh ứng tự vị thánh nương Thượng đẳng thần
- Càn Hải môn hiển thánh Tống Thái Hậu nam Hải tối linh Tứ vị Thánh nương Đại Vương.
-
Sự tích Tứ Vị Vua Bà
Tứ Vị Thánh Nương được người đời truyền tụng rất nhiều sự tích
-
Phổ biến nhất người ta cho rằng danh xưng này để chỉ 4 vị thánh nữ
-
Có nguồn gốc từ Trung Quốc,được thờ nhiều ở vùng Thanh Hóa Nghệ An
-
Tại những địa phương có xây đền thờ các vị này đều cho rằng
-
Nhân vật chính là thân mẫu vị vua cuối cùng đời nhà Tống
-
Ba người còn lại được kể lại bằng những sự tích không thống nhất lắm.
-
Các sự tích này được lưu truyền và ghi chép tại các đền thờ Tứ Vị Vua Bà. Cụ thể:
Truyền thuyết ở đền mẫu – Hưng Yên
Truyền thuyết kể rằng sau khi Nam Tống thất thủ bà quý phi họ Dương đã nhảy xuống biển
-
Thi thể của bà xuôi theo dòng nước trôi về Phố Hiến
-
Nhân dân thương xót nên chôn cất chu đáo thi thể của bà
-
Rồi đến người nội thị triều đình Bắc quốc là quan thái giám
-
Họ Di trong cơn loạn lạc đã tới Phố Hiến được nhân dân giúp đỡ
-
Tập hợp những người Hoa lánh nạn rồi hưng công lập nên làng Hoa Dương
-
Sau khi vị thái giám này mất họ tôn người này làm Thành Hoàng và chôn cất kín đáo
-
Trong khuôn viên đình Hiến.Tại đền cũng có đặt tượng thờ Dương phi cùng 2 người hầu là Kim Thị và Liễu Thị.
Truyền thuyết Tứ Vị Vua Bà theo bản ghi chép tay chữ Hán Nôm cuốn “Thanh Chương huyện chí”
Trong sách có ghi về một sự việc khi hoàng hậu một triều vua bị vu oan là con đẻ “bất thành nhân dạng”
-
Nên bốn mẹ con tức hoàng hậu 2 cô công chúa cùng vị hoàng tử bị đày lên đảo
-
Tuy nhiên, thuyền dạt vào đền cửa Cờn nhưng 4 mẹ con đã bị chết ở đó
-
Thượng đế thương xót phong làm thần,chuyên phụ trách việc gió mưa ở biển
-
Nhân dân thấy vậy bèn lập đền thờ Tứ Vị Đại Vương
-
Vì có một hoàng tử nên thay vì gọi là Tứ Vị Vua Bà họ gọi là Tứ Vị Đại Vương.
Thần Tích Về Tứ Vị Vua Bà được chéo trong thần tích làng Cơ Xá (Đền Lộ)
Thần tích kể lại rằng 4 vị thần được thờ đó chính là hoàng hậu, ba công chúa triều Tống
-
Hoàng hậu là người con gái ở Cần Hải, Hoang Châu. Sau bà làm vợ của Tống Đế Bính
-
Bà sinh được 3 cô công chúa những sau khi gặp nạn trôi vào cửa Cờn
-
Sau đó khoảng cuối nhà Trần khi ấy nước sông Nhị hà lên cao
-
Bỗng xuất hiện 4 có nồi úp dưới cái nón trôi dạt vào bờ sông thuộc bản xã
-
Khiến nơi đây không an ổn.Lúc ấy có vị thần báo mộng cho nhân dân phải lập đền thờ mới được yên lành
-
Nhân dân đã lập đền thờ và cúng bái. Thần tích này xuất hiện sau các thần tích kể trên.
Lễ Tứ Vị Vua Bà gồm những gì?
Hàng năm cứ đến ngày đầu xuân năm mới hoặc ngày tiệc lễ Tứ Vị Vua Bà
-
Nhân dân khắp nơi lại nô nức sắm lễ quần áo chỉnh tề lên cửa Tứ Vị Vua Bà và cúng lễ
-
Điểm đặc biệt ở đây là các đền thờ Tứ Vị Vua Bà thu hút rất nhiều ngư dân miền biển đến dâng lễ
-
Bởi người ta cho rằng các bà có quyền phép cao siêu điều khiển thời tiết vùng biển
-
Xin lộc các bà ắt sẽ được yên ổn làm ăn nơi biển cả mênh mông.
Một mâm lễ Tứ Vị Vua Bà gồm các thức lễ như một đĩa hoa một đĩa quả gồm nhiều loại quả - Một cơi trầu, quả cau cút rượu xôi thịt nén hương giấy tiền và một cánh sớ
-
Tứ Vị Vua Bà đền Cờn Môn Nghệ An
Có 2 ngôi đền nổi tiếng thờ Tứ Vị Vua Bà là Đền Cờn Nghệ An và đền Lộ tại Long Biên, Hà Nội. Trong đó, đền Cờn là nổi tiếng nhất và xuất hiện nhiều trong các thần tích về Tứ Vị Vua Bà.
Đền Cờn Nghệ An là một ngôi đền nằm trên gò Diệc, hướng mặt ra sông Hoàng Mai. Đền thuộc địa phần phường Quỳnh Phương, thị xã Hoàng Mai, Nghệ An.
Mặt trước đền được xây dựng giống như một bến thuyền nên trông xa toàn bộ kiến trúc rất uy nghiêm và đồ sộ. Tiến lại gần, chúng ta có thể thấy rõ được vết tích thời gian lưu lại trên những chi tiết kiến trúc đền. Có sự rêu phong, có sự cổ kính. Tuy vậy trông đền vẫn rất uy nghiêm, bề thế bởi hầu hết chất liệu xây dựng đền đều từ đá.
