XEM BÓI MIỄN PHÍ 0966662332

Mail: Xemboionlinemienphi.vn@gmail.com

Mail : Xemboimienphi.vn0966662332@gmail.com


Điện Thoại: 0966 662 332

Trang chủ»ĐẠO MẪU VIỆT NAM»CHÚC MỪNG NĂM MỚI QUÝ MÃO 2023

CHÚC MỪNG NĂM MỚI QUÝ MÃO 2023

Đầu Xuân Năm Mới Chúc BÁCH GIA TRĂM HỌ BÌNH AN

Chúc Sang Năm Mới Nhiều TÀI LỘC

Công Thành Danh Toại VINH QUANG

 

MÙNG 1 SỚM MAI

MÙNG 2 ĐẦU THÁNG 1 QUÝ MÃO NIÊN

CHÚC 3 BÁCH GIA TRĂM HỌ
GIÀ THÌ SỨC KHỎE TRẺ ĐƯỢC BÌNH AN
ĐI TƯƠI VỀ TỐT BUÔN MAY BÁN ĐẮT
ĐIỀU LÀNH MANG LẠI ĐIỀU DẠI MANG ĐI
MÙNG 1 SỚM MAI - MÙNG 2 ĐẦU THÁNG

Page : XEMBOIMIENPHI.VN

CẦU AN CHO BÁCH GIA TRĂM HỌ
1 NĂM MỚI NHIỀU NIỀM VUI MAY MẮN
TỐT LÀNH AN KHANG THỊNH VƯỢNG VẠN SỰ NHƯ Ý
SỞ NGUYỆN Ý CẦU.CẦU ĐƯỢC THÀNH CÔNG NHƯ Ý

GIA ĐÌNH AN KHANG THỊNH VƯỢNG

 

1. Đầu xuân chúc bạn bè gần xa

Dồi dào sức khỏe toàn gia an bình

Ấm êm cuộc sống gia đình

Vợ chồng hòa thuận lửa tình nhân đôi

Công danh sự nghiệp rạng ngời

Trẻ già vui vẻ tiếng cười rộn vang

Niềm vui hạnh phúc ngập tràn

Tiền nong rủng rỉnh bạc vàng đầy kho.

2. Mừng năm mới phát tài phát lộc

Tiền vô xồng xộc, tiền ra từ từ

Sức khoẻ có dư, công danh tấn tới

Tình duyên phơi phới, hạnh phúc thăng hoa

Xin chúc mọi nhà một năm ĐẠI THẮNG

3. Chúc mọi người đẹp như hoa hồng

Thành công như Cúc

Hạnh phúc như hoa Mai

Phát tài như hoa Pháo

Độc đáo như hoa Lan

An khang như hoa Huệ

Trí tuệ như hoa Sen

4. Chúc các bạn luôn hoan hỉ

Sức khỏe bền bỉ

Công danh hết ý

Tiền vào bạc tỉ

Tiền ra ri rỉ

Tình yêu thỏa chí

Vạn sự như ý

Luôn cười hí hí

Cung hỷ cung hỷ

5. Cung chúc tân niên,

Sức khỏe vô biên,

Thành công liên miên,

Hạnh phúc triền miên,

Túi luôn đầy tiền,

Sung sướng như tiên.

1. Chúc mừng năm mới.Chúc toàn thể gia đình bạn vạn sự như ý,tỉ sự như mơ,triệu triệu bất ngờ,không chờ cũng đến!

2. Chúc bạn 12 tháng phú quý,365 ngày phát tài,8760 giờ sung túc,525600 phút thành công,31536000 giây vạn sự như ý.

3. Năm mới chúc bạn sức khỏe nhiều.Bạc tiền rủng rỉnh thoải mái tiêu.Gia đình hạnh phúc bè bạn quý

Thanh thản vui chơi khỏi nghĩ nhiều.

4. Cung chúc tân niên Sức khỏe vô biên Thành công liên miên Hạnh phúc triền miên Túi luôn đầy tiền Sung sướng như tiên.

 

Đương Thiên Cát Nhật Ngày Lành Tháng Tốt
 
Ngày Tốt Tháng Lành
 
MÙNG 1 SỚM MAI
 
MÙNG 2 ĐẦU THÁNG 1 QUÝ MÃO NIÊN
 

CÁC NGÀY TIỆC THÁNG 1


+ Ngày 06/1: Tiệc Cô đôi Thượng ngàn
+ Ngày 09/1: Tiệc Đức Vua Cha Ngọc Hoàng Thượng Đế
+ Ngày 09/1: Tiệc Cửu Thiên Huyền Nữ Công Chúa
+ Ngày 10/1: Tiệc Quan Hoàng Tám ( Tiệc quan hoàng Bát - Tướng quân Nùng Chí Cao)
+ Ngày 10/1: Tiệc Quan Lớn Đệ Nhất
+ Ngày 12/1: Tiệc Trần Triều Đệ Nhất Vương Cô Quyên Thanh Công Chúa
+ Ngày 15/1: Đại Lễ Thượng Nguyên
+ Ngày 15/1: Tiệc Tản Viên Sơn Thánh
+ Ngày 17/1: Tiệc cô Tân An;
+ Ngày 20/1: Ngày nhà Trần ra quân
+ Ngày 19-21:Tiệc Tứ Vị Vua Bà  (Tại Đền Cờn  - Nghệ An)
+ Ngày 25/1: Hội đồng đại lễ nhà Trần

 

+ Ngày 06/1: Tiệc Cô đôi Thượng ngàn

Sự Tích Cô Đôi Thượng Ngàn Văn Cô Và Đền Thờ Cô

 

Cô Đôi Thượng Ngàn là vị thánh cô thứ hai thuộc hàng Tứ Phủ Thánh Cô trong Tín ngưỡng thờ Mẫu tam tứ phủ của người Việt

Cô nổi tiếng khắp miền thượng ngàn và là một trong những thánh cô được nhiều người biết đến nhất

Ngày hôm nay http://xemboimienphi.vn xin giới thiệu tới bạn đọc một số nét về Cô Đôi Thượng Ngàn

Mời các bạn cùng tham khảo.

 

Ngọc Điện chốn kim môn cô Đôi ra vào
Ngọc Điện chốn kim môn
Danh thơm ngoài cõi.
Tiếng đồn trong cung

 

 

Sự Tích Cô Đôi Thượng Ngàn

 

Cô Đôi Thượng Ngàn vốn là con Vua Đế Thích trên Thiên Cung, được phong là Sơn Tinh Công Chúa. Sau cô giáng sinh xuống đất Ninh Bình làm con gái nhà một gia đình vị quan lang ở chốn sơn lâm.

 

Truyện kể rằng ngày xưa có một vị quan lang họ Hà người Mường, ở vùng Nho Quan, Ninh Bình. Ông vốn nổi tiếng khắp vùng vì đức độ, luôn phát tâm thiện nguyện, cứu giúp dân nghèo. Tuy vậy, hai ông bà đã vào tuổi trạc ngũ tuần, nhưng vẫn chưa có con. Vì vậy nên ông bà lập đàn tế trời cầu tự. Lời cầu xin vọng đến Ngọc Hoàng, ngài động lòng mới sai tiên Cô giáng sinh, đầu thai làm con ông bà. Mười hai tháng sau bà có thai và sinh hạ cô.

 

Lúc cô ra đời có đôi chim khách đến hót không ngừng, mừng tiên cô giáng sinh phàm trần. Năm Cô lên bốn tuổi, gia định vị quan lang chuyển tới làm quan ở Huyện Cao Phong, châu Mai Đà, tỉnh Hưng Hóa. Ở trên vùng cao, nước sinh hoạt thiếu thốn, dưới chân núi Đầu Rồng lại có con suối nước thần, nước trong mát quanh năm, người dân ở đó thường ra suối gánh nước về dùng, cô cũng thường ra đó gánh nước về giúp đỡ ông bà.Thời gian thấm thoát đã trôi qua, năm đó cô mười hai tuổi mà đã xinh đẹp tuyệt trần da trắng, tóc mượt, mặt tròn, lưng ong thon thả.

 

Chuyện kể rằng, Thánh Mẫu Thượng Ngàn yêu mến muốn thử lòng người trần gian, độ cho người có tâm, bèn hóa thành một bà lão đói khát, bệnh tật nằm lả ở gốc cây đa dưới chân núi Rồng. Bà nằm đó kêu rên từng tiếng khó nhọc, cầu mong sự giúp đỡ của mọi người qua lại, thế nhưng chẳng ai chịu ra tay cứu giúp. Đúng vừa lúc cô ra suối gánh nước thấy bà lão đáng thương, cô động lòng thương cảm bèn quỳ xuống vực bà ngồi dậy, cho bà uống nước. Bất chợt tự nhiên trời đất tối xầm, mây đen kéo tới, gió bụi cuốn lên mù mịt. Bà lão hiện thành Tiên Chúa Thượng Ngàn và nói với cô rằng bà chính là đức Diệu Tín Thiền Sư Lê Mại Đại Vương (tức Mẫu Thượng Ngàn). Vì thấy cô là người ngoan ngoãn, hiền lành, đức độ; kiếp trước là tiên nữ trên tiên giới, nghe lệnh Ngọc Hoàng mà hạ phàm báo ân cha mẹ; nên Mẫu độ cho cô thành tiên, trở về bên hầu cận bên cạnh Mẫu, cứu giúp nhân gian. Sau đó Mẫu rút cây gậy khắc đầu rồng bên mình ra trao cho cô. Cô nhận cây gậy rồi trở về nhà, bốn ngày sau thì hóa.

 

Rồi khi về thiên giới, cô được Mẫu Thượng Ngàn truyền cho vạn phép, giao cho cô dạy người rừng biết thống nhất về ngôn ngữ.Lúc thanh nhàn cô về ngự cảnh sơn lâm núi rừng ở đất Ninh Bình quê nhà trong ba gian đền mát cô cùng các bạn tiên nữ ca hát vui thú trên dốc Sườn Bò (nay thuộc xã Văn Phương, Nho Quan).Có khi cô biến hiện ra người thiếu nữ xinh đẹp, luận đàm văn thơ cùng các bậc danh sĩ tương truyền cô cũng rất giỏi văn thơ làm biết bao kẻ phải mến phục.Cô Đôi cũng là tiên cô cai quản kho lộc Sơn Lâm Sơn Trang người trần gian ai nhất tâm thì thường được Cô Đôi ban thưởng nhược bằng có nợ mà không mau trả lễ cô lại bắt đền nặng hơn.

Đền thờ Cô Đôi Thượng Ngàn

 

Hai ngôi đền thờ cô thuộc địa phận Nho Quan, tỉnh Ninh Bình và huyện Cao Phong, tỉnh Hòa Bình – nơi gắn với truyền thuyết sinh hóa của Cô.Đền Bồng Lai (Còn gọi là đền Bồng Lai Hạ) ở Nho Quan, Ninh Bình là nơi Cô được giáng sinh và Đền Bồng Lai Thượng ở Cao Phong, Hòa Bình là nơi Cô hóa.

 

Ngôi đền Bồng Lai Hòa Bình nằm trong khu du lịch tâm linh núi đầu Rồng – Thị Trấn Cao Phong – Hòa Bình và là nơi thờ Cô Đôi Thượng Ngàn. Đền còn gọi là: Đền Thượng Bồng Lai, hay Bồng Lai Linh Từ. Quả thực, nếu ai đã từng đến đây, đều phải công nhận đúng là chốn “Bông Lai tiên cảnh”. Đây là một ngôi đền khang trang, tố hảo đẹp bậc nhất Việt nam.

 

Cô Đôi Thượng Ngàn còn được thờ tại Đền Cô cách đền Mẫu Đông Cuông khoảng 500m. Ngôi đền này được xây dựng với quan niệm rằng cô là tỳ nữ bên cạnh Mẫu Thượng Ngàn. Khu du lịch Hàn Sơn – Thanh Hóa cũng có một ngôi Đền Cô Đôi Thượng Ngàn. Ngoài ra, Cô Đôi Thượng Ngàn chủ yếu được phối thờ tại các cung Tứ Phủ Thánh Cô hoặc một ban riêng ở các đền phủ.

 

Văn Cô Đôi Thượng Ngàn

Văn cô Đôi Thượng Ngàn thứ nhất

 

Thiên Thai là cảnh bồng lai
Tấu Cô Đôi Thượng đại tài hái hoa
Hầu vua hầu mẫu ba toà
Tiếng tăm lừng lẫy chúa bà yêu thương
Về đồng đánh phấn soi gương
Lược ngà chải chuốt vành dây đội đầu
Rong chơi quán Sở tần Lâù
Xe giá lên chầu thưọng đế vua cha
Đệ tử Cô vô số hằng hà
Chiêu tài tiếp lộc gần xa cho đồng
Hầu vua hầu mẫu bơ toà
Vua cha cũng quý, chúa bà yêu thương
Về đồng đánh phấn soi gương
Khăn xanh lấy chít vành dây đội đầu
Rong chơi quán Sở Tần lâù
Loan giá lên chầu thưọng đế vua cha
Đền thờ Cô vô số hằng hà
Ban tài tiếp lộc gần xa cho đồng)
Đứng trên ngàn rừng xanh ngan ngát
Thấy cô về ngỡ Phật quan âm
Tay đàn miệng hát ca ngâm
Điểm đa điểm đót tiếng trầm nhặt khoan
Vượn trên non ru con rầu rĩ
Dưới suối ngàn chin năn nỉ véo von
Vui về thú cảnh Đông cuông
Trên ngàn cô thượng ca ngâm chơi bời
Cảnh núi rừng sương rơi lác đác
Thú hữu tình càng ngự càng vui
Ba gian lầu mát thảnh thơi
Sớm rong đỉnh núi tối ngồi sườn non
Ca rằng tang tính tình tang
Ai ơi có biết cô ngàn tôi chăng
Bốn bề hiu quạnh vắng tanh
măng tre măng lứa mọc xanh đầy ngàn
Chắp tay bái lạy cô ngàn
Sơn lâm công chúa giáng đàn chứng đây
Trần gian hồ dễ ai hay
mời cô lai giáng đền này chứng minh
Hiệu cô là công chúa Sơn tinh
mặt tròn vành nguyệt má in phấn hồng
Da cô trắng tựa tuyết đông
tóc dà dà biếc lưng ong dịu dàng
Chân cô đưa nhởn đưa ngang
Bước nào bước ấy tiên nàng nguyệt nga
Chạnh lòng vàng đá người ta
Chau mày quân tử xót xa yêng hùng
Mỗi năm đẹp một não nùng
Dạy chim oanh hót bạn cùng văn nhân
vẻ nào vẻ chẳng thêm xuân
éo le nhiều nỗi thanh tân chơi bời
Tốt tươi miệng nở hoa cười
Đáng xinh đáng lịch đáng người thuyền quyên
nàng ân nàng ái kề bên
Cô Lan cô Huệ chúa tiên thượng ngàn
Non xanh nước biếc suối vàng
Đông cuông cảnh ấy lại càng lâng lâng
có phen cô dạy ngưòi rừng
nói ra trăm tiếng giống chung ngôn từ
Cô theo hầu Diệu tín thiền sư
Anh linh nổi tiếng Đông Cuông Từ Sơn Lâm
Ngự sơn lâm đông cuông tuần quán
Cô Đôi ngàn vạn phép anh linh
Tiên Cô biến hoá hiện hình
Cung thỉnh các bộ sơn tinh ngự về
Chữ biển đề Đại vương Lê Mại
Phép Khuông phù quốc thái dân an
Thỉnh cô chứng giám đàn tràng
Độ cho đồng tử an khang đời đời.

 

 

Văn cô Đôi Thượng Ngàn thứ hai

 

Ngọc điện chốn kim môn, cô ra vào ngọc điện chốn kim môn
Danh thơm ngoài cõi tiếng đồn trong í i cung.

 

Xinh thay một thú cô Đôi ngàn
Bầu trời cảnh phật í i ì í i phong quang bốn mùa
Trên bát ngát trăm hoa đua nở
Dưới cảnh bầy cầm thú đua chơi i ì í a ới a à ới a a…
Chim bay phấp phới mọi nơi
Cá theo ngược nước í i i ì í i lượn bơi vẫy vùng
Trên rừng tùng gió rung lác đác
Đỉnh sườn non đá chất cheo leo
Kìa dòng sông Thương nước chảy trong veo i ì í a ới a à ới a a…
Sông Thương nước chảy trong veo
Thuyền xuôi người ngược í i ì í i có tiếng hò reo vang lừng
Nhìn đá núi mấy tầng cao thấp
Ngàn cỏ hoa tăm tắp màu xanh i ì í a ới a à ới a a…
Cô chơi bốn mùa gió mát trăng thanh
Hoa khoe sắc thắm í i ì í i đua tranh mọi màu
Niềm thích thú một bầu phong cảnh
Mùi cơm lam thịt thính cô ưa.
Cô chơi Đồng Đăng, ao Cả, chợ Bờ i i ì i…

 

Bài sai đố triệu lục cung
Nàng ân nàng ái vốn dòng sơn trang
Tính cô hay măng trúc măng giang á a a á à à a…
Thiều quang sáng tỏ lưng trời
Một màu xuân sắc tốt tươi rườm rà
Trên ngàn xanh lắm quả nhiều hoa á a a á à à a…
Ngàn xanh lắm quả nhiều hoa
Cô Đôi dạo gót vào ra sớm chiều
Chiếc hồ mây nặng trĩu lưng đeo á a a á à à a…
Chân cô đã bước tới đâu
Gieo mầm nhân nghĩa nối cầu vinh hoa
Cô đẹp sao Bắc đẩu ngân hà á a a á à à a…
Á a a á à à a…

 

Ế ê ê ề ê ế …..
Dốc cao mặc dốc băng băng qua đèo,đèo còn xa.
Dốc cao mặc dốc băng băng qua đèo,đèo còn xa
Ánh trăng mở chiếu.soi bên đồi cô đẹp làm sao.
Ánh trăng mở chiếu .soi bên đồi cô đẹp làm sao
Trời mịt mùng núi ngàn cheo leo,núi non mịt mùng.
Nước chảy róc rách ôi nước chảy về đâu
Nước tuôn rì rào nước chảy rì rào.

 

Những nàng tiên ca hát vang muôn lời ca.
Cô lên ngàn cô xuống núi.
Hú vang vang cả núi đồi
Ơi rừng ơi núi ơi rừng ơi núi ơi …ế ê ê ề…..
Ngày 5 cho chí ngày 10 là ngày phiên chợ đồng đăng kỳ lừa
Bước nhanh chân kẻo chợ về trưa bán hàng chưa hết lại mua hàng về.
Á a a a á à a a
Á…. a…. a… a… á …à …a.. a..
Xe loan thánh giá hồi cung

 

Văn Cô Đôi Thượng Ngàn thứ ba

 

Đứng trên ngàn rừng xanh ngan ngát
Thỉnh cô về mộ Phật Quan Âm
Tay đàn miệng lại ca ngâm
Thánh tha thánh thót tiếng trầm nhặt khoan
Vượn trên non ru con rầu rĩ
Dưới suối ngàn chim nỉ véo von
Vui về thú cảnh lâm sơn
Cô mường cô mán hát ngâm chơi bời
Hát tiếng đầy tiếng với lã chã
Thú hữu tình càng ngự càng vui
Ba gian đền mát thảnh thơi
Sớm rong sườn núi tối ngồi đầu non
Trúc véo von đàn thông lừng lẫy
Nước đầu ghềnh rây rẫy khoan khoan
Hát rằng tang tính tình tang
Ai ơi có biết cô ngàn tôi chăng
Tặc thụ khiểu là á mị tắc
Tặc thụ nắm là mị phí giao
Phất phơ cô tựa non cao
Rừng kia núi nọ ra vào sơn lâm
Khi măng vầu cơm lam gạo lốc
Mái sim cùng rau luộc dài vây
Thỉnh cô giáng hạ chứng tri
Cô Mường cô mán một khi giáng đàn
Hát líu lường líu lo líu liếc
Giá ngự đồng trạc quyết anh linh
Thỉnh mời Công Chúa Sơn Tinh
Tay ngần ngần trắng má xinh vẻ hồng
Vẻ phù dung dịu dàng cách điệu
Nét đoan trang yểu điệu phi phong
Hây hây da trắng tuyết đông
Tóc rà rà biếc lưng ong dịu dàng
Thoảng mùi hương chân đi nhã nhặn
Mặc áo xiêm chân dận hài hoa
Trạnh lòng vàng đá người ta
Chau mày quân tử xót xa anh hùng
Cách não nùng nhiều bề lịch sự
So tài cao sĩ tú thi nhân
Mỗi năm là một vẻ xuân
Thanh tân đòi một tấm thân vạn mười
Vẻ tốt tươi miệng cười hoa nở
Bức thanh thanh tố nữ thuyền quyên
Cô ân cô ái kề bên
Cô lan cô huệ chúa tiên thượng ngàn
Hợp bàn loan non bồng nước nhược
Đàn ngũ huyền lầu thuộc Chiêu Quân
Cảnh thanh xuân lại thêm xuân
Éo le nhiều nỗi thanh tân chơi bời
Giả làm người thướt tha ghẹo khách
Dạy chim thiêng sênh phách véo von
Khi cô dạy vượn ru con
Réo ra réo rắt ní non buồn rầu
Loài cầm thú gọi nhau réo rắt
Dựng ngư ca tiểu dịch lừng lừng
Có phen cô dạy người rừng
Nói ra trăm tiếng giống chung ngôn từ
Đất Trang Chu hiệu là Diệu Tín
Đức thuyền sư nổi tiếng anh linh
Lạng Sơn chốn ấy cảnh thanh
Đông Cuông Tuần Quán hữu tình thanh tao
Giữa năm thân anh hào giáng khí
Thác đinh sinh sơn trị chúa tiên
Vốn người hình thể phương viên
Trâm anh lệnh tốc nên hiển hào
Bản dao cao cha là chúa mọi
Phép thần tiên khắp cõi ai đương
Tổ sư đắc đạo sơn trang
Sinh ra một nàng vạn phép truyền cho
Phán thụ các di sơn mọi phép
Giáng mo phù trượng quyết anh linh
Nào bà Diệu Nghĩa tàng hình
Thỉnh mời các bộ sơn tinh ngự về
Chữ biển đề Địa Vương Lê Mại
Bảo hộ cho tai nạn băng tiêu
Đời đời phúc lộc phong nhiêu
Hây hây ngày Thuấn tháng Nghiêu thọ trường.

 

Hầu Giá Cô Đôi Thượng Ngàn

 

Cô Đôi Thượng rất hay ngự về đồng vì danh tiếng Cô lừng lẫy ai ai cũng biết đến đệ tử Cô đông vô số và Cô cũng hay bắt đồng

Trong đại lễ khai đàn mở phủ người ta thường dâng lễ vàng cây lên 4 vi tiên cô là Cô Đôi, Cô Bơ, Cô Chín và Cô Bé

Cô Đôi thường là giá Cô ngự về đầu tiên mở khăn cho hàng Thánh Cô để chứng lễ

Cô về đồng thường khai quang rồi múa mồi, múa tay tiên, hái tài hái lộc ban cho đệ tử

Trang phục áo xanh ngắn đến hông, quầy đen hoặc quầy hoa.Đầu đội khăn voan kết thành hình đóa hoa hoặc khăn vấn, hai bên dắt hoa.

 

 

 

 

+ Ngày 09/1: Tiệc Đức Vua Cha Ngọc Hoàng Thượng Đế

 

Trong tín ngưỡng Tam Tứ Phủ Đức Vua Cha là những vị vua cha có quyền năng tối cao đứng đầu hàng vị các vị thần linh

Gắn với việc thờ đức Vua Cha bên cạnh Vua Cha Ngọc Hoàng hay Ngọc Hoàng Thượng Đế

Thì còn có Vua Cha Bát Hải, Vua Cha Diêm Vương, Vua Cha Nhạc Phủ

Trong bài đọc sau đây http://xemboimienphi.vn sẽ giới thiệu tới bạn đọc về truyền thuyết đền thờ và cách sắm lễ Ngọc Hoàng Thượng Đế.