Vì đền Cờn được xây dựng từ rất lâu nên còn lưu giữ rất nhiều vết tích kiến trúc cổ xưa như hoa văn chạm khắc tinh xảo trên các dường, cột bên trong đền và các hoa văn chạm khắc tại phía ngách nhà đền. Hiếm có ngôi đền nào lại lưu giữ được nhiều nét văn hóa cả về tinh thần tín ngưỡng lẫn nét kiến trúc truyền thống như nơi đây.
Năm 2017 Đền được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia vô cùng quý giá.
Đền Cờn hàng năm đều tổ chức lễ hội vào ngày 20, 21 tháng Giêng là ngày tiệc Tứ Vị Vua Bà đền Cờn Môn. Lễ hội đền Cờn được mệnh danh là một trong những lễ lớn và linh thiêng nhất. Tại ngày diễn ra đại lễ, người dân tiến hành rất nhiều các phần lễ nhỏ có thể kể đến lễ khai quang, lễ yết cáo, lễ khai hội, lễ cầu ngư, lễ hợp tế, lễ yết vị, lễ đại tế và lễ tạ. Sau phần đại lễ là tới phần hồi. Phần hội chủ yếu phục vụ du khách gần xa tới tham quan, chiêm ngưỡng nét đặc sắc văn hóa đền Cờn với các làn điệu hát dân ca, các môn thể thao dân gian như đẩy gậy đua thuyền - Văn Tứ Vị Vua Bà
Hoa thơm hoa nở bốn mùa
Trên ngàn xanh đua sắc hương bay
Gió rung cây lay lay cành lá
Nhác trông lên nhang xạ ngát mùi
Cảnh rừng núi anh linh lừng lẫy.
Nức danh thơm đã dậy muôn phương
Vẻ cốt cách hình dung tươi tốt,
Nét thanh tân tuyết nhường màu da
Gió thoảng đưa mái tóc rườm rà
Con tiến dâng văn tứ vị vua bà
Cờn môn nơi ấy bao xa
Danh lam cổ tích một tòa ngôi cao
Cảnh bồng lai tiêu giao một thú
Khi ngao du bến thủy sông thao
Lạng Sơn Yên Bái Nghệ An ra vào
Vận bốn mùa cầu đảo khói nhang
Khi ngự đèo kẻng lại sang Bảo Hà
Thượng ngàn nức tiếng vua bà
Ban tài tiếp lộc gần xa cho đồng
Nguyện tâm thành sở cầu tất ứng
Sắm lễ trình ắt thời chứng cho
Vua bà chứng cho tai qua nạn khỏi
Cứu người đời thoát mọi trầm luân
Nước tiên tẩy sạch bụi trần
Lưu tài giáng phúc độ trì muôn dân
Ân trên ghi nhớ đời đời
Ngồi lặng nhìn hoa rơi lai láng
bức rèm châu thấp thoáng sang canh
Đệ tử con một dạ lòng thành
Cứu xin vua bà ngự giáng chứng minh
Độ cho đệ tử khang ninh thọ trường
Dù ai lưu xứ xa phương
Nhớ ngày mở hội về cờn môn
Lòng tôn kính dâng hương bái thánh
Độ cho người phúc thọ trường sinh
Cửa nhà phú quý khang vinh đời đời
Dưới trần gian mấy lời kêu tấu
Từ cổ triều lưu dấu anh linh
Xe loan thánh giá hồi cung.
XEM BÓI MIỄN PHÍ ONLINE 0966662332
Từ chỗ này mà cải sửa thì thân khẩu của bạn tự nhiên liền không có lỗi lầm.
ĐỒNG NHÂN Cứ Chăm Đến ĐỀN
ĐIỆN, PHỦ, CHÙA Là Tốt?
Đi lễ ĐỀN, ĐIỆN, PHỦ, CHÙA... trong những ngày rằm, mùng 1 hay Tết là thói quen của đa số người Việt. Nhưng với các đồng nhân, thanh đồng trong đạo Mẫu, việc năng đi lễ tại các ĐỀN, ĐIỆN, PHỦ, CHÙA có thật sự tốt hay không?
Trong tâm linh: các linh hồn tương tác với người trần bằng nguồn năng lượng
Con người tương tác với nhau qua trường năng lượng của mình, còn trong thế giới tâm linh, các linh hồn cũng tương tác qua lại với nhau và cả với người trần bằng trường năng lượng.
Chư Phật chư Thánh dùng năng lượng tâm linh cao của mình giáo hóa và tiếp độ các vong linh thấp cũng như can thiệp một số cái được tạo hóa cho phép cả cho người trần.
Đặc biệt đối với người có căn thì sự cảm nhận, tiếp nhận nguồn năng lượng này lại càng mạnh mẽ.
Nguồn năng lượng tâm linh luôn đa dạng
Nhưng cũng bởi nguồn năng lượng tâm linh luôn rất phong phú đa dạng, có tốt có xấu:
- Năng lượng của Phật, của Thánh hiền thần linh chính tắc thì tốt
- Năng lượng của ngã quỷ, của hung thần và tà thần vong tà… thì xấu.
Ngôi chùa ngôi đền linh thiêng và người chủ trì hay thủ nhang ở đó đạo đức tốt
Tu tập tốt thì dù ngôi đền chùa hay điện đó to bé không quan trọng, Ta cũng cảm nhận được trường năng lượng tốt (hay còn gọi là linh khí Hay ngôi đền điện chùa đó linh thiêng), cảm thấy khoan khoái, dễ chịu, ấm áp và được sự che chở.
Nhưng nếu đến một ngôi chùa đền điện dù to đẹp hoành tráng mà người chủ trì hay thủ nhang không đi đúng đạo và không có đức thì ngôi đền chùa đó chỉ như nhà triển lãm tượng, giống những nơi trưng bầy và khoe khoang đời thường.Thậm chí nếu các vị đứng đầu nơi đó mà nhập ma thì khi bước vào sẽ chỉ nhận được trường năng lượng xấu thậm chí gây cảm giác lạnh lẽo, sợ hãi.
Cũng giống như người hiền lành đạo đức trong sáng, tâm thiện thì tỏa ra trường năng lượng tốt; người tà tâm, suy đồi đạo đức thì năng lượng xấu. Một con người đạo đức hay xấu xa dù thế nào, cũng không thể giấu diếm được trước các đấng siêu hình thậm chí cũng khó dấu diếm được các vị tu hành có đạo hạnh hay các nhà tâm linh có tu tập cảm nhận được năng lượng.
Chọn nơi mà đến để nhận năng lượng của Phật, của Thánh hiền, của chính Thần
Vậy các con nếu là đồng nhân, muốn tỏ lòng thành kính với đấng Thánh Thần, muốn được bề trên chứng tâm gia ân che chở, phù hộ, muốn xin cầu một chút ân duyên năng lượng để an yên lại căn mệnh, bình an thần trí... hãy năng đến các đền chùa linh thiêng, các địa linh để tiếp nhận năng lượng, để nhận sự tác động tốt bởi năng lượng của Phật, của Thánh hiền, của chính Thần.
- +Các con lại nên tránh những nơi có năng lượng xấu dù được rao giảng lôi kéo hay nhìn bề ngoài có hoành tráng đến đâu, nổi tiếng đến đâu.
- +Các con cũng hạn chế đến nơi có nhiều mồ mả, nơi có năng lượng thi khí (khí từ người chết, thi thể), năng lượng âm khí, năng lượng địa mạch âm sát và năng nượng oán khí... Nó ảnh hưởng rất xấu đến cuộc sống của các con từ sức khỏe, tài vận và đặc biệt là đến căn mệnh của người có đồng...
TRỪ KHI các con có năng lực nội tại đủ tốt để chế ngự/điều hòa năng lượng này hoặc khi có nhiệm vụ hành pháp ĐỘ VONG
Văn Khấn Tứ Phủ:
Các bạn căn đồng số lính có căn hầu đồng con cha con mẹ khi đi lễ đền phủ... không thể không thuộc bài văn khấn Tứ Phủ
Nhưng bài khấn quá dài thì các thanh đồng còn non trẻ sẽ khó lòng mà thuộc được
Bài văn khấn quá ngắn lại chưa đúng ý nguyện mong cầu của các đồng cựu thầy đồng.
Bản đầy đủ dành cho các thầy và Bản Văn khấn ngắn gọn dành cho các con nhang đệ tử.Có hướng dẫn cách khấn sao cho linh nghiệm nhất đối với con nhang đệ tử ở dưới bài viết
Hôm nay là ngày.. Chúng con đến đây có chút hương hoa phẩm quả, lễ mặn (chú ý dâng gì thì kêu đó nghe - không có lễ mặn mà kêu lễ mặn là phải tội đó, nên nhớ không bày lễ mặn ở cúng Phật) xin dâng lên các chư tiên chư thánh để cảm tạ ơn đức của các ngài đã phù hộ độ trì cho chúng con suốt thời gian qua.Vừa qua được sự lưu tâm độ trì của các ngài mà công việc (Nếu đã xin việc gì cụ thể mà thành công thì xin trình bày) của con đã hanh thông vẹn tròn Chúng con xin được cảm tạ và lễ tạ tất cả các Ngài.
Hôm nay chúng con tới đây với tất cả lòng thành kính xin các ngài phù hộ độ trì cho con các việc sau: ( Nêu cụ thể các việc cần xin, các khó khăn có thể gặp phải và có thể cả hướng định giải quyết ra sao).
Một lần nữa thay mặt gia chung chúng con con xin các ngài giang tay cứu giúp cho chúng con. Chúng con xin đa tạ ...( tên vị thánh bản đền) và toàn thể các chư tiên, chư thánh.
Nam mô a di dà phật (3 lần).
Một số lưu ý về bài khấn trên:
Do các ngôi vị của nhà thánh rất nhiều chúng ta chỉ khấn: Toàn thể chư tiên, chư thánh là đủ hết cả rồi, không sót một ai. Nên các bạn cứ an tâm mà khấn.
Ngôi đền nào cũng có một vị chủ đền nên sau khi khấn các chư tiên, chư thánh rồi thì phải khấn tên của vị thánh chủ đền. Vị thánh chủ đền là vị thánh chủ nhà của ngôi đền, còn các ngôi khác tuy quyền cao hơn cũng chỉ là khách, nên không thể không khấn tên vị thánh chủ đền được. Thử hỏi cõi dương trần mình đến nhà người ta chơi mà không chào chủ nhà, chỉ chào mỗi khách thôi thì chủ nhà sẽ hành xử với chúng ta ra sao? Khấn mà quên vị thánh chủ đền thì coi như các lời xin cầu của chúng ta là vô nghĩa, thậm chí còn nguy hại vì mình vô lễ với vị thánh chủ đền.
Cũng lưu ý khi khấn bên cung Phật thì đoạn "chư Phật, chư Tiên, chư Thánh" thì chỉ cần khấn chư Phật thôi, còn khấn bên cung Thánh thì có thể khấn chư tiên, chư thánh thôi.
Khi bắt đầu khấn thì khấn các ngôi chư Phật, chư Tiên, chư Thánh vì ngôi cao hơn, sau đó mới đến vị thánh chủ nhà. Còn khi ra đi thì phải xin phép chủ nhà rồi mới chào các vị khách mới đúng. Thậm chí, chúng ta khấn vị thánh chủ đền rồi mới đến chư tiên, chư thánh cũng không sao. Bởi vị thánh chủ đền là chủ nhà còn các chư tiên, chư thánh chỉ là khách.