Ngọc Hoàng Thượng Đế (Chữ Hán: 玉皇上帝)

Cũng gọi Ngọc Hoàng Đại Đế (玉皇大帝), gọi tắt là Ngọc Hoàng (玉皇) hay Ngọc Đế (玉帝) trong quan niệm tín ngưỡng của dân gian và Đạo giáo tại Trung Quốc và tại Việt Nam, Triều Tiên, Nhật Bản. Là tước vị nói đến vị vua tối cao của bầu trời, là chủ của vạn vật.

Quan điểm thuần Việt cho rằng: Ngọc Hoàng Thượng đế (Vua cha Ngọc Hoàng, Cha Trời, ông Trời) là vị cha tạo hóa, sinh ra vạn vật từ con người đến cảnh vật, cây cỏ... Là đấng quyền uy tối cao nhất. Ngài tồn tại hiện hữu không cố định tại một tầng trời nào. Và chỉ có một vua cha tạo hóa là lớn nhất chứ không có nhiều Ngọc Hoàng, hay nhiều vị vua Trời nào khác cai quản con dân Việt.

Theo quan điểm của người Trung Quốc nói chung: Nguyên hình của Ngọc Hoàng Thượng đế xuất phát từ Thượng đế - Hạo Thiên Thượng đế, tên gọi vị thần bầu trời tối cao của Trung Hoa cổ đại, ngài cũng đã đắc quả Phật danh hiệu là Thanh Tịnh Giác Vương Như Lai nhưng hiện tướng là Ngọc Hoàng. Cũng có thể Ngài chính là Thiên Đế cai quản tầng Trời thứ 2 có 33 cõi Trời với 32 cõi Trời chư hầu chia làm 8 phương Trời (mỗi cõi Trời này đều có 1 vị Vua Trời cai quản riêng) và cõi Trung Ương, cõi Trung Ương là nơi Ngài ngự (tầng Trời này là Đao Lợi thiên).

Qua con mắt Đạo giáo, Ngọc Hoàng Thượng đế là 1 vị tiên đã đạt tới bậc Thánh được cho là người sáng lập nên thiên đình, ngự trên tòa điện như vị vua ở trên mây mà cai quản chúng thần thánh tiên của Tam giới. Hình tượng Ngọc Hoàng Thượng đế hoặc nguyên bản "Hạo Thiên" có ảnh hưởng rất lớn trong văn hóa tín ngưỡng của Việt Nam, Ngọc Hoàng bên cạnh là vị vua trời, còn được gọi một cách đại khái là Ông Trời, vô cùng nhân từ. Ngoài ra phía dưới còn có tầng Trời Tứ Thiên Vương cũng là các vị vua trời dưới quyền của Ngài, Tứ Thiên Vương cũng được xưng là Thượng Đế bởi mỗi vị cũng là một vị Vua cõi Trời cai quản cõi Trời riêng của mình và Tam Giới, điều này càng làm tôn quý địa vị của vua ở tầng Trời phía trên là tầng Trời thứ 2 Hạo Thiên Ngọc Hoàng Thượng Đế.

Thời nhà Tống, tôn hiệu đầy đủ của ông là Hạo Thiên Ngọc Hoàng Thượng đế (昊天玉皇上帝). 

Lịch sử

Người Việt Cổ đã sử dụng thần thoại Thần Trụ Trời để giải thích về nguồn gốc của thế giới. Sau này khi đạo Lão từ Trung Quốc du nhập vào Việt Nam thì Ông Trời mới được gọi là Ngọc Hoàng.

Theo Đạo giáo Trung Quốc thì Ngọc Hoàng Thượng Đế là vị đứng đầu trong Tứ Ngự, được Tam Thanh lựa chọn ra để cai quản các Thiên Vương cõi Trời và chư Thần Tiên trong Tam Giới là vị Đại Diện cho Trời tức Tạo Hóa, duy trì và chấp chưởng giám sát Thiên Điều và luật lệ, Ngài còn có thể sữa đổi, bổ sung và đặt ra luật lệ cho phù hợp với sự cai quản của Ngài trong Tam Giới. Nếu không tính đến Tam Thanh thì Ngọc Hoàng Thượng Đế là vị vua trời tối cao với quyền hạng tối thượng. Tam Thanh sau khi lập ra Ngọc Hoàng Thượng Đế thì ba vị này đều rút về quy ẩn và tiếp tục tu và giảng Đạo tại chính Cung của từng vị và dường như không còn can thiệp vào chuyện của Tam Giới nữa, nhằm bảo vệ quyền hạng của Ngọc Hoàng Thượng Đế đương vị, đúng với cốt cách của bậc Thánh tối thượng không còn vướng vào quyền lực, rời xa quy luật Tam Giới, an lạc với thú vui tu Đạo. Ngọc Hoàng Thượng Đế cai quản tất cả các Thiên Vương (vua Trời) của các cõi Trời chư hầu, các Long Vương (vua Rồng) của Thuỷ vực ao hồ sông biển, các Diêm Vương (vua cõi Âm Giới - Địa Ngục).

Từ thượng cổ, người Trung Quốc đã tôn thờ một vị vua trên trời, gọi là Ngọc Hoàng. Tuy nhiên từ đời Thương thì Ngọc Hoàng đã hoàn toàn chỉ là một vị vua cai quản cõi Tiên giới, không có quyền năng sáng thế. Vị Vua trời này được cho là sống tại một cung điện tại chính giữa bầu trời, tại Thiên Cực Bắc, điểm này lại tương đồng với nơi cư ngụ của Chấn Vũ Thiên Đế. Đến các triều đại về sau, vị thần này được gọi dưới nhiều danh hiệu khác nhau:

 

  • Hoàng Thiên, Hạo Thiên, Thiên Đế: đời Chu

  • Thái Nhất: Thiên quan thư trong Sử ký của Tư Mã Thiên dùng từ này

  • Thái Vi Ngọc Đế, Tinh Chủ Thái Vi viên: thời Hán Vũ đế

  • Phạm Thiên Ngọc Đế, Đế chủ Thiên Thị Viên: thời Hán Tuyên đế

  • Diễm Hoa Thiếu Vi Ngọc Đế, Thiên Tiên Định Vị: thời Hán Ai Đế

  • Tập tin:Ngọc Hoàng chùa sổ.jpg

    Ngọc Hoàng ở Hội Linh Quán, chùa Sổ, Hà nội

    Tập tin:Chùa Linh tiên quán ngoc hoang.jpg

    Tượng Ngọc Hoàng ở Việt Nam, đời nhà Mạc, Linh Tiên Quán, Hà Nội

    Tử Vi Ngọc đế: đời Hán Quang Vũ đế

  • Ngọc Hoàng Đạo Quân, Cao Thượng Ngọc Đế: thời Nam Triều

  • Hạo thiên Kim khuyết Vô thượng Chí tôn Tự nhiên Diệu hữu Di la Chí chân Ngọc hoàng Thượng đế, Huyền khung Cao thượng Ngọc hoàng Đại đế.

  • Đến đời Minh, danh hiệu đầy đủ là: Cao thiên Thượng thánh Đại từ Nhân giả Ngọc Hoàng Đại Thiên tôn Huyền khung Cao Thượng đế. (Nghĩa là Vị thánh tối cao trên đỉnh trời, vô cùng nhân từ, là Ngọc Hoàng, bậc Thiên tôn vĩ đại, Huyền diệu lớn lao làm chủ trên cao).

 

Ngoài ra Ngọc Hoàng Thượng đế còn được gọi bằng các tôn hiệu: Thiên Đế, Ngọc Đế, Đế Tể

Trong đạo Mo của người Tráng (một dân tộc gần gũi của người Việt Nam) thì có một vị thần cai quản bầu trời tên là bố Lạc Đà (phiên âm Hán việt từ LuoTuo, cũng có thuyết đồng nhất Lạc Đà chính là Lộc Tục). Biểu tượng của bố Lạc Đà chính là hình con chim Lạc trên Trống Đồng của người Việt. Có lẽ các quý tộc người Hoa của thời đại Lý Trần đã dùng hình ảnh của ông để đặt tên cho giai đoạn huyền sử của mình là Hồng Bàng (Bàng mang nghĩa là chim).

 

Nguồn gốc

Theo truyền thuyết dân gian phổ biến ở Trung Quốc thì Ngọc Hoàng Thượng đế vốn người trần, tên là Trương Hữu Nhân, là trang chủ ở Trương Gia Loan, quận Thông Châu, thủ đô Bắc Kinh. Vì có tính khiêm nhường và kiên nhẫn, ông được gọi là Trương Bách Nhẫn; do hay giúp đỡ người khác, tu luyện thành tiên nên ông được gọi là Đại Quý Nhân.

Trương Hữu Nhân có một vợ họ Vương, tức Tây Vương Mẫu và bảy cô con gái: Đại Thư, Nhị Thư, Tam Thư, Tứ Thư, Ngũ Thư, Lục Thư và Trương Thất Nữ. Thuyết khác nói vợ của Ngọc Hoàng có hiệu là Thiên Hậu, có chín con trai. Em gái Ngọc Hoàng là Dao Cơ lấy người phàm trần là Dương Thiên Hựu sinh ra Nhị Lang. Cũng theo truyền thuyết Táo Quân ở Trung Hoa, vì Trương Lang cùng họ với Ngọc Hoàng Thượng đế, nên được Ngọc Hoàng đã phong cho Trương Lang làm Táo vương.[1] Ngọc Hoàng ở tại một cung điện trên trời gọi tắt là điện Linh Tiêu, cùng với vợ mình là Tây Vương Mẫu.

Trong tiểu thuyết Tây du ký, Ngọc Hoàng được mô tả như một vị vua nhân từ nhưng không có tài năng, không có chính kiến, chỉ biết trông chờ sự giúp đỡ của các thần tiên khác. Chính vì vậy mà nhân vật Tôn Ngộ Không đòi phế bỏ Ngọc Hoàng để mình lên thay.

Trong đạo Mo của số ít người Tráng thì Ngọc Hoàng tên thật là bố Lạc Đà, có vợ là mẹ Hoa. Họ có với nhau tám người con trai và một người con gái, đều là thần mặt trời. Nhưng bảy người con trai đã bị nữ thần Đà Giang dùng cung tên bắn chết, người con trai cuối cùng nhờ bôi tro lên mặt trở thành mặt trăng nên mới được tha chết, để rồi chỉ còn lại một nữ thần mặt trời của thế gian.

Theo một thuyết chịu ảnh hưởng Phật giáo Ấn Độ thì Ngọc Hoàng là vua của cõi trời thứ hai từ dưới lên cõi trời Đao Lợi[2]. Cõi này có 32 nước trời chư hầu và 1 nước trời lớn ở giữa, tổng cộng là 33 nước trời. Vua cõi Đao Lợi là Đế Thích. Ông điều hành, thực thi pháp luật ở tầng Đao Lợi và tầng trời thấp nhất là Tứ Thiên Vương. Cũng như trong truyền thuyết Trung Hoa về Ngọc Hoàng, Đế Thích không phải đấng sáng tạo mọi thứ và toàn năng mà chỉ là vua trời. Vua tầng trời Nhị thiền tầng thứ 8 là Phạm Thiên Baka, vốn còn cao hơn cả "đấng tối cao trong Ấn giáo" chỉ là vua tầng trời thứ 7, do thần thông quá cao, tuổi thọ quá nhiều khó mà tính đếm, lại sinh ra đầu tiên trong tầng trời của mình, nhưng không đủ khả năng để nhận thức được rằng có những tầng trời cao hơn, nên nghĩ là mình sáng tạo mọi thứ, sau này được Phật Thích Ca chỉ dạy và đã quy y Phật. Chiếu theo Kinh Tạng Phật Giáo thì thực chất Ngọc Hoàng Thượng Đế chính Thích Đề Hoàn Nhơn hay Đế Thích Thiên vua tầng Trời thứ 2, ngự tại thành Thiện Kiến, còn theo Trung Quốc thì là tại Nam Thiên Môn Linh Tiêu Điện. Ngài có câu chú hiệu theo Kinh Tạng Phật Giáo là : Nam mô Da Đà Nhân.

 

Vai trò

Ngọc Hoàng Thượng đế là vị vua của Thiên đình, cai quản toàn bộ bầu trời, mặt đất, biển cả, và cõi âm phủ. Ngọc Hoàng đứng đầu tất cả các thần, tiên, Thánh, Nhân có quyền lực tối cao với các quyền năng tự nhiên như mây mưa sấm chớp, nước lửa... Ngọc Hoàng có quyền ra lệnh cho các vị thần thực hiện các ý định của mình, thường là những điều tốt đẹp. Ngọc Hoàng cũng là người xét phong cho các vị thần, hoặc xét phạt các thần tiên và thánh nhân.

Trong Đạo giáo, Ngọc Hoàng vẫn ở dưới Tam Thanh, do Nguyên Thuỷ Thiên Tôn chỉ định làm vua.

Trong đạo Mo, bằng đôi cánh của mình, bố Lạc Đà đã kéo bầu trời bay lên cao tách khỏi mặt đất, nhờ thế vạn vật mới có thể sinh trưởng được. Vì lẽ đó ngày tận thế trong đạo Mo chính là ngày mà "Trời Sập".

Theo đạo Cao Đài, Ngọc Hoàng Thượng đế còn được gọi với nhiều danh từ khác nhau: Chúa Trời, Ông trời, Đại Từ Phụ, Đấng Tạo Hóa, Đức Chí Tôn...là đấng tạo hóa sáng lập ra càn khôn vũ trụ và vạn vật, là nguồn cội của các tôn giáo, là đấng tối cao toàn năng, làm chủ cả thần, thánh, tiên, phật.

 

Việt Nam

Trong dân gian

Việc thờ Ngọc Hoàng Thượng đế rất phổ biến trong tín ngưỡng tôn giáo của người Việt. Các chùa miền Bắc Việt Nam từ lâu đã phối thờ Ngọc Hoàng Thượng đế và các vị thần khác như Nam Tào, Bắc Đẩu, Phạm Thiên, Đế Thích… Đây là dấu ấn của tư tưởng Tam giáo đồng nguyên (Nho – Phật – Đạo cùng một nguồn mà ra). Hàng năm, vào ngày sinh Ngọc Hoàng là mùng 9 tháng Giêng, thường được chọn là ngày làm lễ cúng vía Trời hay lễ tế Trời để tôn vinh Ngọc Hoàng thượng đế.

Trong đạo Mẫu của Việt Nam, Ngọc Hoàng được gọi là Vua cha Ngọc Hoàng, là cha của Thánh Mẫu Liễu Hạnh, là đấng thần chủ tối cao. Ngọc Hoàng được cho là ở và làm việc tại một cung điện trên trời gọi là Thiên Phủ, nơi có rất nhiều tiên nữ hầu hạ, và các thiên tướng, thiên binh canh gác.[3] Là vị Thánh cao nhất trong đạo Mẫu nên Ngọc Hoàng thượng đế thường có ban thờ riêng trong các đền và phủ thuộc hệ thống tín ngưỡng thờ Mẫu Tam Phủ.

Truyện dân gian Việt Nam kể con cóc lên cầu Ngọc Hoàng làm mưa. Ngọc Hoàng nhận lời rằng mỗi khi cóc gọi làm mưa xuống trần gian. Câu chuyện nổi tiếng khác là "Ngọc Hoàng và người học trò nghèo" thì lại ca ngợi quyền năng và sự công bằng của Ngọc Hoàng.

Dân gian Việt Nam có rất nhiều bài thơ có chữ trời. Thường nhất là những câu mà trời dùng để chỉ toàn bộ cảnh vật thiên nhiên tồn tại quanh con người, trước hết là không gian và cảnh vật trên không. Bên cạnh đó trời như một lực lượng siêu tự nhiên, một đấng quyền uy quyết định tất cả: Trời làm bão lụt mênh mông/Sông khô hồ cạn, cá trên đồng còn chi. Trời còn làm ra vạn vật, thậm chí cả cái sướng, cái khổ của con người: Trời sinh cái cực mần chi/Bán thì nỏ được, cho thì không ai xin Hay câu ca dao: Lạy trời trăm lạy trời ơi/Trông cho trong ruộng ngoài khơi được mùa.

Trong ca dao Việt có nhiều câu nhắc đến đạo trời: Theo nhau cho trọn đạo trời/Dẫu mà không chiếu, trải tơi mà nằm. Vì là đạo nên đạo trời cũng có vị trí, giá trị trong tâm linh người Việt như những đạo khác nên trời và phật thường được đặt gần nhau, được xem như những đấng thiêng liêng như nhau, những đạo giống nhau: Chắp tay vái lạy bụt trời/Gió đông phẳng lặng, đạo trời theo nhau.

Nhà bác học Nguyễn Văn Huyên đã nhận xét: “Ông trời đối với người dân quê Việt Nam là nguồn gốc mọi sự sống và mọi lẽ công bằng. Đấy không phải là một vị thần trừu tượng và không thể hiểu. Người ta xem ông như một con người, vua của các vua. Ông có một triều đình, ông điều khiển tất cả cuộc sống trên trời và dưới đất. Ông trừng phạt kẻ xấu và ban thưởng người tốt”.[4]

Di tích thờ Ngọc Hoàng

 

Ở Việt Nam có các di tích sau đây thờ Ngọc Hoàng Thượng đế (chỉ thống kê nơi thờ chính, không tính việc phối thờ Ngọc Hoàng trong rất nhiều đền, chùa và điện thờ Mẫu Tam Phủ):

 

  • Đàn Kính Thiên Tràng An ở xã Gia Sinh, Gia Viễn, Ninh Bình là nơi thờ Ngọc Hoàng Thượng đế cùng các vị Phạm Thiên, Đế Thích, Nam Tào, Bắc Đẩu với Lễ tế Thiên được diễn ra hàng năm.

  • Đàn Nam Giao thuộc di tích cố đô Huế là nơi các vua nhà Nguyễn tổ chức lễ tế trời đất vào mùa xuân hàng năm. Lễ tế Nam Giao là nghi lễ quan trọng bậc nhất dưới chế độ quân chủ vì chỉ nhà vua mới có quyền làm lễ tế Giao, tức là tế Trời Đất, nhằm khẳng định tính chính thống của triều đại, uy quyền của Hoàng đế tuân theo mệnh trời mà cai trị dân chúng.

  • Đền Đậu An tại thôn An Xá, xã An Viên, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên là nơi thờ Ngọc Hoàng Thượng đế cùng các thiên thần.[5]

  • Chùa Ngọc Hoàng ở thôn Đại Lai, xã Đại Lai, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh.

  • Chùa Ngọc Hoàng toạ lạc tại số 73 đường Mai Thị Lựu, phường Đa Kao, quận 1, TP.HCM, vốn là một ngôi điện thờ Ngọc Hoàng Thượng đế.

  • Nhà thờ họ Trương Việt Nam tại thị trấn Thiên Tôn, Hoa Lư, Ninh Bình thờ Ngọc Hoàng Thượng đế với tên húy Trương Hữu Nhân hay Trương Ngọc Hoàng.

  • Điện Bồ Hong trên đỉnh núi Cấm thuộc xã An Hảo, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang.[6]

  • Chùa Vân An ở thị trấn huyện Bảo Lạc, Cao Bằng thờ Ngọc Hoàng Thượng đế và Quan thế âm Bồ Tát với lễ hội Lồng Tồng hằng năm được tổ chức vào ngày mùng 9 tháng Giêng, ngày sinh của Ngọc Hoàng Thượng đế.[7]

  • Đền Ô Xuyên, xã Cổ Bì,Bình Giang, Hải Dương thờ Ngọc Hoàng Thượng đế và 5 vị Thành hoàng làng. Tương truyền, đây là nơi Ngọc Hoàng thường xuống chơi du ngoạn.

 

Đức Ngọc hoàng thượng đế là ai? Truyền thuyết Đức Vua Cha Thiên Phủ

 

 

Ngọc Hoàng Thượng Đế là vị thánh chủ của Thiên Đình trong quan niệm của cả người Trung Quốc và Việt Nam. Ngài có nhiều tên gọi khác nhau như Ngọc Hoàng Đại Đế, Ngọc Đế hay Vua Cha Thiên Phủ.

Ngọc Hoàng Thượng Đế là đấng thần chủ tối cao. Ngài đứng đầu các vị thần, tiên. Ngài có quyền lực điều khiển vạn vật thế gian, gió mây sấm chớp, … 

Có rất nhiều truyền thuyết xung quanh việc xuất thân của ngài. Theo một số phim ảnh tiểu thuyết thì ngài là người phàm đã tu luyện qua một nghìn bảy trăm năm mươi kiếp. Mỗi kiếp mười hai vạn chín nghìn sáu trăm năm. Theo truyền thuyết này thì ngài là người có quyền hạn và tu vi lớn nhất lục giới (gồm Nhân, Thần, Ma, Yêu, Quỷ, Tiên) nên các chư thần đều kính mộ ngài phong làm Đế. Thiên Đế phân chia pháp lực cho các thần cai quản các nơi với các chức vị khác nhau. 

Tín ngưỡng bản địa thờ Ngọc Hoàng Đại Đế

Tại Việt Nam, người Việt cũng tín thờ vị thần linh có quyền phép tối cao Ngọc Hoàng Thượng Đế. Truyền thống này được duy trì bao đời nay. Có nhiều ý kiến cho rằng, tục thờ Ngọc Hoàng Đại Đế là do sự du nhập của Phật Giáo Ấn Độ và Đạo Giáo Trung Quốc kết hợp với sự biến đổi theo văn hóa bản địa của người Việt mà hình thành nên. Tuy nhiên thực tế ngôi ĐỀN ĐẬU AN HƯNG YÊN có lịch sử hơn 2200 năm thờ Ngọc Hoàng Đại Đế lại minh chứng đây là tín ngưỡng bản địa.

Bởi vì, đền Đậu An thờ Ngọc Hoàng Thượng Đế trong đền với niên hiệu “Thiên Định”. Theo các ghi chép tại đền thì ngôi đền được xây dựng từ năm 226 TCN. Tại thời điểm đó, nước ta chưa chịu ảnh hưởng bởi văn hóa người phương Bắc. Theo chính sử thì mãi đến năm 218 TCN thì nhà Tần mới bắt đầu đánh chiếm đất Việt. Lúc ấy, Văn Lang, Âu Lạc là những quốc gia hoàn toàn độc lập, không liên quan đến phương Bắc. Tại đền còn lưu giữ câu đối:

“Thiên Định Kỷ Nguyên, Thụy Ứng Ngọc Hoàng giáng lai

Địa linh thiên cổ, điện đài thượng đế ngự long đầu.”

Tức:

“Thiên Định năm xưa, Thụy Ứng Ngọc Hoàng xuống hạ thế

Đất thiêng nghìn năm tuổi, điện đài thượng đế ngự đầu rồng.”

Đức Vua Cha Thiên Phủ trong tín ngưỡng Tứ Phủ

Trong tín ngưỡng tứ phủ thì ngọc hoàng được gọi là Vua Cha Thiên Phủ. Ngài là cha của Mẫu Liễu Hạnh, Liễu Hạnh Công Chúa. Là đấng thần chủ tối cao.

Cũng giống như quan niệm dân gian, trong Tam Tứ Phủ Việt Nam, ngài là vị vua của Thiên Đình. Ngài cai quản toàn bộ bầu trời, mặt đất, biển cả, và cõi âm phủ. Ngọc Hoàng đứng đầu các vị thần tiên, có quyền lực tối cao, và quyền điều khiển gió mưa sấm chớp,… Ngài có quyền chỉ định các vị thần thực hiện theo ý định của mình. Thường là những ý định tốt đẹp cho muôn dân. Ngoài ra, ngài cũng là người xét phong cho các vị thần hay xét phạt các vị thần tiên. Nếu bạn đọc để ý thì sẽ thấy “Ngọc Hoàng” xuất hiện ở một số thần tích của một số vị thần. 