Để khấn khi đến hay khấn chào thì nên khấn ở Ban Công Đồng hoặc ở Ban vị thánh chủ đền là được. Sau đó có thể chỉ đến vái các ban khác nếu không có đủ thời gian. Tất nhiên, nếu có nhiều thời gian chúng ta có thể khấn thêm ở các ban khác.
2. Bài khấn Tứ Phủ đầy đủ nhất (Dành cho các đồng thầy)
Con niệm Nam Mô A Di Đà Phật (3 lần)
- Con lạy chín phương Trời, con lạy mười phương Đất, con lạy mười phương chư Phật, chư Phật mười phương,
- Nam Mô Bản sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
- Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật.
- Nam Mô Đương Lai Hạ Sinh Di Lặc Tôn Phật.
- Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.
Con Lạy Chư Đại Bồ Tát, Chư Hiền Thánh Tăng.Hộ Pháp Chư Thiên, Thiện Thần Bồ Tát.
Con lạy Tam Vị Đức Vua Cha Đức Tam Thập Tam Thiên Thiên Chúa Đế Thích Đề Hoàn Nhân Thánh Đế Ngọc Bệ Hạ
Con Lạy Hiệu Thiên chí tôn Kim Quyết Ngọc Hoàng Huyền Cung Đại Đế Ngọc Điện Hạ.
Con lạy Đức Phật Mẫu Hoàng Thiên
Con Lạy Đức Vua Cha Bát Hải Động Đình Thủy Quốc Long Vương.
-Con lạy Tam Tòa Thánh Mẫu:
Con Lạy Mẫu Đệ Nhất Thượng Thiên
Con Lạy Mẫu Đệ Nhị Thượng Ngàn
Con Lạy Mẫu Đệ Tam Thoải Phủ
Con Lạy Mẫu Đệ Tứ Khâm Sai
Con Lạy Hội Đồng Quan Tứ Trụ Triều Đình
Con Lạy Tam Phủ Công Đồng, Tứ Phủ Vạn Linh hội Đồng Tiên Thánh
Văn khấn Tứ phủ: Ngắn gọn đầy đủ & hay nhất
Các bạn căn đồng số lính có căn hầu đồng con cha con mẹ khi đi lễ đền phủ
Không thể không thuộc bài văn khấn Tứ Phủ
Nhưng bài khấn quá dài thì các thanh đồng còn non trẻ sẽ khó lòng mà thuộc được.Bài văn khấn quá ngắn, lại chưa đúng ý nguyện mong cầu của các đồng cựu, thầy đồng.
VĂN KHẤN TỨ PHỦ ĐẦY ĐỦ NHẤT
Bản đầy đủ dành cho các thầy và Bản Văn khấn ngắn gọn dành cho các con nhang đệ tử.Có hướng dẫn cách khấn sao cho linh nghiệm nhất đối với con nhang đệ tử ở dưới bài viết.
1.Bài khấn Tứ Phủ ngắn gọn hay nhất (Dành cho con nhang đệ tử)
Đối với các con nhang, đệ tử đi lễ không thường xuyên thì nên khấn ngắn gọn như sau:
Nam mô a di đà phật ( 3 lần )
Con lạy chín phương trời, con lạy mười phương đất, con lạy chư phật mười phương, mười phương chư phật.
Con lạy toàn thể chư phật, chư tiên, chư thánh.
Con lạy: ...........( tên thánh chủ bản đền. Ví dụ, đến đền Cô Chín ta khấn: Con lạy Cô Chín tối linh)
Đệ tử con tên là:............. tuổi:..........
Ngụ tại:.................................
Hôm nay là ngày... Chúng con đến đây có chút hương hoa, phẩm quả, lễ mặn (chú ý dâng gì thì kêu đó nghe - không có lễ mặn mà kêu lễ mặn là phải tội đó, nên nhớ không bày lễ mặn ở cúng Phật) xin dâng lên các chư tiên, chư thánh để cảm tạ ơn đức của các ngài đã phù hộ độ trì cho chúng con suốt thời gian qua. Vừa qua, được sự lưu tâm độ trì của các ngài mà công việc
(Nếu đã xin việc gì cụ thể mà thành công thì xin trình bày ) của con đã hanh thông vẹn tròn. Chúng con xin được cảm tạ và lễ tạ tất cả các Ngài.
Hôm nay chúng con tới đây với tất cả lòng thành kính xin các ngài phù hộ độ trì cho con các việc sau: ( Nêu cụ thể các việc cần xin, các khó khăn có thể gặp phải và có thể cả hướng định giải quyết ra sao).
Một lần nữa thay mặt gia chung chúng con, con xin các ngài giang tay cứu giúp cho chúng con. Chúng con xin đa tạ ...( tên vị thánh bản đền) và toàn thể các chư tiên, chư thánh.
Nam mô a di dà phật (3 lần).
------ HẾT -------
Một số lưu ý về bài khấn trên:
Do các ngôi vị của nhà thánh rất nhiều chúng ta chỉ khấn: Toàn thể chư tiên, chư thánh là đủ hết cả rồi, không sót một ai. Nên các bạn cứ an tâm mà khấn.
Ngôi đền nào cũng có một vị chủ đền nên sau khi khấn các chư tiên, chư thánh rồi thì phải khấn tên của vị thánh chủ đền. Vị thánh chủ đền là vị thánh chủ nhà của ngôi đền, còn các ngôi khác tuy quyền cao hơn cũng chỉ là khách, nên không thể không khấn tên vị thánh chủ đền được. Thử hỏi cõi dương trần mình đến nhà người ta chơi mà không chào chủ nhà, chỉ chào mỗi khách thôi thì chủ nhà sẽ hành xử với chúng ta ra sao? Khấn mà quên vị thánh chủ đền thì coi như các lời xin cầu của chúng ta là vô nghĩa, thậm chí còn nguy hại vì mình vô lễ với vị thánh chủ đền.
Cũng lưu ý khi khấn bên cung Phật thì đoạn "chư Phật, chư Tiên, chư Thánh" thì chỉ cần khấn chư Phật thôi, còn khấn bên cung Thánh thì có thể khấn chư tiên, chư thánh thôi.
Khi bắt đầu khấn thì khấn các ngôi chư Phật, chư Tiên, chư Thánh vì ngôi cao hơn, sau đó mới đến vị thánh chủ nhà. Còn khi ra đi thì phải xin phép chủ nhà rồi mới chào các vị khách mới đúng. Thậm chí, chúng ta khấn vị thánh chủ đền rồi mới đến chư tiên, chư thánh cũng không sao.Bởi vị thánh chủ đền là chủ nhà còn các chư tiên, chư thánh chỉ là khách.
Để khấn khi đến hay khấn chào thì nên khấn ở Ban Công Đồng hoặc ở Ban vị thánh chủ đền là được. Sau đó có thể chỉ đến vái các ban khác nếu không có đủ thời gian.Tất nhiên nếu có nhiều thời gian chúng ta có thể khấn thêm ở các ban khác.
2. Bài khấn Tứ Phủ đầy đủ nhất (Dành cho các đồng thầy)
Con niệm Nam Mô A Di Đà Phật (3 lần)
- Con lạy chín phương Trời, con lạy mười phương Đất, con lạy mười phương chư Phật, chư Phật mười phương,
- Nam Mô Bản sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
- Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật.
- Nam Mô Đương Lai Hạ Sinh Di Lặc Tôn Phật.
- Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.
Con Lạy Chư Đại Bồ Tát Chư Hiền Thánh Tăng.Hộ Pháp Chư Thiên, Thiện Thần Bồ Tát.
Con lạy Tam Vị Đức Vua Cha Đức Tam Thập Tam Thiên Thiên Chúa Đế Thích Đề Hoàn Nhân Thánh Đế Ngọc Bệ Hạ
Con Lạy Hiệu Thiên chí tôn Kim Quyết Ngọc Hoàng Huyền Cung Đại Đế Ngọc Điện Hạ.
Con lạy Đức Phật Mẫu Hoàng Thiên
Con Lạy Đức Vua Cha Bát Hải Động Đình Thủy Quốc Long Vương.
-Con lạy Tam Tòa Thánh Mẫu:
Con Lạy Mẫu Đệ Nhất Thượng Thiên
Con Lạy Mẫu Đệ Nhị Thượng Ngàn
Con Lạy Mẫu Đệ Tam Thoải Phủ
Con Lạy Mẫu Đệ Tứ Khâm Sai
Con Lạy Hội Đồng Quan Tứ Trụ Triều Đình
Con Lạy Tam Phủ Công Đồng, Tứ Phủ Vạn Linh hội Đồng Tiên Thánh
-Con lạy Trần Triều Hiển Thánh Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương.
Con lạy Trần Triều Khải Thánh Vương Phụ, Vương Mẫu, Vương Phi Phu Nhân,
Trần Triều Vương Huynh, Vương Đệ.Vương Tử, Vương Tế, Vương Nữ Vương Tôn
Con Lạy văn võ bá quan quân thần trần triều
Con lạy Tam Tòa chúa bói – Hội đồng Chúa bói Chúa chữa Chúa Mán Chúa Mường
Con Lạy Chúa Đệ Nhất Tây Thiên
Chúa Đệ Nhị Nguyệt Hồ
Chúa Đệ Tam Lâm Thao
Tiên Chúa Thác Bờ
Con Lạy Ngũ Phương Bản Cảnh Vũ Quận Bạch Hoa -Năm Phương Chúa Bà
-Con lạy Ngũ Vị Vương Quan, Tôn Quan Đệ Nhất Thượng Thiên, Tôn quan Đệ Nhị Giám Sát, Tôn Quan Đệ Tam Thoải Phủ, Tôn quan Đệ Tứ Khâm Sai, Tôn Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh.
Con lạy Tôn Quan Điều Thất.
-Con cung thỉnh mời Tứ Phủ Chầu Bà
Chầu Đệ Nhất Thượng Thiên
Chầu Đệ Nhị Thượng Ngàn Đông Cuông
Chầu Đệ Tam Thoải Phủ
Chầu Đệ Tứ Khâm Sai
Chầu Năm Suối Lân
Chầu Lục Cung Nương
Chầu Bảy Tiên La
Chầu Bát Nàn Đông Nhung Đại Tướng Quân
Chầu Cửu Sòng Sơn
Chầu Mười Đồng Mỏ
Con lạy Hội Đồng Chầu Bé-Con Lạy Chầu Bé Thượng Ngàn Quyền Cai Bắc Lệ
-Con cung thỉnh mời Tứ Phủ Thánh Hoàng, thập vị quan Hoàng
Con lạy 36 tòa Sơn Trang -Sơn Trang, Tám Tướng Thập Nhị Tiên Nàng
-Con lạy Tứ Phủ Thánh Cô
Con xin kính lạy Cô Nhất Thượng Thiên- Cô Cả đền Dùm
Con lạy Cô đôi Thượng Ngàn
Cô bơ Thoải, con lạy cô tư Ỷ La, Cô năm suối lân, cô Sáu sơn trang, Cô bảy Tân La cô Tám Đồi Chè, 12 cô Chín, Cô chín thượng Ngàn, Cô chín Sòng sơn, cô Mười mỏ Than, Hội đồng cô bé, Con Lạy cô bé Thượng ngàn, cô bé Thoải con lạy cô Bé Bản Đền (bản điện), Con lạy Tứ Phủ Thánh Cậu trên Ngàn dưới Thoải,
Con lạy Cậu đệ nhất Hoàng Thiên, Cậu Hoàng Đôi Thượng Ngàn, Cậu Hoàng Ba Thoải, Cậu Hoàng Tư Long Thành, Con Lạy Cậu Bé Hoàng Thiên, Cậu Bé Thượng Ngàn, Cậu Quận Phủ Dầy, Cậu Đồi Ngang Phố Cát. Con lạy cậu bé bản Đền ( Bản Điện ).