Cần chú ý gì khi sắm lễ Ngọc Hoàng Thượng Đế theo tín ngưỡng Tứ Phủ

Theo tín ngưỡng Tứ Phủ, lễ sắm đơn giản dâng Ngọc Hoàng Thượng Đế tại đền thờ ngài thường bao gồm các thức vật: một đĩa hoa, một đĩa quả gồm nhiều loại quả, cơi trầu, quả cau, cút rượu, xôi thịt, thẻ hương, giấy tiền và một cánh sớ.

Sau khi dâng những thức lễ này trên ban thờ thánh, bạn chờ hết một tuần hương rồi hạ lễ. Riêng cánh sớ và giấy tiền đem đi hóa tại nơi hóa sớ của đền.

 

 

Đền thờ Ngọc Hoàng Thượng Đế

Ngọc Hoàng Thượng Đế là vị thần chủ tối cao được nhân dân tín thờ. Ngài được thờ tự tại nhiều ngôi đền, chùa trên khắp cả nước. Tuy nhiên, hai ngôi đền nổi tiếng linh thiêng thờ Ngọc Hoàng Thượng Đế nhất phải kể đến Đền Đậu An – 2200 năm thờ Ngọc Hoàng Thượng Đế tại Hưng Yên và đền Ngọc Hoàng Thượng Đế Bằng Sở tại Hà Nội.

Đền Đậu An – Hưng Yên

Địa chỉ: thôn An Xá, xã An Viên, huyện Tiên Lữ, Hưng Yên gần trường đại học Thủy Lợi CS3.

Trong hai ngôi đền thì đền Đậu An nổi tiếng hơn cả. Ngôi đền nằm trên thế đất thiêng hình đầu rồng, được bao bọc bởi làn nước hồ trong xanh với hàng nhãn lồng cổ thụ rả bóng mát. Mặc dù có lịch sử hơn 2000 năm, nhưng những ghi chép về sự tích cùng thời gian xây dựng đền vẫn còn nguyên vẹn, cung cấp rất nhiều tư liệu lịch sử quý giá cho các nhà khoa học. 

Sự tích của đền ghi lại các vị Thiên Tiên, Đại Tiên đã hạ thế cứu dân. Dạy cho nhân dân khẩn hoang, diệt thú ổn định cuộc sống. Để cầu mưa gió thuận hòa, nhân dân bình yên an ổn làm ăn thì Ngũ Lão Tiên Ông cùng nhân dân lập “Thụy Ứng quán” (Đền Đậu An sau này). Năm ấy là năm 226 TCN.

Ngày nay, ngôi đền Đậu An đã trải qua nhiều lần tu sửa trở nên khang trang và rộng rãi hơn. Bên trong đền vẫn đặt tượng thờ Ngọc Hoàng Thượng Đế với hiệu “Thiên Định” để thờ tự ở chính cung. Bên ngoài sân còn lưu giữ tháp cửu trùng thiên được xây dựng từ thời nhà Lý – ngọn tháp gắn liền với quan niệm của nhân dân về Thiên Phủ. Kiến trúc ngôi đền mang nét cổ kính vô cùng đặc sắc.

 


Hàng năm ngôi đền được rất nhiều du khách ghé thăm.Vừa để thăm ngôi đền cổ vừa để thực hiện nghi thức cúng lễ cầu cho gia quyến được bình an, khỏe mạnh, có tài có lộc. Thông thường những dịp đón khách đông nhất tại đền thường rơi vào ngày đầu năm mới hoặc ngày diễn ra lễ hội đền Đậu An. Lễ hội được tổ chức từ ngày mùng 6 cho đến ngày 12 tháng 4 âm lịch hàng năm.Trong đó ngày mùng 8 là ngày lễ lớn nhất. Phần lễ được diễn ra với đầy đủ nghi thức được thực hiện từ xưa đến nay. Đặc sắc nhất trong nghi lễ này là việc con hương bất lá cây si để cầu cho gia sự bình an êm ấm, có tài có lộc.Và điều này thực sự linh ứng nên càng ngày càng thu hút con hương đổ về đền ngày lễ hội để xin lộc.

 

Đền Ngọc Hoàng Thượng Đế Bằng Sở

Địa chỉ: thôn Bằng Sở, xã Ninh Sở, huyện Thường Tín, Hà Nội

Ngoài ngôi đền Đậu An nổi tiếng thì Ngọc Hoàng Thượng Đế cũng được cho là thờ chính tại ngôi đền cùng tên được nhân dân xây dựng tại thôn Bằng Sở, huyện Thường Tín, Hà Nội. Tuy nhiên có khá ít tài liệu về ngôi đền này. 

Ngày vía Ngọc Hoàng Thượng Đế

Ngày mùng 9 tháng 1 được coi là ngày vía Ngọc Hoàng Thượng Đế. Đây là ngày Thánh Đản, Ngọc Hoàng tự thân giáng hạ nhân gian. Theo hầu ngài có rất nhiều vị tiên thiên, tiên thánh, Kim Đồng Ngọc Nữ cùng 7 vạn thiên binh thiên tướng, Thần Tài, Văn Xương, Tử Vi Đại Đế, Nam Tào Bắc Đẩu, … Các vị thần đang cai quản hạ giới như Thổ Địa, Thành Hoàng, thần sông, thần núi, Thổ Công, … sẽ nghinh thỉnh Ngọc Hoàng hạ phàm đầu năm định xét phúc tội.

Văn Ngọc Hoàng Thượng Đế

Quản cai Lục giới thần thông

Phép thiêng ứng hiện ra đồng tối anh linh

Đấng thần tiên thiên đình nhất phẩm

Quyền tối cao uy lẫm Linh Tiêu

Chân tu lục giới đều yêu

Chư thần kính mộ sớm chiều ngợi ca

Cũng có lúc vào ra cửa Khuyết

Khi thừa nhàn yến tiệc ban công

Chữ rằng sắc sắc không không

Thụ thừa Phật Pháp mênh mông chẳng rời

Trải nhiều kiếp nhiều đời hiếu hạnh

Chịu trăm bề ấm lạnh hàn vi

Đức tu dưỡng tính kiên trì

Vẹn đường lục đạo từ bi căn lành

Ngọc Đế hiệu xưng danh thiên giới

Các thần tiên ba cõi phải theo

Thơ ca phú vịnh tuồng chèo

Viết về Ngọc Đế kính yêu một lòng

Trên Thiên Giới chí công chí hảo

Chủ quần tiên xiêm áo sắc vàng

Nức danh hai tiếng Ngọc Hoàng

Độ cho trăm họ nhân gian cát tường

Con bái thỉnh Trung Ương Ngọc Đế

Ngài quản cai Chín Bệ Thiên Dinh

Quản cai hai chữ Tử Sinh

Cho nhân gian được thái bình dài lâu

Hầu ngài có Nam Tào, Bắc Đẩu

Dưới đó là quan mẫu Đương Cai

Cùng ngài Bản Cảnh không sai

Thiên binh thiên tướng dũng oai hộ tùng

Vậy có thơ rằng:

Uy quyền bậc nhất điện Linh Tiêu

Cửa khuyết vào ra vẫn sớm chiều

Ngọc Hoàng Thượng Đế người nhân đức

Lục cõi Tam Thanh mãi kính yêu.

 

 

 

 

 

 

Truyền thuyết về Ngọc Hoàng Thượng Đế

 

Ngọc Hoàng Thượng Đế còn gọi là Ngọc Hoàng Đại Đế gọi tắt là Ngọc Đế được coi là vị vua tối cao của bầu trời là chủ của

Thiên đình trong quan niệm của người Trung Quốc Việt Nam và nhiều quốc gia châu Á.

Ngoài ra Ngọc Hoàng Thượng Đế còn được gọi bằng các tôn hiệu: Thiên Đế Ngọc Đế

Người đời quan niệm Ngọc Hoàng Thượng Đe cai quản toàn bộ bầu trời mặt đất biển cả và cõi âm phủ.Ngài đứng đầu tất cả các thần tiên có quyền lực tối cao với các quyền năng tự nhiên như mây mưa sấm chóp, nước lửa… có quyền ra lệnh cho các vị thần thực hiện các ý định của mình thường là những điều tốt đẹp.Ngọc Hoàng cũng là người xét phong cho các vị thần hoặc xét phạt các thần tiên cũng như toàn bộ chúng hữu tình có ở trong 3 cõi Thiên – Địa – Nhân.

Hình tượng Ngọc Hoàng Thượng Đế do Phật giáo của Ấn Độ gặp Đạo giáo của Trung Quốc rồi truyền qua Việt Nam. Đen đây gặp tín ngưỡng bản địa thì tạo thêm những hình tượng mới. Sau này ở Việt Nam hình thành và phát triển tư tưởng Tam giáo đồng nguyên (Ba tôn giáo Phật, Lão, Nho cùng một gốc), nên trong chùa có thờ cả Phật, Ngọc Hoàng Thượng Đế, Tiên Thần, Mầu, và cả những người có công với triều đình, quốc gia, tạo nên một thế giới tâm linh chung, không còn tách biệt, mà trong đó Phật là trung tâm và cao nhất.

Hình tượng tiêu biểu của Đạo giáo trong chùa là tượng Ngọc Hoàng Thượng Đế và Nam Tào, Bắc Đẩu, Ngài có vai trò như Thiên chủ Indra (Đe Thích) của Ấn Độ, cai quản bầu trời, thế giới thần và người. Bắc Đẩu chuyên ghi sổ sinh, Nam Tào ghi sổ tử.

Ngọc Hoàng được cho là ở và làm việc tại một cung điện trên trời gọi là Kim Khuyết Vân cung Linh Tiêu bảo điện (gọi tắt là điện Linh Tiêu), nơi có rất nhiều tiên nữ hầu hạ, và các thiên tướng, thiên binh canh gác.

Theo truyền thuyết thì Ngọc Hoàng đã tu 1550 kiếp, mỗi kiếp (kalpa) dài 126 nghìn năm, mới lên được ngôi vị Ngọc Hoàng. Một vài đạo giáo ở Việt Nam còn gọi Ngọc Hoàng Thượng Đế với nhiều danh từ khác nhau: Chúa Trời, Ông Trời, Đại Từ Phụ, Đấng Tạo Hóa, Đức Chí Tôn…, là đấng tạo hóa sáng lập ra Càn Khôn vũ trụ và vạn vật, là nguồn cội của các tôn giáo, là đấng tối cao toàn năng, làm chủ cả thần, thánh, tiên và con người cùng cây cỏ, muông thú…

Ở thuyết khác thì NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ thống lãnh trời, đất, người, thần linh ba cõi, cùng quản lý mọi sự thịnh suy tốt xấu của vũ trụ vạn vật. Ngài có các thuộc hạ như: Văn Xương đế quân coi về sự học hành, Quan Thánh đế quân coi về việc mua bán, Xảo Thánh Tiên sư coi về công nghiệp, Thần Nông Tiên đế coi về nghề nông, Đông Nhạc đại đế cai trị các địa phương, cùng với những phụ tá như: Thanh Sơn vương, Thành Hoàng gia, Thổ Địa công, Địa Cơ chủ. Ngoài ra còn có nhũng vị coi về phần âm như: Phong Đô đại đế và Thập Điện Diêm Vương, v.v. Tất cả đều dưới quyền cai trị, chỉ đạo, phân bổ của NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ.

Danh xưng Ngọc Đế xuất phát từ sự tôn trọng “Ông Trời” của người xưa, coi là một vị “VUA”, có năng lực chi phối hết thảy trên trời dưới đất, hai bên chư thần văn võ. Sau này, lợi dụng tinh thần sùng bái “Ông Trời”, người ta gọi vua là “Con của Trời” (Thiên tử), nên “vua mà nói ra thì tất cả phải nghe theo”.

Người xưa lấy ngày 9 tháng Giêng Âm lịch là ngày “Đản sinh” của Ngọc Đế. Tháng giêng là tháng khởi đầu của năm, chủ của bốn mùa, cây cối nhờ vào Mộc khí mà sinh sôi nảy nở. số 9 là con số lớn nhất của các số, đại biểu cho ý nghĩa “cực đại, cực đa, cực cao”. Cho nên, người ta lấy con số 9 đầu tiên (thượng cửu) của năm (9 tháng Giêng) làm ngày sinh của NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ là tỏ ý tôn sùng ngài. Qua đây ta thấy khi nói đến ngày sinh của các vị thần, chúng ta cần phải lưu ý đến hàm nghĩa của “con số” biểu trưng.

Việc cúng bái NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ có nguồn gốc quan hệ đến sự sùng bái Trời Đất của người xưa và tư tưởng kinh Trời sợ Đất của con người mà thành. Người xưa cho rằng, Trời là vị chúa tể của vạn vật, là nguồn gốc của sự sinh, dưỡng và kiện toàn muôn vật, cho nên mọi người không thể không kính Trời sợ Đất, thuận theo ý Trời mà hành đạo. Cho nên người làm vua là để phụng mệnh Tròi, nhân danh “Con Trời” để cai trị dân chúng thì nhất nhất không thể không sùng bái Trời, nên phải có định kỳ “Te Trời”. Đó là chức trách tối quan trọng của nhà vua. Trải qua nhiều triều đại, mồi năm nhà vua đều phải cử hành “LỄ GIAO” (lễ tế Trời), nhưng chỉ có nhà vua mới là người “đủ tư cách tế Tròi” mà thôi! Mãi về sau này, khi thời đại phong kiến kết thúc, dân chúng mới bắt đầu được phép “tế Trời”. Nhưng Trời không thể hiểu như là “bầu trời xanh trên cao” được, khái niệm Trời rất vô hình, mênh mông, thì làm sao biết chồ nào, người nào để cúng tế? Vì vậy, người ta phải cụ thể hóa Trời bằng danh xưng “NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ ” để có đối tượng rõ ràng mà cúng bái.

Việc cúng tế “Ông Trời” phải được thực hiện sao cho long trọng, trang nghiêm hơn các Thần linh khác, vì Ngài là vị quyền uy tối cao trên tất cả thần thánh khác. Do đó, lúc đầu không ai dám đưa hình tượng nào về Ngài để cúng tế, mà chỉ dùng hai biểu tượng là “Thiên Công Lô” (lò hương cúng Trời) và “Thiên Công Tòa” (ngai vua Trời) để cúng bái mà thôi. Các Miếu thờ đều đặt “Thiên Công Lô” ở trước cửa, khi cúng bái thì ngẩng mặt lên trời mà vái, từ đó phát sinh tục lệ đốt nhang trong cúng tế. Đốt nhang là để gửi lên Ông Trời.

Trong con mắt của mọi người, NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ là lớn nhất, nên việc cúng tế phải làm rất cẩn thận. Vào buổi chiều hôm trước (tức chiều mùng 8 tháng Giêng), cả nhà già trẻ lớn bé đều ăn chay, tắm gội sạch sẽ, sửa soạn phẩm vật thịnh soạn. Ke đó, dâng hương cúng tế, lạy ba lạy (Tam Thiên Phật) chín vái (9 phương Trời).

Vì địa vị của NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ quá cao, nên phàm những việc nhỏ nhặt như cầu tài, cầu tự, cầu danh, cầu lợi… Ngài đều phán cho các Quan hay Thần Tiên phụ trách mảng việc mà chu phù. Vì thế, khi cúng Ngọc Đế, tất phải nhớ cúng thêm cả hai ban văn võ bá quan theo hầu cận Ngài, không được chỉ để một tượng Ngọc Đế đơn độc mà cúng.

Nghi thức cúng Trời chỉ diễn ra từ khuya đêm mùng Tám đến khi mặt trời mọc sáng mùng Chín thì ngừng. Trên bàn cúng Trời, có: cặp đèn “thần đăng”, năm thứ trái cây (cam, quít, tần quả, chuối, mía), phải đủ 5 màu, nấu sáu món chay là: kim châm, mộc nhĩ (nấm mèo), nấm hương cô, rau thái tâm, đậu uyển, tàu hủ, tất cả thức ăn đều phải được đậy kỹ bằng vải lưới thật mỏng. Đặc biệt còn phải có ba hộp trà ngon. Có tổ chức múa mâm vàng ca hát chúc tụng phát “lộc”. Một vài nơi, người dân có tục cúng gà trong dịp này phải dùng gà trống để cúng chứ không được dùng gà mái.

 

XEM BÓI MIỄN PHÍ ONLINE 0966662332

 

 

+ Ngày 10/1: Tiệc Quan Lớn Đệ Nhất

 

Quan Lớn Đệ Nhất Thượng Thiên

 

THẦN TÍCH QUAN LỚN ĐỆ NHẤT THƯỢNG THIÊN

Quan Lớn Đệ Nhất Thượng Thiên hay danh hiệu khác là Tôn Ông Đệ Nhất Thượng Thiên. Tương truyền, Ông là Tôn Quan Đại Thần trên Đế Đình Thiên Cung được sắc phong ngôi Thượng Thiên Nhất Phẩm Công Hầu, quản cai Tam Giới đình thần văn võ.

Sắc phong

“Tôn Ông Đệ Nhất”

Danh hiệu Vua phong Tham nghị triều chính Vương Quan.

Theo dân gian, Ngài là con Trời được Thái Hậu Bà sinh ra ngày mồng 10 tháng 1 năm Bính Dần được phái xuống làm con Vua Cha Bát Hải Động Đình. Hiện hóa lên trần gian phù giúp nhân dân và các đời Vua Hùng. Theo truyền tụng thì vào thời Vua Hùng Vương thứ 6, Ngài hạ phàm làm Đức Thánh Cả, là phó tướng phù giúp Đức Thánh Gióng đánh giặc Ân.

Vào thời Vua Hùng thứ XVIII, Ngài giáng hạ làm Quan Lớn Thượng để giúp “Vĩnh Công – Vua Cha Bát Hải Động Đình” đánh giặc ngoại xâm. Theo như Thần Tích Đền Đồng Bằng, khi có giặc ngoại xâm, Hùng Duệ Vương đã sai sứ giả về Hoa Đào Trang để truyền chỉ dụ triệu kỳ nhân dẹp giặc. Lúc đó có một Hoàng Xà hiện ra rồi bỗng hoá thành 1 chàng trai lực lưỡng, tuấn tú hơn người chính là Phạm Vĩnh, hay còn gọi là Vĩnh Công, tức Vua Cha Bát Hải Động Đình. Ngài nhận chỉ dụ, nhờ sứ giả báo với Vua Hùng là sẽ tuyển 10 tướng, chiêu mộ binh sĩ trong 10 ngày, rồi xuất quân đánh giặc trên cả 8 cửa biển nước Nam, hứa sau 3 ngày là giặc tan.

Tương truyền ngay ngày tuyển mộ đầu tiên, Vĩnh Công đã chọn được 3 tướng là Quan Lớn Đệ Nhất Thượng Thiên, Quan Lớn Đệ Tam Thoải Quốc và Quan Lớn Đệ Tứ và sau 10 ngày thì chọn đủ được 10 tướng. 

Trên 2 mũi tấn công chủ yếu bằng đường thuỷ của giặc phương Bắc là cửa sông Cái và cửa sông Bạch Đằng. Vĩnh Công đã cùng Quan Lớn Đệ Nhất Thượng Thiên chặn giặc ở cửa sông Cái, Quan Lớn Đệ Tam Thoải Quốc cùng Quân sư Nuồi và Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh chặn giặc tại cửa sông Bạch Đằng, Quan Lớn Điều Thất phụ trách ứng chiến và phối hợp tác chiến cùng các cánh quân chặn giặc đường bộ của Sơn Thánh, các vị Quan Lớn khác đều được phân công đánh giặc trên 6 cửa biển khác của Nước Nam. Đúng hẹn 3 ngày, Vĩnh Công cùng tướng sĩ đánh tan giặc dữ trên cả 8 cửa biển, đất nước trở lại thanh bình.

Cũng theo một số tài liệu thì đời trước Ngài ở Vân Đình và thác ở sông Đáy, Vân Đình. 

Đời sau Ngài hạ sinh ở Nam Ninh nhưng sống và thác ở Thái Bình. 

Sau cùng Ngài lại giáng ở Nam Ninh, sống và thác tại đó. Tên húy của Ngài là Nguyễn Hồng Liệt.

Khánh tiệc đản sinh của Ngài vào ngày 10/1 âm lịch, còn khánh tiệc đản nhật của Ngài vào ngày 24/8 âm lịch.

HẦU QUAN LỚN ĐỆ NHẤT THƯỢNG THIÊN

Quan Lớn Đệ Nhất Thượng Thiên rất ít khi về ngự đồng so với Tôn Ông Đệ Tam Thủy Phủ và Tôn Ông Đệ Ngũ Tuần Tranh. 

Theo quan niệm của Đạo Mẫu, dân ta cho hàng đệ nhất là hàng đi tu. Ngài Ngự áo đỏ thêu rồng, nét đỏ, đai đỏ. Vào những dịp có đại lễ (ngày đầu niên, mở phủ) thì Quan Lớn Đệ Nhất về Ngự đồng xông Trầm, chứng lễ và không hiến tửu thuốc.

Thông thường khi khai đàn mở phủ, thỉnh Quan Lớn Đệ Nhất Thượng Thiên về để pháp sư tuyên sớ điệp sau đó quan phê sớ rồi tuyên bố khai đàn mở phủ hoặc Quan Lớn Ngài còn “điểm dấu thánh" (tức là lấy nén hương đã đốt, chấm một dấu nhỏ vào áo công đồng và khăn phủ diện của đồng tân, coi như khăn áo đã được quan lớn đánh dấu là khăn áo của con cái Tứ Phủ, khăn áo đã được “điểm dấu thánh" là của riêng thanh đồng đó, không ai được dùng chung cũng như hạn chế việc thay đổi).

Cũng có khi Quan Lớn Đệ Nhất Thượng Thiên chỉ về biên sớ sau đó truyền cho các quan sau mở phủ nhưng cũng có khi chính Quan Lớn về khai giếng mở hồ Thượng Thiên [(gồm: bóc trứng, đập chĩnh, kéo cầu,... và khai quang mã đàn, hình nhân bản mệnh (hồng) và Thiên Phủ (đỏ)].

ĐỀN THỜ QUAN LỚN ĐỆ NHẤT THƯỢNG THIÊN

Đền thờ Quan Lớn Đệ Nhất Thượng Thiên còn gọi là Quan Đệ Nhất Linh Từ, thuộc quần thể di tích lịch sử văn hóa Đồng Bằng. Đây là di tích được xây từ thời Vua Hùng thứ  XVIII. Đền  nằm ở phía phải và cách đền Vua Cha Bát Hải khoảng 200m.

Tương truyền Đền là nơi Quan thường xuyên lui về nghỉ ngơi sau những ngày lo công việc trong triều đình thời bấy giờ. Nhân dân lập đền thờ để ghi nhớ công ơn của Ngài. Trải qua những năm tháng thăng trầm của lịch sử, những khắc nhiệt của thiên nhiên di tích đã bị phong hóa một thời gian dài. Những năm gần đây Đền đã được trùng tu xây dựng lại trên di tích nền cũ cảnh xưa. Hiện nay trong đến vẫn còn lưu lại một pho tượng cổ của Quan Lớn Đệ Nhất Thượng Thiên.

KẾT LUẬN

Quan Lớn Đệ Nhất Thượng Thiên thuộc hàng Quan Lớn trong Lục Vị Tôn Ông. Ông Ngự đồng vào ngày đầu niên mới hoặc lễ mở phủ, Ngài giáng hạ xuống Việt Nam chống giặc ngoại xâm, hộ quốc an dân.

 

 

Quan Lớn Đệ Nhất Thượng Thiên

 

 

+ Ngày 15/1: Đại Lễ Thượng Nguyên

Tết Thượng Nguyên là gì vào ngày nào?

Tết Thượng Nguyên hay còn được gọi là Tết Nguyên Tiêu, đây là ngày rằm đầu tiên vào tháng Giêng tức ngày 15/1 Âm lịch. Tết Thượng Nguyên nằm trong hệ thống Tết Thượng - Trung - Hạ Nguyên, trong đó Tết Trung Nguyên là ngày rằm tháng 7 Âm lịch và Tết Hạ Nguyên là ngày rằm tháng 10 Âm lịch.