-Con Lạy Hội Đồng Quan Ngũ Dinh, Đôi quan Thanh Xà Bạch Xà, Sơn Thần Bản Thổ Ngũ Hổ Thần Tướng
-Con cung thỉnh mời chư vị Chúa Chầu các Quan thủ Đền thủ Điện, Chư vị Thành Hoàng Bản Thổ, Chư vị Thần thổ cư đồng ngự dải đất này.
- Đệ tử con tên là:............. tuổi:..........
Ngụ tại:.................................
Kim niên kim nguyệt cát nhật lương thời. Hôm nay ngày:... Tháng:... Năm:...
( Dâng gì cầu gì khấn nấy hoặc theo bài bên dưới)
Nhân …………..
Đệ tử con nhất tâm 1 lòng, nhất tòng 1 đạo, nhất tâm trí thiết, nhất dạ chí thành, đêm tưởng ngày mong, tu thiết hương, hoa, đăng, trà, quả, thực (mang miệng về tâu, mang đầu về bái), trên con tấu thượng thiên, dưới con đệ trình long cung thuỷ phủ cùng đồng gia quyến đăng cung phụng cửa đình thần tam tứ phủ ...............(tên đền) linh từ.
Mong trên cha độ dưới mẫu thương đèn trời đuốc biển soi đường dẫn lối phù hộ độ trì cho quốc thái dân an, mưa thuận gió hoà vuốt ve che chở cho gia chung chúng con trong 3 tháng hè, 9 tháng đông, tai qua nạn khỏi - Đầu năm chí giữa nửa năm chí cuối được bình an vô sự cửa nhà khang ninh, cầu danh đắc danh, cầu phúc đắc phúc đắc tài sai lộc...... Dãi tấm lòng thành cúi xin Phật Thánh Chúa Tiên anh linh chứng giám!!!
-Cung thỉnh công đồng Lục Cung Tiên Tổ dòng họ..... nguyên quán Tổ Cô Mãnh Tướng
Cậu bé cô bé tại gia, chư vị tiên linh trong dòng họ theo hầu Phật Thánh cửa Đình Thần Tam Tứ Phủ, trên tấu tòa vàng Thượng Thiên, dưới tấu Thủy Cung Địa Phủ, cho con cháu nhất một lòng, tòng một đạo Sở cầu tất ứng, sở nguyện tòng tâm…
Nam mô a di dà phật (3 lần).
Văn khấn công đồng bài 3 dễ nhớ (Dành cho các thanh đồng)
Nhất thiết cung kính, nhất tâm kính lễ thập phương pháp giới thường trụ Tam Bảo (3 lần)
Nam mô Phật, Nam mô Pháp, Nam mô Tăng
Nam Mô Bản Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần)
Nam mô đại từ, đại bi tầm thanh cứu khổ cứu nạn quảng đại linh cảm Quán Thế Âm Bồ Tát.
- Con lạy chín phương trời, mười phương chư phật chư phật mười phương, ngũ phương ngũ phật, thập phương thập phật, hằng hà sa số, đức phật vô lượng, công đức vô biên.
Con xin sám hối con lạy Đức Cao Thiên Thượng Thánh Đại Từ Nhân Giả, Huyền Cung cao thượng đế, Ngọc Hoàng đại thiên tôn.
- Con xin sám hối đại thánh Nam Tào Lục Ty Duyên Thọ tinh quân, con sám hối đại thánh Bắc Đẩu Cửu Hoàng Giải Ách tinh quân, Bắc Cực Thiên Trung, Tam Nguyên, Tam Phẩm, Tam Quan, Cửu Tinh Thiên Chúa, Thập Nhị Bát Tú, dương phủ ngũ nhạc thần vương, địa phủ thập điện linh vương.
- Con xin sám hối đến thái linh phủ, bát hải linh từ, con sám hối vua cha bát hải động đình, con sám hối cửu trùng thánh mẫu bán thiên công chúa thiên tiên thánh mẫu.
- Con sám hối quốc mẫu vua bà, bơ toà thánh mẫu, mẫu đệ nhất thiên tiên Quỳnh Hoa Liễu Hạnh, đức mẫu thượng ngàn, Diệu Nghĩa, Diệu Tín thiền sư, tuần quán đông cuông, đệ nhị đỉnh thượng cao sơn triều mường sơn tinh công chúa Lê Mại Đại Vương, thánh mẫu đệ tam thuỷ cung Xích Lân Long Lữ thuỷ tinh công chúa, Hàn Sơn linh từ .