Trong văn hóa của người Việt, Tết Thượng Nguyên được coi là một trong những ngày lễ lớn vô cùng quan trọng, không thua kém gì Tết Nguyên Đán. Chính vì vậy mà các cụ xưa thường có câu “cúng quanh năm không bằng rằm tháng Giêng” hay “lễ Phật quanh năm không bằng ngày rằm tháng Giêng”. Vào ngày Tết Thượng Nguyên, các gia đình thường sắm sửa mâm lễ cúng để dâng lên tổ tiên và thần linh, một số người còn đến chùa để cầu mong bình an và những điều tốt đẹp cho bản thân và gia đình.

Cách Cúng Lễ Thượng Nguyên

Cách cúng Tết Thượng Nguyên

 

Trước tiên bạn cần chuẩn bị các lễ vật cúng rằm tháng Giêng bao gồm rượu, nước, trầu cau, đèn cầy (nến), nhang, vàng mã, bánh kẹo, hoa quả và hoa tươi. Sau đó, bạn chuẩn mâm cỗ cúng Tết Thượng Nguyên tươm tất để dâng lên tổ tiên và thần linh. Theo truyền thống của người Việt xưa, mâm cỗ cúng Tết Thượng Nguyên đầy đủ thường bao gồm các món chính là bánh chưng, thịt gà trống luộc, canh mọc, miến xào, canh bóng, giò, nem, củ kiệu (củ hành muối) và nước chấm.

Tuy nhiên, tùy vào điều kiện và sở thích của gia đình mà bạn có thể thêm hoặc bớt các món ăn sao cho hợp lý nhất, tránh gây lãng phí. Bên cạnh đó, bạn cũng có thể chuẩn bị một mâm cỗ cúng chay cũng được.

Sau khi chuẩn bị mâm cúng rằm tháng Giêng xong, bạn sẽ tiến hành thực hiện nghi lễ cúng Tết Nguyên Tiêu. Trước khi cúng, bạn nên tắm rửa sạch sẽ, ăn mặc chỉnh tề và đầu tóc cần gọn gàng. Sau đó, bạn đốt một vài nén hương rồi thắp ở mỗi bát hương 1 hoặc 3 nén hương, vì theo văn hóa tín ngưỡng của người Việt thì thắp hương số lẻ để tượng trưng cho cõi âm. Tiếp theo, bạn hãy thành tâm đọc bài văn khấn Tết Nguyên Tiêu sau đây:

Con lạy chín phương trời, mười phương chư Phật, chư Phật mười phương.

Con kính lạy Hoàng Thiên Hậu Thổ Chư Vị Tôn thần.

Con kính lạy ngài Bản Cảnh Thành Hoàng, ngài Bản Xứ Thổ Địa, ngài Bản Gia Táo Quân cùng Chư Vị Tôn thần.

Con kính lạy Cao Tằng Tổ Khảo, Cao Tằng Tổ Tỷ, Thúc Bá Đệ Huynh, Cô Di, Tỷ Muội họ nội, họ ngoại.

Tín chủ (chúng) con là...

Ngụ tại (Nơi ở tại)...

Hôm nay là ngày rằm tháng Giêng năm..., gặp tiết Nguyên Tiêu, tín chủ con lòng thành, sửa sang hương đăng, sắm sanh lễ vật, dâng lên trước án.

Chúng con kính mời ngài Bản Cảnh Thành Hoàng Chư Vị Đại Vương, ngài Bản Xứ Thần Linh Thổ Địa, ngài Bản Gia Táo Quân, Ngũ Phương, Long Mạch, Tài Thần. Cúi xin các ngài linh thiêng nghe thấu lời mời, giáng lâm trước án, chứng giám lòng thành thụ hưởng lễ vật.

Chúng con kính mời các cụ Tổ Khảo, Tổ Tỷ, Chư Vị Hương Linh, gia tiên nội, ngoại họ… (họ của gia đình bạn) nghe lời khẩn cầu, kính mời của con cháu, giáng về chứng giám tâm thành, thụ hưởng lễ vật.

Tín chủ con lại kính mời ông bà tiền chủ, hậu chủ tại gia về hưởng lễ vật, chứng giám lòng thành phù hộ độ trì cho gia chung chúng con được vạn sự tốt lành. Bốn mùa không hạn ách, tám tiết hưởng an bình (vái lạy 3 lần).

 

 

 

 
Sau khi khấn xong bạn chờ cho đến khi hương cháy hết thì đem vàng mã đi hóa để dâng lên tổ tiên ở cõi âm
Sau đó bạn có thể hạ mâm lễ để cùng thưởng thức bữa cơm ấm cúng cùng gia đình
 
 
Lễ Thượng Nguyên: Sắm Lễ Cúng Lễ Và Các Câu Hỏi
*************
Mỗi dịp tết đến xuân về người ta lại nô nức rủ nhau đi chiêm lễ các nơi danh lam cổ tự
Đền to phủ lớn để gửi gắm những lời cầu nguyện lên chư vị Phật Thánh cầu mong một năm mới an lành tốt đẹp.
Trong dịp đầu năm có một lễ khá quan trọng mà người ta hay gọi là lễ Thượng Nguyên
Bên Trung Quốc gọi là Nguyên Tiêu còn dân gian nôm na gọi là lễ Rằm Tháng Giêng
 
Vì sao lễ thượng nguyên quan trọng? Trước nhất đó là rằm đầu tiên của năm mới
Mà phàm là cái gì đầu tiên thì ý nghĩa của nó càng trở nên quan trọng
Tương tự như tục kén ngày giờ mở hàng, kén ngày giờ khai trương xuất hành
Trong ngày rằm đầu tiên ai cũng muốn hướng mình về cõi tâm linh để mong
Nhận được sự bảo trợ từ các đấng siêu nhiên.Lí do thứ hai là ngày rằm tháng giêng cũng được coi là
Dịp lễ vía Thiên Quan tức vía Trời trong Đạo giáo rất coi trọng ngày này với quan niệm:
Thượng nguyên tứ phúc thiên quan trung nguyên xá tội địa quan hạ nguyên giải ách thủy quan
Ngày rằm thượng nguyên chính là ngày lễ trời cầu phúc cho nhân gian
Còn rằm trung nguyên tháng bẩy là ngày xá tội cho vong nhân nơi địa phủ âm giới
Do đó nhân gian mới truyền tụng: Lễ quanh năm không bằng ngày rằm tháng giêng
Là với ngụ ý sức mạnh tâm linh cơ hội tâm linh trong ngày này
Rất cao hơn hẳn những ngày rằm khác trong năm vậy
Lễ thượng nguyên được tiến hành từ lúc nào: Người ta có thể làm lễ thượng nguyên
Từ ngày 10 âm đến hết ngày rằm.Với quan niệm ngày 9 là ngày vía Ngọc Hoàng
Tức là trời bắt đầu mở cửa bách thần bắt đầu quay lại công việc của mình nên
Sau đó từ ngày 10 nhân gian có thể thắp hương cầu phúc.
Lễ thượng nguyên thường được làm ở đâu: trước nhất phải làm lễ tại gia đình
Dâng hương cúng trời phật gia thần tiên tổ trong gia đình sau đó có thể ra các chùa đền miếu phủ gần nhà dâng lễ
Cũng có thể đi xa đến các nơi chùa đền khác vừa kết hợp làm lễ vừa du xuân cũng rất tốt.
Lễ vật dâng tiến: Không có qui định nào về việc phải dâng lễ gì trong ngày tết thượng nguyên
Tại gia đình các nhà có thể làm lễ mặn sôi gà giò bánh chưng
Hoặc đơn giản là lễ chay như hoa quả sôi chè cúng tế chư thần làm mâm cơm cúng tiên tổ đều được cả
Còn các nơi chùa đền đình miếu mọi người có thể đến dâng hương tụng kinh bái sám dâng lễ chay mặn
Tùy nơi sao cho phù hợp và cầu xin những điều tốt lành: mưa thuận gió hòa
Năm mới lợi lạc bản mệnh bình an công việc may mắn đi lại an toàn
Tùy theo tâm nguyện của mỗi cá nhân miễn là những điều xin tốt lành hợp đạo lí.
Một năm bắt đầu từ mùa xuân một đời bắt đầu từ tuổi trẻ mùa xuân cũng là lúc
Vạn vật sinh sôi cây cối xanh chồi nẩy lộc mọi người hăng hái
Đặt ra các mục tiêu công việc các kế hoạch cho một năm mới.
Trời đất vốn có đức hiếu sinh cửa Phật lấy từ bi làm gốc nên sẽ càng lợi lạc vô cùng
Nếu trong dịp lễ thượng nguyên chúng ta thắp hương ghi nhớ công ơn tiên tổ và tiền nhân
Ngoài việc dâng lễ thì các công việc khác như phóng sinh trồng cây
Là những việc mang lại nhiều công đức lớn lao cho người thực hiện nó.
Đừng biến lễ thượng nguyên thành dịp đi la cà mượn cớ du xuân để bỏ bê công việc mượn cớ
Cúng lễ cầu phúc để bầy đặt quá nhiều việc ăn uống nhậu nhẹt thực sự rất lãng phí thời gian tiền bạc cũng như sức khỏe.
Xin chia sẻ bài khấn lễ ngày thượng nguyên cho mọi người mong tất cả một năm mới an lành hạnh phúc.
**********
Bài Khấn Lễ Thượng Nguyên Tại Gia Đình
 
Nam mô A Di Đà Phật (3 lần)
Nam Mô Đại Từ Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát (3 lần)
Con sám hối lạy chín phương trời mười phương chư phật.
Con sám hối lạy đức ngọc hoàng đại đế cùng nhị vị tinh quân nam tào bắc đẩu
Con kính lạy quan Lưu vương hành khiển chí đức tôn thần đương cảnh
Thành hoàng tối linh đại vương bản phủ châu huyện đương cai xã lệnh các ngài
Con kính lạy bản gia táo quân ngũ phương long mạch tiền hậu địa chủ tiếp dẫn tài thần
Con kính lạy chân linh gia tiền tiền tổ Nguyễn/Trần/Lê...tộc
Kính lạy tổ cô mãnh tướng dòng họ Nguyễn/Trần/Lê...
(Có thể khấn thêm tên các cụ gia tiên ông bà...tùy theo thực tế).
Hôm nay ngày...tháng giêng năm mới Kỉ Hợi, nhân tiết thượng nguyên đầu xuân nhà trời mở cửa
Bách thần giáng phúc trừ tai.Con tên là... sinh năm ...tuổi....ngụ tại địa chỉ số nhà thôn/đường...phường/xã...quận/huyện...tỉnh/thành phố
Cùng đồng gia quyến đẳng gồm (Gồm những ai trong nhà có thể đọc tên tuổi) Nay kính thành dâng lễ
(Ví dụ hương hoa đăng trà quả thực hoặc dâng tiến hương hoa kim ngân lễ vật hoặc dâng tiến gì thì đọc)
Thành tâm kính lễ Trời Phật hội đồng các quan cùng gia tiên tổ đường.
Tiết thượng nguyên đầu xuân khí lành đương độ vạn vật sinh sôi bách thần hoan hỉ đất trời mở hội
Gia đình chúng con ngưỡng mong phật thánh giáng phúc lưu ân trời thêm phúc thọ
Các quan bảo hộ gia tiên phù trì cho toàn gia chúng con một năm mới bản mệnh bình an
Gia trung thịnh vượng lộc tài tăng tiến nhân hưng vật thịnh đi xa về gần được an toàn
Hạn ách giải trừ tai ương viễn tống...(Có tâm nguyện gì cầu xin thêm thì khấn)
Nay con thành kính dâng hương giãi bầy cầu nguyện ngưỡng mong các Ngài chứng giám lễ bạc tâm thành kính cẩn tâu bầy
Con xin khấu đầu bái tạ
**************
Như đã nói trên vì là lễ cầu phúc nên các cá nhân không phải quan ngại lễ nhiều hay ít
Chỉ cần hương thơm nến sáng nước trong hoa tươi thêm chút tiền vàng trầu cau cũng là đủ lễ
Tùy hoàn cảnh điều kiện mà sửa soạn sao cho nhanh gọn phù hợp miễn là một lòng thành kính
Có thể dâng lên lễ một số tiền nào đó rồi xin Phật thánh đất trời các quan gia tiên rằng
Con xin mang số tiền này để đóng góp làm từ thiện, làm lễ phóng sinh làm các công việc thiết thực tốt lành
Để xin tăng phúc lộc thọ thì càng ý nghĩa càng lợi lạc.
Bài khấn này có thể in ra hoặc lưu lại lúc khấn cầm điện thoại đọc theo cũng đều tốt cả
Vui lòng chia sẻ để nhiều người biết và có một năm mới tốt lành
 
+ Ngày 15/1: Tiệc Tản Viên Sơn Thánh
 

Truyền Thuyết Về Tản Viên Sơn Thánh

 

Tản Viên Sơn Thánh còn gọi là Sơn Tinh là vị thần cai quản dãy núi Ba Vì (núi Tản Viên) một trong bốn vị thánh bất tử của người Việt (tứ bất tử)

Các sự tích truyền thuyết về Đức thánh Tản (đặc biệt là truyền thuyết Sơn Tinh-Thủy Tinh) thể hiện khát vọng làm chủ thiên nhiên của người Việt mở đất dựng nước.

Trong tâm thức dân gian của người Việt Tản Viên là vị thánh biểu đạt cho những khả năng to lớn và vĩnh viễn của cộng đồng trong lao động sáng tạo ra nguồn của cải vô tận và trong chiến đấu chống thiên tai (lũ lụt) để bảo vệ cuộc sống chung.

Thánh Tản Viên được coi là vị thánh được nhắc tới đầu tiên.Có lẽ đây là vị thánh liên quan tới truyền thuyết về việc bảo tồn giữ gìn đất nước trong cuộc đấu tranh đối chọi với thiên nhiên và với giặc ngoại xâm của dân tộc.

Truyện kể về xung đột mang màu sắc “tình ái” giữa hai vị thần tượng trưng cho hai thế lực đối chọi nhau: Thuỷ Tinh (Thần Nước), là sức mạnh tự nhiên, biểu hiện của thiên tai lũ lụt bão tố … mà hàng năm nhân dân ta phải gánh chịu, nhất là cư dân lưu vực đồng bằng sông Hồng (mà Thăng Long là vùng chịu ảnh hưởng khá nặng nề). Còn Sơn Tinh (Thần Núi), còn gọi là Thánh Tản Viên, đại diện cho sức mạnh vật chất, ý chí, sự thông minh, lòng quả cảm và sự đoàn kết toàn dân, đã chống chọi kiên cường và chống chọi thành công với sức huỷ diệt tàn phá của mọi thiên tai địch hoạ.

Hiện có hai quan niệm và cách giải thích nguồn gốc xuất thân của Tản Viên:

1. Các học giả thời phong kiến cho Tản Viên là “hạo khí anh linh của trời đất sinh ra”, hoặc cho “là 1 trong 50 người con của Lạc Long Quân, Âu Cơ theo cha xuống biển”. Chàng “từ biển đi vào, qua cửa Thần Phù, ngược sông Hồng đến Long Đỗ (Hà Nội), Trấn Trạch, rồi ngược sông Lô, đến Phúc Lộc giang”.

Từ đấy, “nhìn thấy núi Tản Viên cao vời, xinh đẹp, lại thêm phía dưới dân chúng thuần phác, thái bình”, nên chàng “đã làm một con đường thẳng như kẻ chỉ, từ Bạch Phiên Tân lên thẳng phía Nam núi Tản Viên, tới động An Uyên, thì lập diện để nghỉ ngơi”. Các tác giả Lịch triều Hiến chương (Phan Huy Chú) và Việt sử Thông giám cương mục… cũng đều có những quan niệm tương tự.

2. Trong khi đó theo quan niệm của dân gian, được thể hiện qua các bản thần thích thần phả ở các làng trong vùng Truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh (Hà Nội, Vĩnh Phúc, Phú Thọ) thì Thánh Tản Viên lại là người có thực, xuất thân từ tầng lớp nghèo khổ trong dân chúng.

Chàng tên thực là Nguyễn Tuấn, có tài “hô phong hoán vũ”, dũng cảm. Sơn Tinh được Hùng Vương kén làm rể, gả con gái Mỵ Nương. Sau đó, Thủy Tinh vì không được chọn, đã nổi giận đem binh đến đánh, xảy ra các cuộc chinh chiến trong nhiều năm trời. Kết cục, Thủy Tinh luôn là kẻ bại trận.

Múa lân trong ngày hội Tản Viên ở Đền Hạ thuộc Khu di tích lịch sử đền thờ Tản Viên Sơn Thánh
Múa lân trong ngày hội Tản Viên ở Đền Hạ thuộc Khu di tích lịch sử đền thờ Tản Viên Sơn Thánh

Truyền thuyết về Tản Viên Sơn Thánh: 

Truyền thuyết thời Hùng Vương về Tản Viên Sơn Thánh, có rất nhiều, có thể kể đến: Tản Viên Sơn Thánh; Sơn Tinh Thủy Tinh; Tản Viên đón vợ; Trần Giới, Trần Hà; Ba anh em lốt rắn; Cao Sơn và Quý Minh; Đại Hải đánh Thục; An Dương Vương lập cột đá thề; Sơn Tinh gánh đất trị thủy;

Cuốn Ngọc phả trong đền Lăng Sương, ở xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy, Phú Thọ kể lại gốc tích ra đời, trưởng thành của thánh Sơn Tinh, tên thật là Nguyễn Tuấn. Thân phụ ngài là ông Nguyễn Cao Hành, thân mẫu là Đinh Thị Đen, vốn là những người tu nhân tích đức nhưng hiếm muộn con cái.

Trong một lần mẫu Đen (tên mà người dân trong vùng gọi thân mẫu sinh thành ra thánh Tản Viên) ra giếng gánh nước thì gặp con rồng vàng. Mẫu gánh nước về tắm thì đột nhiên mang thai. Người thường chỉ mang thai 9 tháng nhưng mẫu mang thai đúng 14 tháng mới sinh. Đến thai kỳ thì sinh được một con trai có tướng mạo khôi ngô nên đặt tên cho là Nguyễn Tuấn”.

Truyền thuyết kể lại rằng thân mẫu Nguyễn Tuấn thường ngồi trên phiến đá đó cúi xuống để lấy nước nên in dấu thành vết. Độ sâu của giếng chỉ khoảng 3m – 4m nhưng chưa bao giờ cạn nước, kể cả vào mùa khô. “Vào mùa hè khô hanh, ruộng đồng khắp nơi đều cạn nước nhưng giếng này vẫn đầy nước, nhìn trong vắt”, ông Tuất nói.

Khi Nguyễn Tuấn lên 6 tuổi đã mồ côi cha, sau đó hai mẹ con chuyển sang nơi sinh nhai mới thuộc xóm Cốc ở núi Tản Viên. Cũng tại đây, chàng thanh niên Nguyễn Tuấn được thần núi Ma Thị Cao Sơn nhận làm con nuôi. Sau 3 năm sinh sống ở chân núi Tản, hai mẹ con lại trở về sống ở động Lăng Sương (đền Lăng Sương ngày nay).

Năm 12 tuổi, Nguyễn Tuấn ngày ngày vượt sông Đà sang núi Tản Viên để đốn củi về phụ giúp thân mẫu. Cứ mỗi khi quay trở lại núi vào ngày hôm sau, chàng lại thấy những cây mình chặt hôm trước mọc trở lại. Thấy lạ, chàng mới quyết định núp để tìm hiểu. Nhờ đó mà Nguyễn Tuấn gặp được ông Tử Vi thần tướng Bạch Tuyết – chính là người đã làm cho các cây gỗ bị chặt mọc lại. Thấy chàng trai trẻ Nguyễn Tuấn có tướng mạo khôi ngô tuấn tú, Tử Vi thần tướng đã truyền lại cho chàng cây gậy đầu sinh đầu tử. Trên đường qua sông về nhà, Nguyễn Tuấn nhìn thấy con trai vua Thủy Tề bị tử nạn, chàng đã sử dụng cây gậy thần, cứu mạng con vua Thủy Tề.

Cảm kích ơn cứu mạng, vua Thủy Tề dâng vàng bạc châu báu để trả ơn nhưng Nguyễn Tuấn đều từ chối. Khi nhìn thấy cuốn sách ước – một bảo vật của vua Thủy Tề, Nguyễn Tuấn ngỏ ý xin ban tặng nhưng vua Thủy Tề từ chối vì đó là bảo bối quý hiếm.

Mặc dù nhà vua từ chối nhưng người con trai quyết trả ơn cho Nguyễn Tuấn, bèn đánh cắp cuốn sách để tặng cho vị ân nhân. Vua Thủy Tề biết được, liền dâng nước và quân đội lên để đòi lại sách quý. Tuy nhiên, có trong tay cuốn sách bảo bối, Nguyễn Tuấn đã đẩy lùi đạo quân sóng nước.

Người vợ của Nguyễn Tuấn sau này là con gái Hùng Vương. Khi lấy được công chúa, Nguyễn Tuấn được vua cha truyền lại ngôi báu. Sau đó, Nguyễn Tuấn đã nhường lại ngôi cho Thục Phán An Dương Vương, từ đó nước Âu Lạc ra đời.

Với công lao đẩy lùi thủy hạn, an dân hộ quốc, sau này, nhân dân địa phương đã lập đàn thờ và tôn ngài thành Tản Viên Sơn Thánh. Sơn Tinh cũng là nhân vật đầu tiên trong Tứ Bất Tử của nước ta.

Những tích bút ghi  cho thấy một giả thiết khác về nguồn gốc xuất thân của Đức thánh Tản Viên (Sơn Tinh), nhiều tình tiết có phần khác hẳn với truyền thuyết Sơn Tinh vốn đã lưu truyền trong dân gian từ trước đến nay.

Truyện Sơn Tinh, Thủy Tinh:

Truyện Sơn Tinh, Thủy Tinh, kể rằng: Vua Hùng thứ 18 sinh được 20 người con trai và 6 nàng con gái lần lượt qua đời, chỉ còn lại Tiên Dung công chúa và Ngọc Hoa công chúa. Tiên Dung đã lấy Chử Đồng Tử còn Ngọc Hoa chưa lấy ai. Ngọc Hoa xinh đẹp da ngà mặt ngọc, xinh đẹp tuyệt vời, được vua cha rất yêu quí. Vua Hùng lập lầu kén rể. Sơn Tinh và Thủy Tinh nghe tin, cùng tìm đến thi tài. Sơn Tinh, Thủy Tinh đều có tài nghệ hơn người, hình dung tuấn tú.

Trước lầu cao có vua Hùng và Ngọc Hoa ngự. Thủy Tinh thi trước, ra oai gọi gió, hô mưa, chợt thấy mưa rơi sầm sập, sấm nổ vang ầm ĩ, trời đất tối tăm, bốn bề nước réo, cây nghiêng núi ngả, muôn loài đều khiếp sợ, người và muông thú vội tìm chỗ trú ẩn cho kín, ai nấy nín hơi ngậm miệng không dám ló ra. Đến lượt Sơn Tinh, chàng giơ cao chiếc gậy thần, lập tức sét câm, mưa trốn, trời trong mây sáng, cây cỏ lại xanh tươi, chim hót hoa cười, rõ ra cảnh tượng mùa xuân hòa vui ấm áp.

Vua Hùng thấy cả hai chàng trai đều có tài lạ, không biết gả Ngọc Hoa cho ai, trong dạ phân vân, mới thách đồ dẫn cưới phải có “voi 9 ngà, gà 9 cựa, ngựa 9 hồng mao” và hẹn rằng ngày mai ai đem đồ lễ tới trước thì sẽ được đón công chúa về làm vợ. Cả hai chàng Sơn Tinh và Thủy Tinh vái tạ nhà vua, vội vã ra về lo sửa soạn đồ sính lễ.

Sơn Tinh, nhờ có cuốn sách ước vua Thủy Tề tặng, nên tuy ở ngay tại thành Phong Châu, nhưng chỉ việc mở sách ước ra là có đủ các vật quí, lạ của núi rừng sông bể, đủ cả “voi 9 ngà, gà 9 cựa, ngựa 9 hồng mao” như vua Hùng đã thách. Trời chưa sáng, Sơn Tinh sợ trùng trình Thủy Tinh kéo đến, mới giả tiếng gà gáy. Tức thì, gà khắp vùng gáy theo inh ỏi. Cửa thành mở rộng.

Sơn Tinh vào chầu vua Hùng, tiến dâng lễ vật và được vua Hùng cho đón Ngọc Hoa về nhà trai. Đám rước dâu vừa tới làng Trẹo (nay là thôn Triệu Phú, xã Hy Cương, huyện Lâm Thao, gần Đền Hùng) thì gặp Thủy Tinh đang đốc thúc quân gia khiêng các lễ vật tới. Thấy Sơn Tinh đã đón Ngọc Hoa, Thủy Tinh nổi giận đùng đùng, vứt tung lễ vật rơi vãi khắp nơi, rồi thét quân xông tới cướp Ngọc Hoa. Hai bên giao chiến một trận dữ dội.

Lúc đó trời đất bỗng tối sầm, chỉ thấy ánh chớp sáng lòe, tiếng sét đánh inh tai, tiếng hò reo vang dội  một vùng rộng lớn. Trong đám loạn quân, Ngọc Hoa bị lạc, không thấy Sơn Tinh đâu, mới cất tiếng hú gọi chồng (hiện nay, thôn Triệu Phú có tục cầu tiếng hú, để nhắc lại tiếng hú của Ngọc Hoa gọi chồng thủa nào). Trong lúc đang ra sức chống đỡ  Thủy Tinh, nghe tiếng hú của vợ, Sơn Tinh vội đi tìm Ngọc Hoa. Tới chiều tối mới mở được đường máu, đưa Ngọc Hoa về núi Tản.

Không cam tâm để mất Ngọc Hoa, Thủy Tinh liền nổi sóng dữ thét quân đuổi theo. Sơn Tinh đưa vợ lên tít ngọn núi Tản. Bấy giờ sóng vỗ nghiêng trời, nước dâng ngập đất, các loài thủy tộc múa may nhảy nhót theo nước dâng tiến lên. Nước vỗ đồng bãi tràn rừng quật núi, sông nước réo lên ầm ầm, mưa đổ như trút, chớp lòe sấm động đất như nghiêng, trời như đổ, bốn bế nước đục mênh mông. Sơn Tinh ra sức chống cự, cùng với nhân dân và các bộ hạ đắp đất, lao gỗ để chặn nước. Nước dâng tới đâu, Sơn Tinh lại hóa phép dâng đất lên cao hơn.

Thủy Tinh thấy đánh mãi không được, nổi giận mở một con đường nước xoáy thẳng vào chân núi Tản (dấu tích còn lại đến ngày nay là ngòi Lạt ở địa phận huyện Thanh Sơn, chảy giữa hai xã Tu Vũ huyện Thanh Thủy, Lương Nha huyện Thanh Sơn, hướng chảy thẳng vào núi Chẹ trước núi Tản, cách núi bởi con sông Đà). Sơn Tinh vội gánh đá đổ thành một hòn núi lớn phía trước núi Tản chặn đứng mũi nước xoáy của Thủy Tinh (dấu tích hiện còn là hòn Núi Chẹ là một dãy núi đá vôi đứng bên bờ sông, ngay trước núi Tản, như một bức bình phong che cho núi Tản).

Nước ở thượng nguồn lại sầm sập lao về. Sơn Tinh thả lưới sắt, giăng chông đá ngang sông để đánh bắt quân Thủy Tinh (dấu tích nay là bãi Đá Chông, một bãi đá dựng lởm chởm dăng ngang dòng sông Đà, thẳng tới xã Đoan Hạ, huyện Thanh Thủy). Hai em của Sơn Tinh là Nguyễn Hiển và Nguyễn Sùng là Tả hữu lâm thần hai bên bờ sông Đà hô ném các loại cây đắng có chất độc như cây mền dẻ, cây thàn mát xuống nước. Quân Thủy Tinh bị trúng độc, xác nổi đặc mặt sông, Thủy Tinh thua to, vội vã rút quân về. Từ đấy, cứ hàng năm, vào tháng sáu, tháng bẩy âm lịch, nước lại dâng to ở các sông gây lụt lũ. Nhân dân nói đó là Thủy Tinh nhớ mối thù cũ, dâng nước đánh Sơn Tinh. (Tổng tập Văn nghệ dân gian đất Tổ, Tập 1, Sở Văn hóa – Thông tin – Thể thao Phú Thọ và Hội Văn nghệ dân gia Phú Thọ, năm 2000, tr 119-122).

Các truyền thuyết khác: 

Truyền thuyết về Tản Viên Sơn Thánh có nhiều dị bản, trong đó có một số dị bản sau: Động Lăng Xương có hai anh em Nguyễn Cao Hành và Nguyễn Cao Ban, tuổi đã cao mà chưa có con. Người anh là Nguyễn Cao Hành có nuôi một  người cháu ruột của vợ mình tên là Đinh Thị Điên và ăn nằm với người cháu này. Đinh Thị Điên có mang, đẻ được một người con trai, đặt tên là Tuấn – Nguyễn Tuấn. Vợ chồng người em Nguyễn Cao Ban cũng sinh được 2 người con trai, đặt tên là Hiển – Nguyễn Hiển và Sùng – Nguyễn Sùng. Trong thời gian mang thai những khi Đinh Thị Điên đi làm đồng thường vẫn có mây lớn che đầu. Một hôm bà đang cấy lúa, chợt thấy trong người cảm động, biết là sắp sinh nở, bỏ các cây mạ, tìm giếng rửa chân tay. Rửa xong, về tới nhà thì đẻ.

Từ lúc cấy cho tới lúc đẻ vẫn có mây lành che đầu. Hiển và Sùng 12 tuổi thì cả cha lẫn mẹ mất. Người cậu ruột đưa cả hai anh em sang chân núi Tản ở với người đàn bà hủi họ Bùi, có họ mà không có tên. Vào năm Nguyễn Tuấn lên 6 tuổi, thì bố mất, mẹ yếu. Tuấn sang ở với bà họ Bùi. Ba năm sau, Nguyễn Tuấn quay về ở với mẹ, đổi tên là Tùng – Nguyễn Tùng. Một hôm Nguyễn Tùng nghĩ bụng hai mẹ con ở hai nơi khó chăm sóc, mới đưa mẹ đẻ sang núi Tản cùng ở với mẹ nuôi họ Bùi kia. Từ đấy, ba anh em Nguyễn Tuấn, Nguyễn Hiển và Nguyễn Sùng cùng ở với hai mẹ, sum họp một nhà ở chân núi Tản. Một năm sau, bà Đinh Thị Điên qua đời.

Một dị bản khác, kể rằng: Hùng Duệ Vương tuổi già mà không có con nối dõi. Thục Phán là chủ đạo bộ Ai Lao, vốn người kiêu dũng, cho rằng vận nhà Hùng đã hết, sợ rằng ngôi vua sẽ về tay Sơn Tinh là con rể vua Hùng, mới nổi quân về đánh vua Hùng. Quân Thục chia làm 5 đạo thủy bộ cùng tiến, thế mạnh như vũ bão, các đồn lũy của vua Hùng không chống cự nổi. Hùng Duệ Vương vô cùng lo sợ, truyền gọi con rể Tản Viên về triều, hỏi mưu kế, rồi trao quyền đánh dẹp quân Thục cho Tản Viên.

Tản Viên Sơn Thánh và hai em là Tả hữu lâm thần Nguyễn Hiển, Nguyễn Sùng (truyền thuyết ở xã Thanh Uyên, huyện Tam Nông, kể là Cao Sơn và Quý Minh – người trang Thanh Uyên, là hai anh em kết nghĩa với Tản Viên, đã chiêu mộ được hơn hai trăm người về giúp Tản Viên đánh Thục), đưa hơn ba nghìn người vùng sông Đà về nhận mệnh vua, rồi tiến quân qua sông Thao, đóng trại ở các làng Cổ Tiết và Quang Húc (nay thuộc huyện Tam Nông). Tản Viên xin nhà vua ban chiếu cầu người tài giỏi ra giúp nước. Vua Hùng nghe theo. Người người kéo về Phong Châu, theo Tản Viên Sơn Thánh đánh Thục nhiều lần, thu được thắng lợi to.

Sách Đại Nam nhất thống chí, thời Nguyễn, ghi chép lai lịch Đền thần Tản Viên, như sau: “Thần có ba vị: một vị tên là Nguyễn Hương, một vị tên là Nguyễn Tuấn, một vị tên là Nguyễn Lang. Có thuyết nói: thần tên là Hương Lang con Lạc Long Quân. Đời Đường Nghiêu nước lớn ngập cả núi gò, Hương Lang có phép tiên, trừ được nạn lụt, sau lại đánh tan được quân nhà Tần, bèn đi khắp nơi xem xét danh thắng đến núi Tản Viên, dựng cung điện để ở, sau người ta lập đền thờ. Sơn thần rất thiêng, thường có hạc múa, voi quì, rồng chầu, hổ phục. Cao Biền nhà Đường có ý muốn yểm, nhưng không yểm được, đời Thái Ninh Đường Ý Tông ban cho tiền của để sửa lại đền, nay đền vẫn còn, các triều đều có phong tặng.

Xét Lĩnh Nam trích quái chép rằng: Hùng Vương có con gái là Mỵ Nương, muốn tìm người lứa đôi, một hôm có hai người cùng đến cầu hôn, Sơn Tinh và Thủy Tinh. Hùng Vương hẹn với hai người rằng ai đưa sính lễ đến trước thì được lấy Mỵ Nương. Ngày hôm sau, Sơn Tinh đem đủ lễ vật đến trước, đón Mỵ Nương về núi Tản Viên. Thủy Tinh đến sau, bèn đem các loài thủy tộc đuổi theo. Sơn Tinh liền hóa phép thần, Thủy Tinh không sao xâm phạm được. Tương truyền Sơn Tinh tức là Nguyễn Tuấn. Lời phụ lục trong Dư địa chí của Nguyễn Trãi nói: Thần núi Tản Viên linh thiêng lạ thường, vua Lý Nhân Tông sai thợ dựng đền ở ngọn thứ nhất trên núi, có lầu 12 tầng”. (Đại Nam nhất thống chí, Nxb Thuận Hóa, T4, 1997, tr 237- 238).

Tuy có nhiều ghi chép khác nhau về lai lịch của Nguyễn Tuấn – Tản Viên Sơn Thánh như nêu ở trên, song xuyên suốt trong các bản ghi chép ấy là khẳng định vị thần chủ núi Ba Vì – Sơn Tinh. Tản Viên Sơn Thánh ấy chính là hóa thân của một người họ Nguyễn, tên là Tuấn, sinh ra ở động Lăng Xương xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ, vào đời Hùng Vương thứ 18.

Nguyễn Tuấn có cha, có mẹ, có vợ là Ngọc Hoa – công chúa của Hùng Vương thứ 18. Sơn Tinh – Tản Viên Sơn Thánh có vị trí cao trong tâm thức người Việt  cổ, có ảnh hưởng rất lớn với triều đình Hùng Vương thứ 18, với xã hội Văn Lang thủa sơ khai. Nguyễn Tuấn – vừa là anh hùng văn hóa, vị thần trị thủy chiến thắng lũ lụt, thần tổ dạy cho dân nhiều nghề; vừa là thủ lĩnh quân sự kiệt xuất, vị thần chiến tranh chống Thục, lại cũng là một nhà chính trị khôn ngoan nhìn xa trông rộng , vị thần khuyên vua Hùng nhường ngôi cho vua Thục và lên núi “dưỡng nhàn”.

Thờ cúng:

Đã có nhiều đền thờ nhân vật Sơn Tinh được người dân ở một vùng lập nên, như đền Và (Sơn Tây, Hà Nội), các ngôi đền trên núi Ba Vì (Hà Nội). Tuy nhiên, những ngôi đền này chỉ là nơi được lập nên để thờ vọng chứ không phải là đất phát tích của Tản Viên Sơn (Sơn Tinh). Trong cuốn Ngọc phả ghi rõ, ngôi đền có tên là Lăng Sương, ở xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy, Phú Thọ chính là nơi đầu tiên thờ thánh Tản Viên. Đền Lăng Sương được xây dựng từ năm 1011, đời nhà Lý. Theo tài liệu còn được lưu giữ tại đây thì, đền được dựng lên trên nền đất cũ nơi thánh Sơn Tinh sinh ra và lớn lên. Di tích đền Lăng Sương là nơi hiếm hoi còn lưu lại những giải thích cặn kẽ nhất về Đức thánh Tản Viên.

Hàng năm, hội đền Lăng Sương diễn ra từ ngày 14 – 16 tháng Giêng âm lịch, trong đó ngày 15 là ngày chính lễ. Trong 3 ngày này, hội đền đã thu hút hàng trăm lượt du khách đến tham gia và bái lễ. Đền Lăng Sương được coi là một điểm đến tâm linh quý báu của đất tổ Hùng Vương trong hành trình tìm về cội nguồn dân tộc.

Tại các di tích thờ Nguyễn Tuấn – Tản Viên Sơn Thánh trên cả một vùng rộng lớn quanh dãy núi Ba Vì, ngã ba sông Hồng, sông Đà thuộc địa phận các tỉnh Phú Thọ, Hà Tây, Hòa Bình, hàng năm nhân dân đều tổ chức lễ hội. Tiêu biểu phải kể đến một số lễ hội, như:

– Hội đền Và: tổ chức lễ hội lớn vào ngày Rằm tháng giêng, là hội về Thánh Tản lớn nhất, nức tiếng Xứ Đoài. Vào năm đại hội, các làng có liên quan đến Thánh Tản và Đền Và (có 8 làng: Vân Gia, Thanh Trì, Nghĩa Phủ, Mai Trại, Dạm Trại (xã Trung Hưng), Phù Sa, Phú Nhi (xã Viên Sơn), và làng Di Bình (xã Vĩnh Thịnh – huyện Yên Lạc tỉnh Vĩnh Phúc) đều tập trung về đền Và. Hội bắt đầu từ ngày 13 đến hết 15 tháng giêng, với đám rước lớn ngày 14. Ngoài hội Xuân này, tại Đền Và còn có hội Thu vào ngày 14 tháng 9 âm lịch, tiêu điểm là hội đả ngư / đánh bắt cá cầu may.

– Hội đền Măng Sơn (ở xã Sơn Đông, Hà Tây cũ): hàng năm mở hội vào ngày 6 tháng Giêng để tưởng niệm đức Thánh Tản đã dạy dân làng nghề săn bắn. Hội được tổ chức dưới hình thức té và rước nước.

– Hội Dô ở Liệp Tuyết (Quốc Oai – Hà Tây cũ) cũng tưởng niệm Thánh Tản vào ngày 10 tháng giêng.

– Lễ hội làng Khê Thượng (xã Sơn Đà, huyện Ba Vì) hàng năm mở hội Thánh Tản vào ngày mồng 3 đến 7 tháng giêng (còn gọi là tục Rước chúa trai – rước Thánh Tản sang sông để chúc tết bố vợ rồi mới quay về ăn tết với dân làng.Trong lúc Khê Thượng mở hội Rước chúa Trai thì đồng thời làng Vi, làng Trẹo (huyện Phù Ninh- Phú Thọ) cũng mở hội Rước chúa Gái – tức nàng Ngọc Hoa công chúa dựa theo truyền thuyết Ngọc Hoa về thăm  cha lâu ngày không trở lại nên Tản Viên phải sang đón và được hai làng Vi Trẹo tôn kính giúp đỡ.

Sự thờ phụng Đức Thánh Nguyễn Tuấn – Tản Viên Sơn Thánh trên đây bắt nguồn từ tín ngưỡng thờ thần núi chủ cộng với tục thờ người có công với dân với nước. Trải qua nhiều thế hệ nhân dân ta một lòng tôn kính ngưỡng mộ Đức Thánh Nguyễn Tuấn – Thánh Tản, bởi họ tìm thấy ở Ngài phẩm chất và truyền thống tốt đẹp của dân tộc và quê hương mình.Đức Thánh Nguyễn Tuấn – Tản Viên Sơn Thánh trở nên Bất Tử trong đời sống văn hóa – tâm linh của người Việt cổ, được di dưỡng qua năm tháng, ngày càng tỏa sáng trong cuộc sống hôm nay.

 

Đức Thánh Tản Viên: sự tích và đền thờ trấn tứ phương

Đức Thánh Tản Viên hay còn được biết đến là vị thần Sơn Tinh trong truyền thuyết Sơn Tinh – Thủy Tinh nổi tiếng trong cộng đồng người Việt hiện đại. Đây là vị thánh biểu đạt cho những ước mơ, khát vọng của người dân lao động xưa về một cuộc sống ấm no, có thể chế ngự hoàn toàn thiên tai lũ lụt. Hiện nay Đức Thánh Tản Viên vẫn là vị thần được nhân dân tôn sùng và gửi gắm những hy vọng, khát khao về cuộc sống bình an, êm ấm. Biểu hiện bởi rất nhiều ngôi đền khang trang được nhân dân xây dựng tại miền Bắc Việt Nam và thường xuyên lui tới nhang khói, cúng lễ đủ đầy thành tâm. 

 

Đức Thánh Tản Viên là ai?

Đức Thánh Tản Viên hay còn được biết đến với nhiều danh xưng khác nhau như Vua Cha Nhạc Phủ, Tản Viên Sơn Thánh hay gần gũi nhất là thần Sơn Tinh. Ngài là một trong bốn vị thánh bất tử của người Việt. Đồng thời, ngài cũng được coi là đệ nhất phúc thần của nước Việt đứng đầu tứ bất tử.


Ngài thuộc Tứ Phủ Vạn Linh tại hàng vị Đức Vua Cha cùng với Vua Cha Thiên Phủ (Ngọc Hoàng Thượng Đế), Vua Cha Thủy Phủ (Vua Cha Bát Hải Động Đình), Vua Cha Địa Phủ.


Ngoài ra, ngài còn được biết đến là cha của Mẫu Đệ Nhị Thượng Ngàn hay La Bình Công Chúa. Việc này được đề cập rất rõ trong truyền thuyết về Mẫu Thượng Ngàn.

 

Theo truyền thuyết thì ngài là người cai quản dãy núi Ba Vì (núi Tản Viên). Ngài linh thiêng, anh linh ứng nghiệm vô cùng. Ghi trong truyện núi Tản Viên, tác giả Lĩnh Nam chích quái có viết: “Linh khí không thể lường được, tương truyền rằng thần rất linh thiêng và ứng nghiệm.”

Về xuất thân của Đức Thánh Tản Viên, có rất nhiều nguồn giải thích cho nguồn gốc nhà ngài. 

  • Tản Viên Sơn Thánh là con của Lạc Long Quân và Âu Cơ. Theo đó, ngài là một trong năm mươi người con được chia về biển. Sau đó, ngài đi qua cửa biển Thần Phù, ngược sông Hồng mà về. Thấy núi Tản Viên cao vời, xinh đẹp tú lệ ba hòn sắp thẳng đứng. Lại thêm dân chúng quanh vùng cực chất phác, đôn hậu nên người đã làm một đường thẳng như kẻ chỉ từ làng Bạch Phiên Tân mà đến phía nam núi Tản Viên, đến Uyên Đông, lại đến Nham Tuyền là chỗ nguồn khác, rồi đi lên núi Thạch Bàn đầu non Vân Mộng mà ở. Những vết chân ấy, người đời sau lập đền thờ phụng, hạn thì đảo, lụt thì cầu, ngự hỏa tai ngăn đại hạn mau hơn tiếng vang cực kỳ linh ứng. 
  • Tản Viên Sơn Thánh là ba anh em. Theo đó, nói tới Tản Viên Sơn Thánh là nói tới cả ba anh em thần núi hay còn được gọi là Tam Vị Đại Vương Quốc Chúa Thượng Đẳng Thần gồm Sơn Tinh, Cao Sơn và Quý Minh. Hiện ba đền Thượng, Trung, Hạ tại Ba Vì đang thờ phụng Tam vị Tản Viên Sơn Thánh.
  • Tản Viên Sơn Thánh là người thật. Theo quan niệm dân gian tại các làng trong truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh (Hà Nội, Vĩnh Phúc, Phú Thọ), kết hợp ngọc phả đền Lăng Xương thì Thánh Tản Viên là người tên Nguyễn Tuấn. Ông là con trưởng của Nguyễn Cao Hành và bà Đinh Thị Đen ở đạo Sơn Tây nay là Phú Thọ. Ông nhận bà Ma Thị Cao ở núi Ngọc Tản làm mẹ nuôi. Từ đây, ông trở thành người cứu độ nhân dân có phép thần thông biến hóa, có văn võ song toàn và trở thành vị thần núi Tản Viên. Sau này khi Hùng Vương kén rể cho con gái Ngọc Hoa, ông chọn Sơn Tinh – Nguyễn Tuấn.

Truyền thuyết Đức Thánh Tản gắn với những công lao to lớn truyền lưu ngàn đời

Công lao to lớn nhất của Đức Thánh Tản phải kể đến việc ngài cùng với Vua Cha Bát Hải Vĩnh Công Đại Vương phối hợp cùng đánh tan giặc ngoại xâm khỏi bờ cõi Văn Lang. Khi đó, Vĩnh Công Đại Vương chặn mũi công của giặc trên biển và Tản Viên Sơn Thánh thì chặn mũi công của địch trên đường bộ, đánh tan quân giặc chỉ trong 3 ngày.

 

Thời bình, ông lại đi khắp nơi dạy nhân dân làm ăn sinh sống. 

Ông dạy dân Ba Vì biết làm ra lửa bằng ống giang già, biết săn bắn với kế làm hầm gài tên căng lưới, dạy dân Quốc Oai biết gieo hạt trồng lúa, dạy dân ven sông Hồng biết làm lưới kéo vó, dạy dân chúng biết võ nghệ đánh giặc bảo vệ tổ quốc, dạy nhân dân biết dệt vải hát ca. Hiện nay tại nhiều ngôi đền, người dân vẫn tổ chức lễ hội mô phỏng lại cách thức làm ăn mà Sơn Tinh đã dạy cho nhân dân, đồng thời tỏ lòng biết ơn vị thánh đã giúp cuộc sống nhân dân ấm no hơn. 

Một số sắc phong của Tản Viên Sơn Thánh

Với những công lao to lớn với nhân dân và đất nước, Tản Viên Sơn Thánh được rất nhiều triều vua ban sắc phong thể hiện sự tôn kính trọng vọng.

Vua Trưng Vương (Trưng Trắc) sắc phong ngài là :”Tản Viên sơn quốc chúa đại vương Dực bảo Trung hưng Thượng đẳng thần.”

Vua Trần Nhân Tông sắc phong ngài là “Hữu thánh hưng quốc hiển ứng vương”.

Vua Tự Đức phong ngài là thượng đẳng tối linh thần


Ngoài ra, tại đền Và Sơn Tây vẫn còn lưu trữ 18 bản sắc phong khác dành cho Đức Thánh Tản thuộc nhiều đời vua khác nhau. Trong đó có 17 bản chính có dấu ấn.


Ngoài ra vị thần Tản Viên Sơn Thánh thần thông quảng đại không chỉ sống trong lòng người dân mà ngài còn xuất hiện cả trong những tác phẩm văn học được miêu tả với những từ ngữ trân quý nhất. Những tác phẩm viết về nhà Ngài gồm có “Việt điện u linh”, “Lĩnh Nam chích quái”, “Thánh Tông di ký toàn thư”, “Thánh Tông di ký toàn thư”

 

Tản Viên Sơn Thần

Đệ nhất phúc đẳng thần

Đệ nhất bách thần

Thượng Đẳng tối linh thần

Nam thiên thánh tổ

Ngài là vị thánh anh linh, tiêu biểu cho người anh hùng dân tộc chống ngoại xâm cùng nhân dân khống chế thiên tai, lũ lụt.