- Con lạy trần triều hiển thánh nhân vũ Hưng Đạo Đại Vương Quốc Công Tiết Chế Thượng đẳng phúc thần ngọc bệ hạ, trần triều khải thánh vương phụ, vương mẫu, vương phi phu nhân, vương tử, vương nữ, vương tể, vương tôn, tứ vị vương tử, nhị vị vương cô, phạm tướng quân, cô bé cửa suốt, cậu bé cửa đông chư vị tướng tá bộ hạ các quan công đồng Trần Triều uy phong lẫm liệt
- Con sám hối Cung thỉnh Tam vị Chúa Mường:Đệ nhất Tây Thiên,đệ nhị Nguyệt Hồ,đệ tam Lâm Thao
- Chúa Bà Cà Phê ,Tiên Chúa Thác Bờ-Hòa Bình công chúa,Ngũ Phương Bản Cảnh Chúa bà bạch hoa công chúa tối tú tối linh,hội đồng chúa bói,hội đồng chúa chữa,hội đồng chúa Mán,hội đồng chúa Mường,lục cung chúa chầu các bộ sơn trang,sơn lâm công chúa,tam thập lục cung công chúa
Lục thập hoa giáp thần nương.
Con sám hối ngũ vị tôn quan hội đồng quan lớn, quan đệ nhất thượng thiên,quan đệ nhị thượng ngàn, quan đệ tam thoải phủ, quan đệ tứ khâm sai, quan đệ ngũ tuần tranh.
Con lạy tứ phủ chầu bà, Năm tòa quan lớn, 10 dinh các quan. Bát bộ sơn trang thập nhị tiên cô trên ngàn dưới thoải, Thủ điện công chúa tối tú tối linh.Con kính lạy tứ phủ quan hoàng. Tứ phủ thánh cô, tứ phủ thánh cậu
Cậu bé bản đền, cô bé bản đền. Ngũ lôi thiên tướng, ngũ hổ đại thần chư vị các quan. Con kính lạy Thanh Xà đại tướng, Bạch Xà đại quan. Con kính lạy công đồng các giá, hội đồng các quan, trên ngàn Adưới thoải 18 cửa rừng, 12 cửa bể, cửa đình thần tam tứ phủ tối tú anh linh, con lạy Thổ công chúa đất chư vị tôn thần bản sứ.
Hôm nay là ngày...tháng...năm...
Đệ tử con là ... (tuổi) thê ... (tuổi) sinh nam tử ... (tuổi) nữ tử .... v.v… đồng gia quyến đẳng.
Ngụ tại địa chỉ:........................................................
Ngày hôm nay, kim niên kim nguyệt cát nhật lương thời.
Đệ tử con nhất tâm tưởng vạn tâm cầu, tu thiết nhang hoa lễ vật có tờ vàng lá sớ, tờ tấu lá trạng, mang miệng về tâu mang đầu tới bái cửa đình thần tam tứ phủ. Trên Mẫu độ, dưới gia hộ Mẫu thương, vuốt ve che chở phù hộ độ trì cho con 3 tháng hè 9 tháng đông, đầu năm chí giữa nửa năm chí cuối, tứ thời bát tiết phong thuận vũ hòa, tai qua nạn khỏi.
Mẫu cho con sáng hai con mắt, bằng hai bàn chân. Mẫu ban lộc dương, Mẫu tiếp lộc âm, cho lộc mùa xuân, cho tài mùa hạ, cho con tươi như lá, đẹp như hoa, phúc lộc đề đa tiền tài mang tới. Mẫu cho con lộc ăn lộc nói, lộc gói lộc mở, lộc gần lộc xa, hồ hết lại có, hồ vơi lại đầy, điều lành Mang đến điều giữ mang đi. Mẫu cứu âm độ dương, cứu đường độ chợ, vuốt ve che chở nắn nở mở mang, cải hung vi cát, cải hạo vi tường thay son đổi số, lảy mực cầm cân Mẫu phê chữ đỏ, Mẫu bỏ chữ đen, cho con được trăm sự tốt vạn sự lành, trên quý dưới yêu, trên vì dưới nể. Mẫu cho con Gặp thầy gặp bạn, gặp vạn sự lành, Mẫu ban danh ban diện ban quyền cho con có lương có thực có ngân có xuyến, cầu tài đắc tài, cầu lộc đắc lộc Cầu bình an đắc bình an, trồng cây đắp phúc cho con được nở cành xanh lá
Phúc lộc đề đa, ngũ phúc lâm môn, thân tâm an lạc, quả đạo viên thành, đầy thuyền mãn quả, gia đạo hưng thịnh. Mẫu cho trên thuận dười hòa trên bảo dưới nghe, trên đe dưới sợ, Mẫu cho nước chảy một dòng thuyền trôi một bến, bách bệnh tiêu tán vạn bệnh tiêu trừ, Năm xung Mẫu giải xung tháng hạn Mẫu giải hạn cho gia trung con được trong ấm ngoài êm nhân khang vật thịnh, duyên sinh thọ trường.
Đệ tử con người trần mắt thịt việc âm chưa tường việc dương chưa tỏ, tuổi con còn trẻ tóc con còn xanh, ăn chưa sạch bạch chưa thông, không biết kêu sao cho thấu tấu sao cho tường. Con biết tới đâu con tâu tới đó, 3 điều không sảy 7 điều không sai trăm tội Mẫu xá vạn tội Mẫu thương. Mẫu xá u xá mê xá lỗi xá lầm, soi đường chỉ lối cho con biết đường mà lội biết lối mà lần.
Hôm nay đệ tử con lễ bạc tâm thành con giàu một bó con khó một nén, giàu con làm kép hẹp con làm đơn, thiếu Mẫu cho làm đủ, vơi Mẫu cho làm đầy. Mẫu chấp kỳ lễ vật, chấp lễ chấp bái, chấp lời kêu tiếng tấu của con, bay như phượng lượn như hoa tới cửa Mẫu ngồi, tới ngai Mẫu ngự, cho con sở nguyện như ý sở cầu tòng tâm.
Dãi tấm lòng thành cúi xin Phật Thánh Chúa Tiên anh linh chứng giám!!!