Núi Tản Viên – linh thiêng ngọn núi thuộc truyền thuyết Đức Thánh Tản Viên

Núi Tản Viên hay núi Ba Vì được cho là ngọn núi nắm giữ đường long mạch quan trọng. Đồng thời, đây chính là ngọn núi xuất hiện trong truyền thuyết Sơn Tinh – Thủy Tinh khi “Thủy Tinh dâng nước cao bao nhiêu thì Sơn Tinh dâng núi cao bấy nhiêu”. Khu vực trong lời kể được cho là ngọn núi Ba Vì.

Ca dao cũng truyền tụng về núi Ba Vì: “Nhất cao là núi Ba Vì, thứ ba Tam Đảo, thứ nhì Độc Tôn”. 

Thực tế, núi Ba Vì thấp hơn núi Tam đảo tới gần 300m nhưng dân gian vẫn coi ngọn núi này là cao nhất địa giới. Bởi Ba Vì là nơi ngự của Thần Núi Tản Viên nên trong tâm thức người Việt, không ngọn núi nào sánh bằng với núi Ba Vì. 

Ở ngôi đền cổ thờ vị thần núi cũng có câu đối: “Châu hình đẩu tiễn thiên hoành không/ Hạo khí quan mang vạn cổ tồn”.

Dịch là “Dáng hình sừng sững ngang trời rộng/Hạo khí mênh mang thuở còn”.

Tại quyển “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi cũng trích dẫn “Núi ất là núi tổ của nước ta đó.” Thể hiện vị thế cùng với tầm quan trọng bậc nhất của ngọn núi Tản Viên Ba Vì.

Ngày nay, dọc dãy núi Ba Vì là hệ thống đền thờ Tản Viên Sơn thánh trấn 4 hướng đông tây nam bắc:

Tây Cung gồm đền Trung và đền Hạ.

Nam Cung là đền Ao Vua.

Đông Cung là đền Và Sơn Tây.

Bắc Cung là đền Thính ở Vĩnh Phúc. 

Ngày nay, núi Ba Vì trở thành địa điểm thu hút khách du lịch cả trong và ngoài nước. Cùng với hệ thống đền thờ phong phú cùng phong cảnh hoang sơ tuyệt đẹp sẵn có, Ba Vì trở thành khu du lịch sinh thái nghỉ dưỡng hấp dẫn mọi du khách là điều vô cùng dễ hiểu. 

Cần chú ý gì khi sắm lễ Đức Thánh Tản Viên

Từ xa xưa, nhân dân đã luôn tin thờ và duy trì tục lễ Đức thánh Tản. Trong tâm thức, con hương luôn kính cẩn chấp bái, chấp niệm tin rằng Đức Thánh Tản luôn phù hộ độ trì cho quốc thái dân an, cuộc sống bình an, an ổn. Bởi vậy mà mỗi năm luôn có hàng ngàn con hương tín thờ và thường xuyên ghé thăm đền thờ đức thánh để dâng lễ bạc tâm thành lên ban thờ thánh. Đông nhất là vào những ngày lễ tiết lớn trong năm như ngày đầu xuân năm mới hay mùa lễ hội tại đền. Mỗi con hương, đệ tử đến đền lại mang theo một mâm lễ đủ đầy hương hoa, phẩm quả mong ngài chứng giáng phù hộ độ trì cho gia quyến bình an, khỏe mạnh, có tài có lộc, làm ăn thuận lợi, tốt tươi.

Một mâm lễ dâng ban thờ Đức Thánh Tản Viên gồm một đĩa hoa, một đĩa quả gồm nhiều loại quả, cơi trầu, quả cau, cút rượu, xôi thịt, thẻ hương, giấy tiền và một cánh sớ.

Đền Thờ Tản Viên Sơn Thánh

Đền thờ Thánh Tản Viên được nhân dân thờ tự tại rất nhiều ngôi đền tại khu vực dãy núi Ba Vì nổi tiếng nhất là các ngôi đền Thượng, Trung, Hạ gọi chung là đền thờ Tản Viên Ba Vì, đền Và tại Sơn Tây, đền Tranh và đền Thính tại Vĩnh Phúc, đền Lăng Sương tại Phú Thọ.

Theo thần tích tại Đền Và thì cung Trung và cung Hạ là nơi cầu đảo, tế lễ. Đông Cung là nơi “nghe tâu bày các việc”. Bắc Cung là nơi nghỉ ngơi.

Đền thờ Tản Viên (Ba Vì) 

Địa chỉ: xã Minh Quang và Ba Vì, thuộc huyện Ba Vì

Đền thờ Tản Viên Ba Vì là tên gọi chung của hệ thống ba đền thờ Thượng, Trung, Hạ lần lượt nằm tại đỉnh, lưng chừng và chân núi thờ thần Tản Viên Sơn Thánh.

 

Đền Thượng hay còn gọi là chính cung Thần Điện nằm tại khu vực đỉnh núi cao 1227m so với mực nước biển. Theo các truyền thuyết và ngọc phả có liên quan thì đền Thượng có từ thời An Dương Vương. Là ngôi đền cổ kính, được nhân dân lập từ xa xưa.

Đền Trung còn gọi là Trung Cung tọa lạc tại lưng chừng núi Ba Vì. Tại chính cung đền thờ bà Ma thị Cao Sơn – người mẹ nuôi của Tản Viên Sơn Thánh, đồng thời là vị thần chủ cai quản núi Tản Viên. Đây là ngôi đền có vị thế đẹp nhất trong hệ thống các ngôi đền thờ thần Tản Viên.

Đền Hạ còn được gọi là Tây Cung. Ngôi đền được xây dựng dưới chân núi Tản, ngay bên bờ sông Đà. Theo ngọc phả ghi lại tại đền Và thì đầu thế kỷ 18 người dân đã xây dựng đền Hạ.

Khách hành hương khi dâng hương tại ba ngôi đền có thể kết hợp việc cúng lễ với du lịch thắng cảnh khu vực vườn quốc gia Ba Vì nổi tiếng.

Khu di tích đền Và (Sơn Tây) 

Địa chỉ: thôn Vân Gia, xã Trung Hưng, thị xã Sơn Tây

 

Đền Và là ngôi đền nổi tiếng nhất trong hệ thống đền thờ tản viên sơn thánh ở Hà Nội. Năm 1964, đền Và được xếp hạng di tích lịch sử văn cấp quốc gia.

Theo truyền thuyết, đền Và là hành cung của Tản Viên Sơn Thánh mỗi lần người đi tuần thú hay du ngoạn. 

Đền Và lưu giữ trong mình rất nhiều giá trị quý giá như 5 bản thần tích của Tản Viên Sơn Thánh, 18 đạo sắc phong, 47 đôi câu đối được chạm khắc công phu trên vách cột, cùng hoành phi gỗ, đá. …

Tại hậu cung đền thờ Tam Vị Đức Thánh Tản gồm Thánh Tản Viên, Quý Minh và Cao Sơn.

Ngôi đền được truyền tụng là đền thiêng, vô cùng linh ứng lời thỉnh cầu của con hương.

Lễ hội đền Và được tổ chức vào ngày 13 – 15 tháng giêng, cứ 3 năm lại tổ chức một lần lễ to. Lễ hội đền Và được đánh giá là lễ hội lớn nhất, đặc sắc nhất xứ Đoài.

 

Đền Tranh và đền Thính (Vĩnh Phúc) 

Địa chỉ đền Tranh: xã Trung Nguyên, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc

Địa chỉ đền Thính: xã Tam Hồng, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc

 

Hai ngôi đền thờ thần Tản Viên đều được xây dựng gần nhau thuộc huyện Yên Lạc, Vĩnh Phúc. 

Hai ngôi đền đều có lịch sử xây dựng từ xa xưa, đã trải qua nhiều lần tu sửa tôn tạo nên đền rộng hơn và khang trang hơn nhiều. Chủ yếu các nét kiến trúc trong đền nghiêng phần nhiều về kiến trúc nghệ thuật thời nhà Nguyễn. 

Mặc dù được xây dựng gần nhau những mùa lễ hội tại hai ngôi đền này được tổ chức không giống nhau.

Tại đền Tranh, người ta tổ chức lễ hội vào ngày rằm tháng Giêng, ngày 6/2 và ngày 6/8 âm lịch. Nhân dân tại đền Tranh tổ chức lễ hội đền theo hình thức diễn xướng, nhắc lại công lao đức thánh ngài và tiến hành nghi lễ gieo hạt, cầu mưa thuận gió hòa.

Với cùng hình thức tổ chức các nghi lễ trong hội, lễ hội đền Thính được tổ chức vào mùng 6 đến mùng 9 tháng giêng âm lịch. Hội làng tại đây bao gồm nhiều trò chơi dân gian như đấu vật, chọi gà, kéo co

 

Đền Lăng Sương (Phú Thọ)

Địa chỉ: xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ

 

Nếu bạn đã biết đến hệ thống đền Và Sơn Tây, đền Tranh, đền Thính Vĩnh Phúc thờ thần Tản Viên thì không thể không biết đến đền Lăng Sương tại Phú Thọ. Theo cuốn ngọc phả, đền Lăng Sương mới là nơi phát tích của thánh Tản Viên. Những ngôi đền còn lại đều chỉ là đền thờ vọng.

Theo ghi chép tại đền, đền Lăng Sương được xây dựng năm 1011 vào thời nhà Lý. Khu vực xây dựng đền cũng được đặt trên nền móng nơi thánh Sơn Tinh sinh ra và lớn lên. Bởi vậy, ngôi đền được rất nhiều con hương, đệ tử tứ phương lặn lội đường xa tìm về để dâng lễ, cúng bái hàng năm. 

Đền Lăng Sương tổ chức lễ hội vào ngày 14 – 16 tháng Giêng âm lịch hàng năm. Trong đó, ngày 15 là ngày lễ chính. Song song với hoạt động tế lễ, nhân dân thập phương cũng thường tập trung về đền vào ngày lễ hội bởi theo quan niệm, ngày linh thiêng nhất, tốt nhất để dâng hương cửa đức ngài là ngày lễ hội.

 

Văn Đức Thánh Tản Viên

Bản 1: 

Nhạc Phủ Thánh Đế Văn

Động sơn trang thượng ngàn thánh phủ

Đức Tản Viên đấng chủ sơn lâm

Nổi cơn gió cuốn ầm ầm

Di sơn đảo hải cứu dân thoát nàn

Cõi Nam bang nhờ ơn đại thánh

 Đất Sơn Tây, Tản Lĩnh ngất cao

Đôi bên tả hữu bộ tào

Tam thập lục động ra vào quản cai

Chốn sơn lâm muôn loài cầm thú

Nhờ thánh ân Nhạc Phủ thần vương

Lại thêm bát bộ sơn trang

Dời non chuyển núi phép càng thần thông

Nay ngưỡng trông thánh vương soi xét

Độ thanh đồng khắp hết gần xa

Độ cho khang thái cửa nhà

Cây tài nhánh lộc nở hoa bốn mùa

Khắp thôn bản gió mưa hòa thuận

Cõi lâm sơn ngàn mận ngàn mơ

Đỉnh non gió thổi phất phơ

Suối reo thác đổ tiếng tơ chạnh lòng

Chúng đệ tử một lòng thành kính

Tiến văn trình thỉnh thánh giáng lâm

Chữ rằng thánh giáng lưu ân

Sơn trang lưu lộc thiên xuân thọ trường.

Bản 2: Tản Viên Sơn truyện cổ tích

Trước bày Đại Việt Hùng Vương

Dân an đệm chiếu bốn phương thuận hòa

Đâu đâu hát thái bình ca

Phong đăng bách cốc nhà nhà đủ no

Có người là con học trò

Tên là Nguyễn Tuấn thế lo làm tày.

Phòng văn án tuyết đêm ngày

Gạo châu củi quế thiếu rày lấy đâu

Đọa tài khắp một tay thâu

Sớm lo chẳng đủ lấy đâu ngày dùng

Tuổi vừa được chốn xuân nồng

Thất gia chưa có dụng phòng chống nao

Lên chơi rừng quế nguồn đào

Giang sơn chốn chốn thấp cao mọi ngàn

Chim kêu vượn hót làm đàn

Có nơi là Tản Viên Sơn hiệu lành.

Bốn bề non nước cực thiêng

Dẫu có thụy khí anh linh lạ thường

Cảnh thanh kỳ lạ khác thường

Non nhân nước trí bốn phương hữu tình.

Nhuộm tươi chân ngắt mầu xanh

Dương bằng một cảnh hồ thanh ngất trời

Hình hô một cảnh lâu đầi

Đỉnh cao đột ngột chống trời một phương.

Quần sơn chầu lại nên hàng

Thế lo đất phức ắt đường nơi đây.

Cảnh thanh đắc ý mừng thay

Lập làm lều tiện tháng ngày náu chơi.

Lâu la chiếu đất màn trời

Làng Nhan cửa Khổng chẳng đời chí xưa.

Sơn hào song viết thừa lưa

Thói quen nên kẻ tiều phu trí mầu

Ngày ngày bẻ được củi mau

Xăm xăm làng hạnh gạo châu đổi dời.

Đèn trăng quạt gió vẫn chơi

Hôm mai no đủ cầu gì thế gian.

Một ngày lên đỉnh Cao sơn

Nhìn xem sắc mộc thiên bạn lạ dường.

Cây cao chót vót sơn trường

Đàn lên tán lục rợp trương lạnh lùng.

Tần Hoàng xưa có sắc phong

Ơn vua chức trọng phù tùng uy nghi.

Hương xuân ngát nức tư bề

Nguyễn Lang thấy lạ đòi khi lo lường

Chữ rằng: trừ mộc khử ương

Tay cầm thiết phủ chém thương tồi tàn.

Ngả cây tiếng dậy lâm san

Chuyển lên kinh khủng thế gian hãi hùng.

Nguyễn Lang chẳng chuyển hình dung

Để khô làm củi dình phòng bán mai.

Ai hay là sự bởi trời

Bỗng đâu xui khiến có nơi hộ trì.

Thấy sao Thái bạch tử vi

Thần thông biển hiện một khi nên người.

Một ông lão tử tám mươi

Tay cầm tích tượng bởi trời sấy sa.

Thấy cây tươi tốt dầm dà

Nguyễn Lang hoài chém tồi pha thương này

Xăm xăm tích trượng cầm tay

Gõ vào cây ấy một giây lạ dường

Tự nhiên cây ngọn hồi dương

Dựng nên cây tốt tán trường xanh rờn.

Ngày sau Nguyễn Tuấn lại lên,

Thấy cây vặc vặc vẹn toàn như xưa.

Gẫm rằng sự lạ qua ưa

Cây này đã ngả hôm qua tan tành.

Một giờ ngọn lại tươi xanh

Thấy âu là có thần linh hộ trì.

Cây sao quái gở nhiều bề

Sự thì đã lạ thấy thì chẳng ngoa.

Tay cầm phủ việt lại pha

Chém cây ấy xuống ngã ra tan tành.

Một bên đứng nép hòa rình

Thấy ông Thái Bạch kim tinh đến gần

Liền hối tích trượng chân nhân

Gõ vào cây ấy chuyển vần lạ bao.

Dựng nên đột ngột xanh cao

Cây nên vặc vặc tơ hào chẳng ngoa.

Tán xanh cây tốt dầm dà

Thấy ông Thái Bạch tuổi già lu khu

Thấy trời có ý tựa cho

Nguyễn Lang thấy ý liền lo lời này.

Ắt là Trời, Phật tới đây,

Đè ông liền cướp được rày mừng sao.

Phật trên một tiếng cả cao:

“Kìa mày lấy gậy thì tao càng mừng

Đây hòa cứu tử độ sinh

Tự nhiên phúc đức bởi mình hòa ra.

Cứu dân độ quốc gần xa

Công cao đệ nhất người ta trọng dùng”.

Nói thôi dạy phép thần thông

Bụt liền thoắt biến về trong bảo đài.

Ác vàng xế bóng non đoài

Nguyễn Lang trở lại Sơn trai chốn nhà.

Ngày sau gánh cửi bên hà

Mục đồng kính nhưỡng âu ca chơi bời.

Vo ve tiếng địch vừa vui

Đã không thì nói vui chơi đêm ngày.

Nam thanh nữ tú làm bày.

Khi ca khi nói khi cười khi không.

Bảo nhau đã nức dậy đường

Hò reo tập trận Đinh Hoàng cờ lau.

Ngựa bò cờ nón voi trâu

Kèn loa tiếng trống đâu đâu dậy đường

Thuở ấy Thủy Tề Long vương

Có một nam tử là chàng Tiểu Long.

Phù sinh thơ dại trẻ trung

Rắn vừa đội lốt chơi rông lạc đường.

Trường giang tới bãi Tiêu Tương,

Trẻ thơ bài ấy lòng càng muốn coi.

Miên man lễn bãi đầu doi

Rắn liền thấy trẻ vui chơi lại gần.

Thế gian ai biết thủy quân

Làm chi ai biết thiên nhân Thủy Tề.

Tay cầm dùi mít liền bè

Đánh Tiểu Long chết tức thì bảo nhau:

“Đánh rắn đánh cho dập đầu

Kẻo hòa chàng ấy ngày sau trả thù.”

Để lên bãi cát nằm co 

Tiểu Long hồn phách bơ vơ rụng rời.

Tình cờ đem để có nơi

Nguyễn Lang đến đấy ngược xuôi bao giờ.

Đông tây vắng vẻ bằng tờ

Bãi non tới xuống trời vừa tà dương.

Rắn liền nằm bãi Tiêu Tương

Như rồng uốn khúc, tới nhường lạ thay.

Nguyễn Lang tích trượng cầm tay

Gẫm rằng ta thử gậy này thấy nao.

Gậy thiên thần mới cho tao,

Thiêng liêng nhường ấy nhẽ nào được hay.

Ngày xưa người chữa được cây

Bây giờ ta chữa rắn thế nao.

Bèn cầm tích trượng gõ vào

Thần thông sao khéo lạ nào tự nhiên.

Rắn lại trương cất đầu lên

Hoàn hồn uốn khúc lại yêu vẹn toàn.

Cúi đầu quỳ lạy tạ ơn

Tiểu Long trở xuống thủy tiên tức thì.

Thần thông phút đến Thủy tề

Vua cha coi thấy lòng thì mừng thay:

“Con sao ba bốn hôm nay

Tìm hoài chẳng thấy là hay nơi nào?”

Tiểu Long lén lén tâu vào:

“Đi chơi lạc đến ngòi Tào thương thay.

Lân la đến chốn Sơn Tây

Bãi Tương ngàn Sở chốn nay hữu tình.

Một nơi là một khoe thanh

Giang sơn thành thị dường tranh mỹ mùi.

Cảnh kỳ dư ngất xuân đài

Chẳng ngờ là chốn ấy người phàm gian.

Chơi xuân đồng mục có đàn,

Thấy vui tôi muốn lên xem tới gần.

Lối thiêng trái dáng chân nhân

Nó ngờ là rắn hại dân bấy chầy,

Trẻ trung thờ dại chẳng hay

Nó liền đánh chết bỏ thây bên ngàn.

Có người là Tản Viên Sơn

Tên là Nguyễn Tuấn phép tiên ai tầy.

Thần thông tích trượng cầm tay

Hoàn sinh của Bụt ấy nay bao giờ.

Tài hiền tướng mạnh qua ưa

Chữa tôi lại sống tỉnh xưa lại hoàn.

Mới hay phúc bởi hoàng thiên

Rày tôi về tới Thủy tiên chốn nhà.

Lại xem thấy mặt mẹ cha”.

Long Vương thấy nói xót xa trong lòng.

Mừng con mở tiệc đền rồng

Thỉnh mời Nguyễn Tuấn đến cùng tạ ơn.

Sai tam bộ sứ Thủy tiên,

Tiểu Long hiển hiện cùng lên tới nhà.

Tiểu Long quỳ lạy trình qua:

“Tôi la thủy tộc kênh hà Long Vương.

Mục đồng ngày ấy làm thương

Ơn nhờ chữa được nghĩa càng cảm thay.

Cha tôi thỉnh xuống một giây

Đền rồng bẩm tạ ơn nay cho chàng.

Dầu cha cho bạc cho vàng

Sau là tiền vải vóc càng nhiều thay.

Thái hoa thung thúc đã đầy

Của ấy chẳng tày sách ước quốc gia.

Ước chi được nấy chẳng ngoa

Thiên vàn xin đức vua cha cho về”.

Dặn dò mọi nỗi vân vi

Đem nhau vừa xuống Thủy tề Long cung.

Vừa khi vua ngự đền rồng

Thành vàng báu ngọc lạ lùng nhiều sao.

Khắp đầy đài các cung cao.

Phủ lầu tượng vị đền cao ngàn tầng.

Long Vương cao ấy phán rằng:

“Người tiên thói ở ra lòng thế bay”

Tiểu Long được đội ơn này

Chữa tôi ngày trước, khi nay vừa hồi.

Nhân duyên ngõ nhẽ đôi người

Kết làm huynh đệ chưa đời chí xưa.

Vàng thì muôn nén lấy đi,

Bạc thì muôn gánh thái hoa vô vàn.

Lưu li hổ phách hô san

Trân châu mã nã đầy bàn mười mâm.

Báu yêu thức tốt dư trăm

Khiến người đưa đến sơn lâm cho chàng.

Nguyễn Lang vái tạ từ nhường:

“Cửa vua châu báu vàn muôn kênh hà.

Song le tôi khí chật nhà

Tôi xin sách ước quốc gia bấy chầy.”

Long Vương lòng chẳng thiết thay

Nửa cho, nửa lại tiếc rày chẳng cho.

Tiểu Long đến trước tâu vua:

“Tôi xin sách ấy vua cho ơn người”.

Long Vương nghe nói ngùi ngùi

Tố thư một cuốn đưa nay cho chàng.

Nguyễn Lang khấp khởi lòng vàng

Tức thì vái tạ Thánh hoàng trở ra.

Tiểu Long vừa bước đưa qua

Trượng phu bốn bề một nhà anh ba

Dặn dò sau trước một bề

Đầu đào báo lý chưa hề làm chi.

Giang sơn đối mặt bái từ

Người lên non Tản người về Thủy cung.

Nguyễn Lang được phép thần thông,

Ước chi được nấy trong lòng mừng thay.

Ước nên đài các đông tây

Ước nên châu báu chưa đầy chân chan

Ước nên thiên hạ bình an

Ước nên bốn bể phượng loan một nhà.

Ước nên phong vũ nhuận hòa

Được mùa bách cốc nhà nhà đủ no.

Ước nên thọ khảo muoont hu

Phúc nhà con cháu phúc nhà tiên ông.

Ước chi được nấy lạ lùng

Như trong ước muốn, như lòng ước xưa.

Thuở ấy Thủy tề giang hà

Ngường con lên trị quốc gia bấy chầy.

Sơn quân thấy vậy mừng thay

Bọn xưa chẳng phụ thường hay đi về.

Thuở ấy Hùng vương cung phí

Sinh được con gái tên là Mỵ Nương.

Tuổi vừa mười bốn phi phương

Tinh thần ngọc đúc Thọ Dương ai tày,

Má hồng đa ngọc hây hây.

Ngờ thần tiên nữ xuống rày đài dương.

Nương long chúm chím tuyết sương

Tiết mai dường thuở thường thường mới đây.

Tốt thay điệu điệu lưng ong,

Mình thì chật bức quần hồng vừa vui.

Thong dong ngọc thốt miệng cười

Chân đi thoắt thoắt khoan thai dịu dàng.

Nết na tư chất khác thường

Hình dung yểu điệu nhan hồng thuyền quyên.

Càng nhìn càng một hữu duyên,

Hà sơn khả vi hương tiên khôn bằng.

Da ngà tóc phượng khác hằng

Thế gian ai thấy là chăng phải lòng.

Một nơi là một lạnh lùng

Ngọc lành cao giá đợi cùng chốn sang.

Tiến đồn dậy khắp lân bang

Đã nên một gái mọi dường con cha.

Đầu cài trâm hốt ngọc hoa

Của bằng các bạn hằng nga tốt lành.

Tiến đồn mọi quận mọi thành.

Thục vương muốn kết ả anh một nhà.

Song le chẳng gả chồng xa

Hùng Vương làm hội quốc gia bầy chầy.

Khắp hòa thiên hạ đông tây

Mặc cho con kén ai nay có tài.

Dậy dường đồn nức mọi nơi

Trông xem mừng gặp duyên trời dẩy dun.

Ai ai cũng đến cửa son

Mỵ Nương hợp ngọc lòng còn hồ nghi.

Chưa lòng kết tóc phu thê

Thế gian cùng đến đều thì ước ao.

Long Vương lên đỉnh án cao

Tìm chàng họ Tuấn kết giao bấy chầy,

Đôi người khấp khởi mừng thay

Đền cao gác rộng hây hầy ỷ la

Tiệc bày mỹ vị xướng ca

Nghênh hôn mừng rỡ thật là vui thay.

Chả lân thịt phượng khắp bày

Mâm đầy ngọc thực, chén đầy quỳnh tương.

Vang lừng một đám phong quan

Sơn Tinh cùng chúa Long Vương khuyên mời.

Hùng Vương làm hội tháng trời

Tiến đồn vang nức đòi nơi xa gần.

Long Vương cùng chúa Sơn quân 

Đôi vua nghe tiếng mười phân ra mừng.

Vội vàng mở tiệc tưng bừng

Đôi vua về núi tếch rừng một khi.

Trường An thẳng tới làm kỳ

Thấy Hùng Vương hội nhiều bề mừng thay.

Xăm xăm tới trước tâu bày:

“Đôi tôi kén rẻ phen này xứng chăng?

Chúng tôi tú pháp tài năng

Ngõ đây Nguyệt Lão hợp trăng tình cờ”.

Long Vương phun nước liền mưa

Sơn quân đứng núi một giờ mọc lên.

Thuở ấy thủy tộc thủy tiên

Trong lòng lấy hột xảy liên từ đình.

Đặt bày muôn khóm thụy tinh

Một dây liền mọc lá cành nở ra.

Nên cây tươi tốt dầm dà

Trăm hoa đua nở dà dà cành xanh.

Thuở ấy họ Tuấn Sơn quân

Tây cầm phủ việt lấy cành chém cây.

Đòi nơi lá rụng hoa rơi,

Lại lấy tích trượng cầm tay vội vàng.

Gõ vào ngay cây cam đường

Tự nhiên cây lại hồi dương tức thì.

Quả hoa lại kết liền chi

Cây nên vặc vặc tư bề hồi dương.

Chồi lá lá ngọc cành vàng

Hùng Vương xem thấy lòng càng mừng thay.

Đôi người thi phú đều hay

Hùng Vương mới nói lời này phán ra:

“Cây cao hòa có một hoa

Duyên ai nấy gặp biết hòa làm sao

Đôi người dạ cũng đều yêu

Tài khôn nhường ấy biết nào phụ ai

Song le duyên phận mặc trời

Lòng lo lưỡng lự mở lời ấy khôn.

Nhân vì nhà có một con.

Bây giờ dụng sự kết hôn gả chồng.

Mặc ai sính lễ việc dùng

Đặt bày trước mặt sân rồng đến sơ

Ấy là phận đẹp duyên ưa

Nhân duyên mặc lão tình cờ mặc ai.

Đôi vua bái tạ trước ngai

Về nhà sắm sửa sính tài kíp thay.

Sơn quân sách ước cầm tay

Ước nên vàng bạc của đầy dư muôn.

Trâu bò gà lợn đến tuôn

Sẵn sàng bày đặt trước đền hư không.

Mời khuyên yến ẩm đền rồng

Mỵ Nương trước lấy về cùng Tản Viên.

Long Vương sau đến lỡ tin

Thẹn thò xấu mặt lòng càng hận thay.

Bèn liền chốc ý phân tây

Ơn xưa chẳng đoái lại hay oán thù.

Thời vừa tháng bảy đầu thu

Kim phong hải khẩu gió mưa bay dời.

Tiết sang vừa chịu lệnh trời

Cầm quyền Bạch đế đòi nơi lạ dường.

Thuở ấy Thủy Tề Long Vương

Hận vì chẳng được Mỵ Nương kết nghì.

Vãng lai tin tuyệt đi về

Giao lân nào có ỏ ê tới lòng.

Nẻo hòa dạ khác thì vong

Long Vương sắm sửa thủy cung binh quyền.

Hận rằng lên đánh Tản Viên

Chư quân eo óc nước dâng lên ngàn.

Kình nghê sấu vực giương vây

Rắn rồng uốn khúc rồng bay một đoàn.

Nước dâng lai láng đầy ngàn

Mưa tuôn bão giật sấm ran đùng đùng.

Nhị hà dòng nước mênh mông

Kình nghê thổi gió rắn rồng phun mưa.

Đua nhau thừa tướng trường xà

Miết lân ngư trượng kể dư muôn vàn.

Giương vây vùng vẫy tiến ngàn

Uy ta điện chớp sấm ran lôi đình.

Tam đầu cửu vĩ tiên binh 

Đến Từ Liên huyện sự tình nghỉ ngơi.

Thấy bà lão mẫu tốt tươi

Một mình xuống tắm thửa nơi giang bà.

Long Vương thử triệu niên nga

Không dưng bắt lấy lão bà thảm thương.

Chẳng ngờ phải mẹ vua Chèm

Ra đi đến Bắc trấn biên hòa về.

Mình cao nghìn trường chín ghê

Theo xuống hòa tắm thông tri đâu là.

Bởi về thấy rằng vắng mẹ già

Chăng ngờ thủy tộc bắt hòa chăng thương.

Ông Chèm báo oán Long Vương

Lưới giăng ngăn khúc bến giang đón về.

Thuở ấy Long tộc Thủy tề

Đem quân lên đánh Ba Vì Tản Viên.

Sơn quân vùng chúa Thủy tiên

Đôi vua ra trận ấy liền bảo nhau:

“Ấy vua Thủy tộc đi đâu

Mặt trăng mặt vực thấy nhau chẳng chào.

Hay là chàng có lòng nào

Đem quân rồng rắn lên ngàn làm chi?”

Thưa rằng: “Bởi vua Ba Vì

Lừa nhau làm sự vô nghì trước sau.

Hơn lòng lấy cướp vợ nhau

Chăng vì bầu bạn dạ hầu bất nhân.

Thấy chàng làm chúa Sơn quân

Ra lòng khinh bạc mười phần sai ngoa.

Bạn xưa sao chẳng thực thà

Cho nên thủy tộc kênh hà cất binh.

Nhọc lòng văn vũ triều đình

Cho nên lỗi đạo đệ huynh bởi người.”

Sơn quân hòa nói hòa cười:

“Đôi ta cùng đội ơn trời giáng sinh.

Chàng đã ra dạ tương tranh

Cho nên lỗi đạo đệ huynh chăng hòa”.

Ắt là sơn thủy nên xa

Sơn quân cũng chúa kênh hà tranh khi.

Sơn quân những tướng hùng uy

Khi hươu hùng hổ làm vì tiến ra.

Chư quân đối địch giang hà

Hươu Tần Khi Sở rày đà nên công.

Long Vương đội lấy lốt rồng

Phun mưa thổi gió đùng đùng bốn phương.

Phong vân một trận lạ dường

Kình nghê sấu vực quân càng nhiều thay.

Cá mừng gặp hội rồng mây

Nhẩy qua cửa Vũ một giây nên rồng.

Đua nhau những trí anh hùng

Điểu phượng theo rồng, phù chú lấy sang.

Đôi bên giao chiến vội vàng

Non tiên hổ báo theo chàng long ngư.

Đánh nhau vừa được ba giờ

Long Vương hóa phép giục ba quân vào.

Biến làm đội rác râu tào

Nổi lên mặt nước tiến vào đột xung.

Sơn quân gẫm được sự lòng

Trúc thưa trúc mật tây đông tứ bề.

Đôi bên đều cũng uy nghi

Lạc hay chế ngự ai thì thua ai.

Bảo nhau chém rác quân tào

Đều thì có máu, đều thì lạ thay,

Trúc tên bắn phải mưa bay

Kình nghê cá rắn thác đầy làm nơ.

Vốn xưa đã được sách trời

Thủy Tinh thua xuống thuở nơi giang hà.

Ba quân hồi khải hoàn gia,

Sơn trường lấy gỗ trở ra tiến về.

Thủy quân nẻo cũ quen về

Ngày sau tức thì đến xã Từ Liêm.

Tiên binh xung lưới ông Chèm

Ai hòa chẳng được càng thêm lo lường.

Hội đồng cá rắn biên giang

Ông Chèm ra thấy lòng càng mừng thay.

Trở ơn thân mẫu khi nay

Dạng chân sông cả, đôi tay vơ quàng.

Bủa vây mọi khúc biên giang

Rắn rồng bắt lấy bật ngang vào đồi.

Long Vương mất vía rụng rời

Đường về chẳng được mặc người khôn qua.

Long Vương hải tàng còn xa,

Mở rèm cửa Hát luồn qua chu kiều,

Năm năm thường một neo chèo

Đem quân lên đánh Ba Vì Tản Viên.

Sơn quân thấy bạn chăng hiền

Lại lấy sách ước ra nguyền một giây.

Chước chi tao ước được mày

Chúa Tiên tinh ước một giây lạ dường.

Long Vương thủy tộc ba đầu

Ông Đàm ông Cột ông Lương ông Chài.

Song le mạnh chẳng qua trời

Sách thiêng chư tưởng rụng tời hồn kinh.

Tự nhiên lên núi nộp mình

Thần thông biến hóa hiện hình càng ghê.

Đều thì cá rắn chín ghê

Mình dài trắm thước uy nghi lạ lùng.

Rắn thiêng hóa phép nên rồng

Sơn Tinh thương tích trong lòng dây dây.

Nhớ xưa hai nghĩa chẳng rời

Tùy hàng bầu bạn mong hoàn lại tha.

Hiện nên tướng cả lòng xà

Cức cung bách bái nằm ca tiền đường.

Thuở ấy Sơn quân phán rằng

Tiếc thay những tướng tài hiền Long quân

Đều hay hộ quốc cứu dân

Huy hòa bốn bể xa gần được ơn.

Lại đi đánh trả Thủy tiên

Sơn quân có được hoàng thiên hộ trì.

Bản 3: Đức Thánh Tản Viên Chân Kinh

Chí tâm phục mệnh lễ

Tản Viên Sơn thánh

Sơn quốc chúa đại vương

Dực bảo trung hưng

Thượng đẳng tối linh thần

Thái Bạch, Long Vương

Ban mộc tinh, bí pháp truyền

Ban phúc, phù công danh

Cứu chúng sinh chi khổ nạn

Thần trú lưu hành, phổ tiêu bất thường

Hồng thủy phi diệt, khai trừ thủy cảnh

Thiên đạo vạn thông, cảm hữu can chi

Xá tống hỏa quan, xích thư sở cáo

Tứ sinh lục đạo. Hữu cảm tất phù

Tam giới thập phương vô cầu bất ứng

Lăng xương cốt cách ngọc tinh thần

Mang dấu rồng thiên xuống hạ trần

Thái Vĩ cùng tiên trên Thượng giới

Sinh ra Thánh Tản tại nước Nam

Nam quốc Tản Viên Sơn thánh

Hương hỏa hiển thánh

Đại bi – Đại nguyện – Địa thánh – Đại từ

Khai sơn hộ quốc

Lịch ứng thượng đẳng tối linh thần

Đệ nhất bách thần

Nam thiên thánh tổ thiên tôn.

 

TẢN VIÊN SƠN THÁNH VÀ TÍN NGƯỠNG TỨ PHỦ

Tục truyền Đại Vương sinh ngày rằm tháng giêng ngày mùng 6 tháng 11 thì hóa.Cùng với Phù Đổng Thiên Vương Chử Đạo Tổ Thánh Mẫu Phủ Dày.Ngài là vị Thánh đứng đầu trong bốn vị Thánh bất tử của dân tộc ta.
Các triều đại kính trọng gia phong Đại Vương hiệu VIết Tản Viên Hiệu Thánh Khuông Quốc Hiệu Ứng Vương hưởng hương khói cúng tế không dứt liệt vào hàng Quốc tế

xem như vị đệ nhất phúc thần của nước Việt ta.
Dân gian tôn kính, kêu ngài Tản Viên Sơn Thánh, Đệ Nhất Thượng Đẳng Phúc Thần, Đệ Nhất Bách Thần, Nam Thiên Thánh Tổ, là Thần của các Thần nước Nam.
Trong tín ngưỡng Tứ Phủ
Hiện nay trong hệ thống thờ tứ phủ có 4 vị mẫu cai quản các Thiên, Địa, Nhạc, Thoải. Bên cạnh các Mẫu có 3 vị Vua cha được thờ làm thần chủ các phủ là Ngọc Hoàng Thượng Đế (Thiên Phủ), Bát Hải Động Đình (Thoải Phủ), Bắc Âm Phong Đô Nguyên Thiên Đại Đế (Địa Phủ). Như vậy còn khuyết vị trí vua cha Nhạc phủ.
Vị trí Vua cha Nhạc phủ là có, được thỉnh đến trong văn công đồng:
Tận hư không giới thánh hiền
Dục giới sắc giới chư thiên đều mời
Vua Đế Thích quản cai Thiên chủ
Vua Ngọc Hoàng Thiên phủ chi tôn
Dương phủ Ngũ Nhạc thần vương
Địa phủ thập điện minh vương các tòa
Dưới Thoải phủ giang hà ngoại hải
Chốn Động Đình Bát Hải Long Vương…

Ngũ Nhạc Thần Vương là ai?
Theo truyền thuyết Tản Viên Sơn Thánh đã đi khắp nơi, dựng nhiều hành cung trên đất Việt, hệ thống hành cung của Tản Viên được chia làm 5 khu chính như sau:
+ Thượng cung: là đền Thượng nằm trên đỉnh Tran của núi Ba Vì
+ Đông cung: là Đền Và ở cạnh thị xã Sơn Tây, cạnh Sông Hồng
+ Tây cung: gồm đền Chung trên núi Chàng Rể và đên Hạ ở bờ hữu sông Đà, đối diện với động Lăng Xương, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ – Nơi thờ đấng sinh thành Ngài là cha Nguyễn Cao Hạnh và mẹ Đinh Thị Đen.
+ Nam cung: là đền Ao Vua
+ Bắc cung: là đền Thính ở Tam Hồng – Yên Lạc – Vĩnh Phúc. (Thính là đọc tranh âm của Thánh). Ngoài ra còn có Bắc cung thượng là đền Tranh ở Trung Nguyên – Yên Lạc – Vĩnh Phúc.
Vậy thì Ngũ Nhạc Thần Vương cũng có thể hiểu chính là Tản Viên Sơn Thánh, trong đó Ngũ ứng với 5 hành cung của Đức Thánh Tản để trấn giữ vùng núi Tản, chứ không phải để chỉ 5 vị thần như cách hiểu trong Đạo Giáo. Điều này cũng giống như Vĩnh Công được phong làm Vua cha Bát Hải Động Đình, trong đó bát ở đây là chỉ 8 cửa biển nước Nam mà trước kia Vĩnh Công đã lập nên chiên công đánh giặc ngoại xâm, chứ không phải bát chỉ con số 8, ứng với 8 vị Long Vương trong Đạo Giáo.
Ngọc phả tại đền Và kể về Đức Thánh Tản có đoạn: “Vua Hùng gia phong cho Sơn Thánh làm Nhạc Phủ Kiên Thượng Đẳng…” . Như vậy rõ rang Tản Viên Sơn Thánh là Thần Vương của Nhạc phủ trong tín ngưỡng Tứ phủ. Ngọc phả lại có đoạn; “… từ đó phụng mệnh Hoàng Đế cùng với Tứ phủ công đồng ở trên hải đảo đi tuần xét mọi việc trong nhân gian”. Như vậy đây là một bằng chứng logic nữa để thấy rằng Vua cha Nhạc phủ trong tín ngưỡng Tứ phủ chính là Tản Viên Sơn Thánh.
Việc đưa Đức Tản Viên Sơn Thánh trở thành Đức Vua Cha của Nhạc Phủ là hoàn toàn hợp lý vì Đức Thánh Tản chính là Cha của Mẫu Thượng ngàn, tức La Bình Công Chúa. Như chúng ta đã biết, Mẫu Liễu Hạnh là Công Chúa,là con của Ngọc Hoàng Thượng Đế. Mẫu Thủy Cung là Công Chúa, con của Vua Cha Bát Hải Động Đình. Mẫu Thượng Ngàn là La BÌnh Công chúa vốn là con của Tản Viên Sơn Thánh, vậy thì Tản Viên Sơn Thánh ở ngôi vị Vua Cha Nhạc Phủ là hoàn toàn hợp lý về mặt logic.
Tín ngưỡng Tứ Phủ công đồng hình thành ở vùng Đồng Bằng sông Hồng, là vùng đất phía Đông do dòng dõi Lạc Long nắm giữ. Có lẽ vì thế mà vai trò của Nhạc Phủ, với thần chủ là Tản Viên Sơn Thánh, thuộc dòng tộc phía Tây (Thục) đã bị mờ nhạt đi trong tín ngưỡng này. Để tín ngưỡng Tứ phủ trở thành tín ngưỡng chung của người Việt ở đồng bằng cũng như vùng núi, để tram người con cùng một bọc đông bào, chung cha chung mẹ thờ đúng tổ tiên của mình thì cần xác nhận vị tôn chủ Nhạc Phủ của Tản Viên Sơn Thánh.

 

 

 

+ Ngày 17/1: Tiệc Cô Tân An

 

Đối với nhiều du khách thập phương sau khi về đền Bảo Hà lễ Quan Hoàng Bảy thì thường ghé thăm đền Cô Bé Tân An Đền cô được dựng thờ bên kia sông đối diện đền Quan Hoàng Bảy

Vậy Cô Bé Tân An là ai thần tích và đền thờ cô bé Tân An ở đâu trong bài viết này xin gửi tới bạn tổng hợp một số thông tin về cô

 

Dưới suối khe lững lờ nước chảy

 

Ông hổ gầm vang dậy sơn lâm

 

Nhớ xưa có giặc ngoại xâm

 

Nữ trung anh kiệt dẹp quân bạo tàn

 

 

 

cô bé tân an

 

 

Cô Bé Tân An là  ai ?

Cô Bé Tân An được cho là hiện thân của Cô Bé Thượng Ngàn trên đất Bảo Hà. Tương truyền Cô Bé Tân An có tên húy là Hoàng Bà Xa, cô là con của Quan Hoàng Bảy. Cô đã cùng cha có công chinh phạt giặc ác, giữ yên bờ cõi, được cư dân vùng Bảo Hà và Khau Ban (địa danh Văn Bàn cổ xưa) nhang khói phụng thờ

Thần Tích Cô Bé Tân An

Theo sử chép, cuối đời Lê ( năm 1740- 1786), các châu Thủy Vĩ Văn Bàn và nhiều nơi khác thuộc phủ Quy Hòa luôn bị giặc Tàu tràn sang cướp phá. Trước tình hình đó, Triều đình cử danh tướng tên là Nguyễn Hoàng Bảy đưa quân đội tiến dọc sông Thao, đánh đuổi giặc cỏ, giải phóng Khau Bàn và xây dựng Bảo Hà thành căn cứ địa lớn. Tương truyền rằng, khi lên trấn ải vùng này, tướng quân họ Nguyễn đã mang theo con gái là Nguyễn Hoàng Bà Xa cùng đi.

Trong cuộc kháng chiến đánh giặc giữ vùng biên cương, Nguyễn Hoàng Bà Xa luôn là cánh tay đắc lực, sát cánh cùng cha đánh đuổi quân giặc. Bà còn chiêu dụ các thổ ty, tộc trưởng, luyện binh sĩ, rèn rũa khí giới, dự trữ lương thảo, chữa bệnh cho dân nghèo… Sau khi chiến thắng giặc, bà lại cùng dân khai khẩn đất hoang, khai mỏ, để xây dựng quê hương giàu đẹp. Bà là người yêu nước thương dân, nên sau khi mất ” Hương thơm còn lẫy lừng ánh hòa quang sáng tỏ muôn nơi”. Nhân dân trong vùng đã lập đền thờ để tưởng nhớ công lao to lớn của bà.

Nguyễn Hoàng Bà Xa còn được gọi là cô Tân An hay cô Bảy Tân An, hầu cận quan Hoàng Bảy chứ không phải là cô Bảy trong Tứ phủ thánh cô.

Một dị bản khác về đền Cô Bé Tân An còn lưu truyền như sau: Có một số cụ đồng cựu cho rằng đền Cô Tân An có từ trước khi cha con Ông Hoàng Bảy lên trần giữ vùng biên cương này. Ngày đó nơi đây chỉ là một miếu nhỏ thờ Mẫu Thượng Ngàn với hiện thân là La Bình Công Chúa. Đây là nơi cha con Quan Hoàng Bảy thường xuyên đến lễ mỗi khi xuất quân chiến đấu. Sau khi cha con Quan Hoàng Bảy mất, nhớ công ơn cô con gái của Quan Hoàng Bảy Nguyễn Hoàng Bà Xa nên nhân dân đã đưa bà vào phối thờ vào đền. Trải qua các thăng trầm của lịch sử, ngôi đền trở thành ngôi đền thờ chính của Nguyễn Hoàng Bà Xa.

 

 

 

Văn Cô Bé Tân An

Đất Tân An địa linh chung tú

Châu Văn Bàn cảnh thú sơn trang

Non xanh nước biếc trăng ngàn

Thỉnh mời Cô Bé Tân An ngự về

Thú non tiên bốn bề sông núi

Dấu sơn hà tụ hội khí thiêng

Tân An cổ tích lưu truyền Tiếng thơm

Cô Bé khắp miền gần xa

Có phen chơi Bảo Hà Trái Hút

Dạo tiếng đàn thánh thót nhặt khoan

Chiềng Ken, Tân Thượng, Tân An

Nậm Tha, Nậm Rạng, Làng Giàng, Khánh Yên

Ngàn núi đá nọ miền sơn thuỷ

Ngôi đền thờ tú khí danh lam

Trăm hoa đua nở trên ngàn

Mẫu đơn đua sắc phong lan khoe màu

Bầy chim non bên lầu ríu rít

Cảnh rừng chiều mờ mịt sương giăng

Non xa thấp thoáng bóng trăng

Ngàn mây lấp ló cung Hằng nhởn nhơ

Dưới suối khe lững lờ nước chảy

Ông hổ gầm vang dậy sơn lâm

Nhớ xưa có giặc ngoại xâm

Nữ trung anh kiệt dẹp quân bạo tàn

Danh thắng tích Tân An thiên cổ

Dẫu biến dời vẫn tỏ sử xanh

Thượng ngàn ghi dấu oai linh

Chữ tâm ẩn hiện phân minh tỏ tường

Chữ trung hiếu cương thường gìn giữ

Nghiệp tham sân tân khổ còn đâu

Chữ tâm linh ứng nhiệm mầu

Cải tà quy chính trước sau mới là

Khắp bốn phương gần xa nô nức

Chư thanh đồng đệ tử con nhang

Đèn hương võng tía quạt vàng

Thỉnh mời cô bé đào đàn chứng minh

Nay đệ tử văn trình tấu đối

Dốc lòng thành sám hối cửa thiêng

Thỉnh Cô trắc giáng bản đền

Khuông phù đệ tử thiên niên thọ trường

Phép linh ứng ra tay tế độ

Nguyện vì đời cứu khổ độ mê

 

Đền thờ Cô Bé Tân An

Hiện nay, Đền Cô Tân An II (đối diện với đền Quan Hoàng Bảy qua dòng sông) và Đền Quan Hoàng Bảy có chung một Ban Quản lý của UBND xã cử và hai đền đều được tổ chức chung một lễ hội. Như vậy, nhìn theo khía cạnh này, thì đền Cô Tân An II có tính chính tắc hơn bởi tính pháp lý của chính quyền. Đền Bảo Hà hợp cùng Đền Cô Tân An II đã trở thành “Quần thể di tích Thần vệ quốc Hoàng Bảy” là địa chỉ du lịch tâm linh của hàng vạn lượt du khách mỗi năm.