- Con sám hối Cung thỉnh công đồng Tổ tiên nội ngoại, Tổ Cô Mãnh Tướng cậu bé cô bé tại gia đẳng đẳng chư vị chân linh sống vi anh tử vi linh về hầu cửa Phật cửa Thánh trên tấu thượng thiên, dưới tấu tòa vàng thoải phủ kêu thay lạy đỡ cho con cháu cháu chắt của Tổ được kêu thấu, tấu nổi đắc lễ đắc bái đắc yêu đắc cầu.Đức Tổ cao minh tận thương tận độ!!!
Các thanh đồng lưu ý khi khấn Tứ phủ để có ứng nghiệm được tốt nhất
Cần quỳ lạy tốt hơn nếu có điều kiện về vị trí, chỉ đứng khi không có chỗ để ngồi.Nhà Thánh không chấp nếu ta không có chỗ quỳ lạy nhưng sẽ chấp ta
Nếu có chỗ mà không quỳ.Quỳ là sự thể hiện sự tôn kính mà.
Khi khấn cần chắp tay cung kính, dồn toàn bộ tâm trí vào câu khấn,. Có thể mở mắt, nhưng phải để hướng mắt vào các tượng thánh.Có thể nhắm mắt để tiện cho dồn tâm trí vào câu khấn thì trong tâm vẫn phải hướng thẳng vào cung thờ.
Không quá nặng nề về câu chữ để sao cho lời khấn được mạch lạc, để có thể khấn bằng cả cái tâm của mình. Đây là phần quan trọng nhất trong khi khấn.Có làm được như vậy thì cây cầu tâm linh giữa người khấn với cõi tâm linh mới được kết nối.Khi đó lời khấn của mình mới được chứng
Nếu trong khi khấn mà không tâm niệm được điều này thì có khấn hay đến đâu cũng khó được chứng giám.Tuyệt đối không được mang bản in sẵn ra mà đọc
Nếu ta đọc thì cây cầu âm dương không bao giờ được kết nối.
Nên dãi bày chi tiết cụ thể các việc mình cần xin thì càng tốt. Có như vậy, cõi âm mới biết mình vướng cái gì, mắc ở đâu, chỗ nào ngăn trở mình thì cõi âm mới có cách giải quyết cho chúng ta được. Không nên khấn chung chung không cụ thể như: Mua một bán mười, tài lắm, nhiều lộc, gặp may gặp mắn.....
Đi lễ không quá cầu kỳ về đồ lễ vì cõi âm thường: Chứng tâm không chứng lễ.Nếu có lễ thì nên đơn sơ Chúng ta nên dành bớt phẫn lễ để cung tiến, hay giọt dầu. Việc đó tốt hơn vì góp công của xây dựng nhà đền sẽ được nhà ngài chứng tâm nhiều hơn.Cha mẹ nào chả thương con nghèo. Vì thế, không nên đua đòi sắm lễ, đặc biệt là mã cho tốn kém mà không giúp gì cho hưng thịnh đền nhà ngài.Nhà thánh hàng năm nhận hàng vạn mã, vàng thử hỏi có dùng làm chi ở cõi đó. Lễ mã chẳng qua là thể hiện lòng tôn kính mà thôi.
Hãy tự mình khấn thì tốt hơn vì các thầy chỉ thay mình khấn hộ nên chỉ khấn được chung chung hoặc chỉ là tên sự việc chứ không thể tả được các khúc mắc trong sụ việc như chính bản thân chúng ta.
Vì vậy khi thầy khấn xong ta nên tự khấn một mình sau, nếu không thì có thể khấn thầm ngay khi các thầy khấn chung.Lưu ý chỉ khấn nhẩm thầm để tránh ảnh hưởng đến người xung quanh. Nếu ta làm ảnh hưởng đến người xung quanh thì chính chúng ta không tôn trọng chính mình thì há chi nhà thánh còn muốn nghe chi lời trình bày của mình nữa.
Một điểm lưu ý thêm là bà con hay có cái tật đi với thầy khi thầy lễ cho người khác thì mình không thèm để ý. Tốt nhất là phải lắng tâm để nghe và cùng lạy tạ cho người ta.Mình không tiếp phúc cho người thì há chi người tiếp phúc cho ta. Mà với nhà Thánh ai chả là con nhà Thánh không thích những kẻ chỉ biết cho chính mình mà quên đi đồng loại.
Trong đền có nhiều cung, nếu chúng ta đến từng cung mà khấn đầy đủ mạch lạc là điều bất khả thi bởi ngay chính chúng ta cũng sẽ mất kiên nhẫn để hướng tâm trí vào lời khấn. Vì vậy chúng ta chỉ nên chọn một vị trí khấn đầy đủ tốt nhất là tại Ban Công Đồng nếu không chúng ta vào chính cung của vị thánh chủ đền nếu không còn chỗ thì chúng ta ra bên ngoài cửa đền khấn vọng vào còn hơn phải đứng chen chúc xô đẩy khiến chúng ta không thể nhất tâm trong suốt thời gian khấn.
Như bạn đã biết khi khi tâm trí bị đứt mạch thì sợi dây âm dương tiếp nối của chúng ta với cõi âm sẽ bị gián đoạn.Tất nhiên những điều ta khấn sẽ trở thành vô giá trị. Sau đó chúng ta sẽ đến các cung khác vái lạy và xin cảm tạ là đủ. Lý do đơn giản là khi ta khấn vừa rồi là đã khấn các vị đó rồi.Tất nhiên nếu thời gian cho phép chúng ta có thể tóm tắt các điều cần lễ tạ và các điều cần xin
Nên nhớ chỉ tóm tắt thôi nghe.
http://xemboimienphi.vn/
https://www.facebook.com/BaoVeDaoMauVietNam0966662332
https://www.facebook.com/XEMBOIMIENPHIONLINE0966662332/
https://www.facebook.com/groups/xemboimienphivn0966662332/