 

Khánh tiệc Cô Bé Tân An

Ngày tiệc Cô Bé Tân An vào ngày 17 tháng 1 âm lịch

” Đất Tân An địa linh chung tú
Chầu Văn Bàn cảnh thú sơn trang
Non xanh nước biếc trăng ngàn
Thỉnh mời Cô Bé Tân An ngự về
Thú non tiên bốn bề sông núi
Dấu sơn hà tụ hội khí thiêng
Tân An cổ tích lưu truyền
Tiếng thơm Cô Bé khắp miền gần xa…”

 

cô bé tân an

 

+ Ngày 19-21:Tiệc Tứ Vị Vua Bà

 

 

Tứ Vị Thánh Nương Là Các Bà Thánh Mẫu Được Thờ Phụng

Ở Khắp Vùng Duyên Hải Nước Ta Và Ở Các Tỉnh Đồng Bằng

Mọi truyền thuyết đều tập trung vào bà Hoàng hậu nhà Tống và vào thời điểm Cửa Cờn Xứ Nghệ

Tôn hiệu ghi trong các thần tích thường thấy là :

- Đại Càn tứ vị Thánh mẫu ( Ninh Bình )
- Đại Càn quốc gia Nam Hải Tứ Vị Thánh Nương ( Hà Nội )
- Đại Càn quốc gia Nam hải tam tòa tú vị hồng thánh nương đại nương ( Nam định )
- Nam Việt Tống triều quốc mẫu tứ vị hồng nương Càn hải linh từ ( Hà Nam )
- Tứ thánh miếu sự tích ( Bắc Ninh )

Dưới đây là một số sự tích bằng cách kết hợp nhiều cách kể của dân gian chứ không theo một thần tích nào
----------------------------------------------------------------------
Bản 1

Năm 1276 quân Nguyên Mông ồ ạt tấn công Nam tống khiến hàng vạn quân Tống bị đánh tan

Tháng 1 / 1279 , quân Nguyên tấn công căn cứ cuối cùng của quân Nam Tống

Trong lúc nguy khốn Thái hậu và các công chúa nhà Tống xuống thuyền chạy về phía Quảng Đông

Nhưng gặp gió mạnh thuyền bị đắm mọi người đều chết.Lúc đó bỗng xuất hiện Rồng vàng tới hộ giá mẫu hậu

Và ba vị công chúa trôi dạt tới biển Cờn Hải và được vị sư già chùa Quy sơn cứu sống và trú ngụ tại đó

Sau một thời gian trong chùa bống có nhiều điều dị nghị về vụ sư già với Tống Hậu

Vị sư gia này không biện bạch được bèn khấn Phật và nhảy xuống biển tự vẫn

Mẫu hậu và ba vị công chúa thấy vị sư già vì mình mà chịu oan khuất cũng liều mình nhảy xuống biển chết theo xác của họ dạt vào cửa Cờn Hải.Họ hiển linh và được dân làng lập đền thờ và phong là "  Nam Hải Phúc Thần " 

Cai quản 12 cửa biển.Từ đó phàm những người đi biển đều đến cầu đảo Tứ vị Thánh Nương 


Sau này vua Trần Nhân Tông Lê Thánh Tông đi chinh phạt giặc Chiêm và ở phương nam theo đường biển được Tứ Vị Thánh Nương hiển linh và trợ giúp . Sau khi thắng trận trở về các vua Đại Việt đều lễ tạ ơn phong thần

"Quốc mẫu Vương Bà Tứ Vị Thượng Đẳng Thần "Và "Đại Càn Thánh Nương Quốc Gia Nam Hải Tứ Vị Thánh Nương thượng Đẳng Thần "Sự kiện này được sách "Việt Điện U linh"  Có Lý Tế  Xuyên chép . Tuy nhiên trong sách cũng có những ngọc phả thần tích huyền tích huyên thoại truyền miệng có sự khác nhau về Tứ vị Thánh Nương

Ngoài Tống Hậu còn ba vị kia là ai ? Công chúa Người hầu Vua Đế Bình

Tục thờ Tứ Vị Thánh Nương hiện rất phổ biến ở nhiều làng người Việt ven biển từ Bắc vào Nam ngoài ra còn thấy ở các làng ven biển Trung Bộ.Tuy nhiên tục thờ này phổ biển nhất là miền biển Trung Bộ.Mà trung tâm là Đền Cờn ( Nghệ An ) Theo Ninh Viết Giao ngoài đền Cờn còn có hơn 30 làng khác nữa ở Quỳnh Lưu ( Nghệ An ) thờ Tứ Vị Thánh Nương . Riêng huyền Hoàng Hóa ( Thanh Hóa ) cung có 20 làng thờ Tứ Vị Thánh Nương dưới dạng thờ Tống Hậu Thiên Hậu

Ở Quang Nam - Đà Nẵng tục thờ Tứ Vị Thánh Nương rất phổ biến hầu như làng nào cũng có tuy nhiên ít khi có miếu thờ riêng bà.Như trường hợp làng Mỹ Khê gọi là Miếu Cả còn phần lớn là phối thờ với các vị thần khác và được gọi với cái tên là Bà Giàng Lạch tức vị thần chủ sông biển


Sơ lược về Tứ Vị Thánh Nương


Tứ Vị Thánh Nương là các bà Thánh mẫu được thờ phụng ở khắp vùng duyên hải nước ta , và ở các tỉnh đồng bằng . Mọi truyền thuyết đều tập trung vào bà Hoàng hậu nhà Tống và vào thời điểm Cửa Cờn Xứ Nghệ . Tôn hiệu ghi trong các thần tích thường thấy là:

Đại Càn tứ vị Thánh mẫu ( Ninh Bình )

Đại Càn quốc gia Nam hải tứ vị thánh nương ( Hà Nội )

Đại Càn quốc gia Nam hải tam tòa tú vị hồng thánh nương đại nương ( Nam định)

Nam Việt Tống triều quốc mẫu tứ vị hồng nương Càn hải linh từ ( Hà Nam )

Tứ thánh miếu sự tích ( Bắc Ninh )

 

Truyền thuyết về Tứ Vị Vua Bà


(Trích trong cuốn  “ Đạo mẫu Việt Nam ” )

Năm 1276 quân Nguyên Mông ồ ạt tấn công Nam tống khiến hàng vạn quân Tống bị đánh tan . Tháng 1 / 1279 , quân Nguyên tấn công căn cứ cuối cùng của quân Nam Tống . Trong lúc nguy khốn , Thái hậu và các công chúa nhà Tống xuống thuyền chạy về phía Quảng Đông nhưng gặp gió mạnh thuyền bị đắm , mọi người đều chết . Lúc đó , bỗng xuất hiện Rồng vàng tới hộ giá mẫu hậu và ba vị công chúa trôi dạt tới biển Cờn Hải và được vị sư già chùa Quy sơn cứu sống và trú ngụ tại đó .Sau một thời gian trong chùa bống có nhiều điều dị nghị về vị sư già với Tống Hậu . Vị sư gia này không biện bạch được bèn khấn Phật và nhảy xuống biển tự vẫn . Mẫu hậu và ba vị công chúa thấy vị sư già vì mình mà chịu oan khuất cũng liều mình nhảy xuống biển chết theo , xác của họ dạt vào cửa Cờn Hải . Họ hiển linh và được dân làng lập đền thờ và phong là ”  Nam Hải Phúc Thần ”  cai quản 12 cửa biển . Từ đó phàm những người đi biển đều đến cầu đảo  Tứ vị Thánh Nương .
Sau này , vua Trần Nhân Tông , Lê Thánh Tông đi chinh phạt giặc Chiêm và ở phương nam theo đường biển được Tứ Vị Thánh Nương hiển linh và trợ giúp . Sau khi thắng trận trở về , các vua Đại Việt đều lễ tạ ơn phong thần ”  Quốc mẫu Vương Bà Tứ Vị Thượng Đẳng Thần ”  và ”  Đại Càn Thánh Nương Quốc Gia Nam Hải Tứ vị Thánh Nương Thượng Đẳng Thần ”  Sự kiện này được sách ”  Việt Điện u linh ”  có Lý Tế  Xuyên chép .

Đại Việt sử ký toàn thư  chép về sự kiện này như sau: “(Hưng Long) năm thứ 19 (1311)… Mùa đông, tháng 12, vua thân đi đánh Chiêm Thành, vì chúa nước ấy là Chế Chí phản trắc… (Hưng Long) năm thứ 20 (1312)… Mùa hạ, tháng 5, dụ bắt được chúa Chiêm Thành Chế Chí đem về… Tháng 6, vua từ Chiêm Thành về (đến kinh đô)… Lập đền thờ thần ở cửa biển Cần Hải. Trước đây, vua đi đánh Chiêm Thành, đến cửa biển Cần Hải (trước là Càn, tránh tên húy đổi là Cần), đóng quân lại, đêm nằm mơ thấy một thần nữ khóc lóc nói với vua: “Thiếp là cung phi nhà Triệu Tống, bị giặc bức bách, gặp phải sóng gió, trôi giạt đến đây. Thượng đế phong thiếp làm thần biển đã lâu. Nay bệ hạ mang quân đi, thiếp xin giúp đỡ lập công”. Tỉnh dậy, vua cho gọi các bô lão tới hỏi sự thực, cho tế, rồi lên đường. Biển vì thế không nổi sóng. (Quân vua) tiến thẳng tới thành Đồ Bàn, bắt được (chúa Chiêm) đem về. Đến nay, sai hữu ty lập đền, bốn mùa cúng tế”(3).

Trong xã hội phong kiến khi con người vẫn còn bị chi phối mạnh bởi đức tin ở lực lượng siêu nhiên (thánh, thần, phật, mẫu…) thì việc hành lễ ở đền thờ tứ vị thánh nương là thường tình và là một biện pháp chính trị khôn ngoan. Qua câu chuyện về giấc mơ của nhà vua, nhà vua muốn truyền thông điệp đến các tướng lĩnh, quân binh rằng chuyến chinh phạt này không những được bách thần trong nước phù trợ mà còn được cả các vị thần đế vương, hoàng thái hậu ngoài nước trợ giúp, tất sẽ giành chiến thắng. Điều ấy có giá trị như một sức mạnh tinh thần cổ vũ tướng sĩ dấn thân vào trận. Kết cục, cuộc chinh phạt đã đạt được mục tiêu nhà vua đặt ra. Và việc xét thưởng công trạng, trong đó có cả ân thưởng những vị thần phù trợ cho cuộc chiến thành công, cũng là một biện pháp khôn ngoan của vua chúa dưới thời phong kiến quan tâm quản lý cả các vị thần mà thực chất qua đó nhằm tăng uy quyền nhà vua và lấy lòng tin ở dân chúng. Đền thờ tứ vị thánh nương được nhà nước phong kiến trung ương ban tặng sắc phong ghi nhận công trạng “Đại Càn quốc gia Nam Hải tứ vị thánh nương”, cấp tiền bạc sửa sang, xây dựng khang trang, nhờ đó mà danh tính của vị thần thờ trở nên linh thiêng trong tâm thức của người dân.

Một chi tiết rất đáng quan tâm là trong giấc mơ của nhà vua, Dương Thái Hậu nhà Nam Tống cho vua biết rằng: “Thượng đế phong thiếp làm thần biển đã lâu”. Trong tín ngưỡng của người đi biển, cá voi còn gọi là Ngư Ông là vị ân nhân, vật cứu hộ, phúc thần của dân đi biển. Đền Cờn/càn thực chất thuở xa xưa, thoạt kỳ thủy là nơi thờ cá, nhất là cá voi, một tín ngưỡng thờ cá của cư dân sông nước, cư dân biển, sau có sự phối thờ các vị nhân thần và các nhân thần ấy đã dần giữ vị trí trung tâm làm mờ đi lớp tín ngưỡng thuở ban đầu. Sau này ở thời đại phong kiến một số nhân thần được tấn phong là vị thần phù trợ cho người đi biển như Nguyễn Phục, Đỗ Hoàng Giáp niên hiệu Thái Hòa 2 (1453) thời Lê Nhân Tông, giữ chức Tham chính sứ xứ Thanh Hóa. Khi vua Lê Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành, ông được giao việc đốc vận quân lương, vì gặp bão, chậm trễ kỳ hạn nên bị xử tội theo quân pháp. Biết ông chết oan, dân chúng dọc bờ biển từ Thanh Hóa đến Quảng Nam nhiều nơi lập đền thờ. Sau đó, triều đình phong kiến phong Nguyễn Phục là Nam Hải đại vương, vị phúc thần của dân đi biển. Ở Trung Quốc có một vị thần phù trợ cho người đi biển là Lâm Mặc, tức Ma Tổ, sau này là Thiên Hậu. Ma Tổ: “Đó chính là một vị thần hàng hải được thờ ở rất nhiều nơi trên lãnh thổ Trung Quốc và những nơi có người Hoa sinh sống trên thế giới. Bà được các triều đại từ Tống, Nguyên đến Minh, Thanh công nhận và phong cho nhiều tước. Sự tích của bà được nhiều sách Trung Quốc bàn tới: bà xuất thân từ một nhân vật có thật năm 960, dưới triều Bắc Tống, tại Phúc Kiến, bà được tin là người có khả năng siêu nhiên bởi việc đã cứu các anh trai đang đi buôn bán trên biển bị gặp sóng dữ. Bà chết trẻ, tương truyền được trời đón về, sau nhờ việc bà hiển linh cứu vị quan đời Tống (1123) mà bà được phong là phu nhân. Sau đó, bà còn hiển linh bắt cướp biển (1192) nên được phong là Thánh phi đời Tống. Đời Minh bà được biết đến dưới cái tên là Thiên phi và đến đời Thanh là Thiên hậu”(4).

Những người sống ở vùng biển Việt Nam hơn ai hết trong quá trình giao lưu với ngư dân Trung Quốc đều biết Thiên Hậu là vị thần phù trợ cho người đi biển nhưng họ lại không du nhập vị thần này vào thành vị phúc thần phù trợ cho người đi biển Việt Nam. Ở Trung Quốc, theo tác giả Long Bằng, phải đến năm Thánh Hóa thứ 5 nhà Minh (1469), triều Minh mới công khai cho xây dựng đền, miếu tưởng niệm các nhân vật nhà Nam Tống tại di tích Tống cung Nhai Sơn. Năm Hồng Trị thứ 4 nhà Minh (1491) xây miếu Tử Nguyên, còn gọi là miếu Toàn Tiết, người dân gọi là điện Quốc Mẫu để thờ Dương Thái Hậu ghi nhận danh tính, chức phận và đức hạnh giữ trọn phẩm tiết của Hoàng Thái Hậu nhà Nam Tống và người Trung Quốc từ đó đến nay không quan niệm bà là vị thần biển.

 

Thờ Phụng Tứ Vị Thánh Nương


Tục thờ Tứ Vị Thánh Nương hiện rất phổ biến ở nhiều làng người Việt ven biển từ Bắc vào Nam , ngoài ra còn thấy ở các làng ven biển Trung Bộ . Tuy nhiên tục thờ này phổ biển nhất là miền biển Trung Bộ . Mà trung tâm là Đền Cờn ( Nghệ An ) Hàng năm, lễ hội đền Cờn lại được tổ chức trong thể với nhiều hoạt động mang nét tâm linh được diễn ra. Đền Cờn là một trong 4 ngôi đền linh thiêng bậc nhất ở Nghệ An: “Nhất Cờn, nhì Quả, tam Bạch Mã, tứ Chiêu Trưng”.

Theo Ninh Viết Giao , ngoài đền Cờn còn có hơn 30 làng khác nữa ở Quỳnh Lưu ( Nghệ An ) thờ Tứ Vị Thánh Nương . Riêng huyền Hoàng Hóa ( Thanh Hóa ) cung có 20 làng thờ Tứ Vị Thánh Nương dưới dạng thờ Tống Hậu ,Thiên Hậu.

Ở Quang Nam – Đà Nẵng tục thờ Tứ Vị Thánh Nương rất phổ biến , hầu như làng nào cũng có tuy nhiên ít khi có miếu thờ riêng bà . Như trường hợp làng Mỹ Khê  gọi là Miếu Cả , còn phần lớn là phối thờ với các vị thần khác và được gọi với cái tên là  Bà Giàng Lạch,  tức vị thần chủ sông biển.

 

 

 

 

 

 
 

Với người dân vùng ven biển như vùng duyên hải miền trung thì tục thờ Tứ Vị Thánh Nương hay còn gọi là

Tứ Vị Vua Bà vô cùng phổ biến. Người ta tin rằng bà có quyền phép sẽ phù hộ cho mưa gió thuận hòa, nhân dân làm ăn thuận lợi, có tiền có của, bình yên, êm ấm.

Tứ Vị Vua Bà là ai?

Tứ Vị Vua Bà là vị Mẫu Thần được phối thờ cùng Tứ Phủ

Mọi truyền thuyết đều cho rằng bà có quyền phép chuyên phụ trách

Miền sông nước, biển đảo.Do đó đền thờ bà được xây dựng phổ biến khắp vùng duyên hải nước ta.

Tôn hiệu bà được ghi chép lại rất đa dạng.Thường thấy trong các thần tích là

Đại Càn Tứ Vị Thánh Mẫu hay Đại Càn Quốc Gia Nam Hải

Tứ Vị Thánh Mẫu Đại Càn Quốc Gia Nam Hải Tam Tòa Tú Vị Hồng Thánh Nương Đại Nương

Nam Việt Tống Triều Quốc Mẫu Tứ Vị Hồng Nương Càn Hải Linh Từ Tứ Thánh Miếu sự tích. 

Tại các đền thờ Tứ Vị Vua Bà cũng còn lưu giữ một số sắc phong với các duệ hiệu:

  • Đại Càn Quốc Gia Nam Hải Thánh Mẫu Thượng Đẳng Thần
  • Nam Việt Tống triều quốc mẫu tứ vị hồng nương phu nhân
  • Đại càn quốc gia Nam Hải thần chiếu linh ứng tự vị thánh nương Thượng đẳng thần
  • Càn Hải môn hiển thánh Tống Thái Hậu nam Hải tối linh Tứ vị Thánh nương Đại Vương.
  • Sự tích Tứ Vị Vua Bà

    Tứ Vị Thánh Nương được người đời truyền tụng rất nhiều sự tích

  • Phổ biến nhất người ta cho rằng danh xưng này để chỉ 4 vị thánh nữ

  • Có nguồn gốc từ Trung Quốc,được thờ nhiều ở vùng Thanh Hóa Nghệ An

  • Tại những địa phương có xây đền thờ các vị này đều cho rằng

  • Nhân vật chính là thân mẫu vị vua cuối cùng đời nhà Tống

  • Ba người còn lại được kể lại bằng những sự tích không thống nhất lắm.

  • Các sự tích này được lưu truyền và ghi chép tại các đền thờ Tứ Vị Vua Bà. Cụ thể:

    Truyền thuyết ở đền mẫu – Hưng Yên

    Truyền thuyết kể rằng sau khi Nam Tống thất thủ bà quý phi họ Dương đã nhảy xuống biển

  • Thi thể của bà xuôi theo dòng nước trôi về Phố Hiến

  • Nhân dân thương xót nên chôn cất chu đáo thi thể của bà

  • Rồi đến người nội thị triều đình Bắc quốc là quan thái giám

  • Họ Di trong cơn loạn lạc đã tới Phố Hiến được nhân dân giúp đỡ

  • Tập hợp những người Hoa lánh nạn rồi hưng công lập nên làng Hoa Dương

  • Sau khi vị thái giám này mất họ tôn người này làm Thành Hoàng và chôn cất kín đáo

  • Trong khuôn viên đình Hiến.Tại đền cũng có đặt tượng thờ Dương phi cùng 2 người hầu là Kim Thị và Liễu Thị.

    Truyền thuyết Tứ Vị Vua Bà theo bản ghi chép tay chữ Hán Nôm cuốn “Thanh Chương huyện chí”

    Trong sách có ghi về một sự việc khi hoàng hậu một triều vua bị vu oan là con đẻ “bất thành nhân dạng”

  • Nên bốn mẹ con tức hoàng hậu 2 cô công chúa cùng vị hoàng tử bị đày lên đảo

  • Tuy nhiên, thuyền dạt vào đền cửa Cờn nhưng 4 mẹ con đã bị chết ở đó

  • Thượng đế thương xót phong làm thần,chuyên phụ trách việc gió mưa ở biển

  • Nhân dân thấy vậy bèn lập đền thờ Tứ Vị Đại Vương

  • Vì có một hoàng tử nên thay vì gọi là Tứ Vị Vua Bà họ gọi là Tứ Vị Đại Vương.

    Thần Tích Về Tứ Vị Vua Bà được chéo trong thần tích làng Cơ Xá (Đền Lộ)

    Thần tích kể lại rằng 4 vị thần được thờ đó chính là hoàng hậu, ba công chúa triều Tống

  • Hoàng hậu là người con gái ở Cần Hải, Hoang Châu. Sau bà làm vợ của Tống Đế Bính

  • Bà sinh được 3 cô công chúa những sau khi gặp nạn trôi vào cửa Cờn

  • Sau đó khoảng cuối nhà Trần khi ấy nước sông Nhị hà lên cao

  • Bỗng xuất hiện 4 có nồi úp dưới cái nón trôi dạt vào bờ sông thuộc bản xã

  • Khiến nơi đây không an ổn.Lúc ấy có vị thần báo mộng cho nhân dân phải lập đền thờ mới được yên lành

  • Nhân dân đã lập đền thờ và cúng bái. Thần tích này xuất hiện sau các thần tích kể trên.

    Lễ Tứ Vị Vua Bà gồm những gì?

    Hàng năm cứ đến ngày đầu xuân năm mới hoặc ngày tiệc lễ Tứ Vị Vua Bà

  • Nhân dân khắp nơi lại nô nức sắm lễ quần áo chỉnh tề lên cửa Tứ Vị Vua Bà và cúng lễ

  • Điểm đặc biệt ở đây là các đền thờ Tứ Vị Vua Bà thu hút rất nhiều ngư dân miền biển đến dâng lễ

  • Bởi người ta cho rằng các bà có quyền phép cao siêu điều khiển thời tiết vùng biển

  • Xin lộc các bà ắt sẽ được yên ổn làm ăn nơi biển cả mênh mông.

    Một mâm lễ Tứ Vị Vua Bà gồm các thức lễ như một đĩa hoa một đĩa quả gồm nhiều loại quả
  • Một cơi trầu, quả cau cút rượu xôi thịt nén hương giấy tiền và một cánh sớ
  • Tứ Vị Vua Bà đền Cờn Môn Nghệ An

    Có 2 ngôi đền nổi tiếng thờ Tứ Vị Vua BàĐền Cờn Nghệ Anđền Lộ tại Long Biên, Hà Nội. Trong đó, đền Cờn là nổi tiếng nhất và xuất hiện nhiều trong các thần tích về Tứ Vị Vua Bà. 

    Đền Cờn Nghệ An là một ngôi đền nằm trên gò Diệc, hướng mặt ra sông Hoàng Mai. Đền thuộc địa phần phường Quỳnh Phương, thị xã Hoàng Mai, Nghệ An.

    Mặt trước đền được xây dựng giống như một bến thuyền nên trông xa toàn bộ kiến trúc rất uy nghiêm và đồ sộ. Tiến lại gần, chúng ta có thể thấy rõ được vết tích thời gian lưu lại trên những chi tiết kiến trúc đền. Có sự rêu phong, có sự cổ kính. Tuy vậy trông đền vẫn rất uy nghiêm, bề thế bởi hầu hết chất liệu xây dựng đền đều từ đá.

    Vì đền Cờn được xây dựng từ rất lâu nên còn lưu giữ rất nhiều vết tích kiến trúc cổ xưa như hoa văn chạm khắc tinh xảo trên các dường, cột bên trong đền và các hoa văn chạm khắc tại phía ngách nhà đền. Hiếm có ngôi đền nào lại lưu giữ được nhiều nét văn hóa cả về tinh thần tín ngưỡng lẫn nét kiến trúc truyền thống như nơi đây. 

    Năm 2017 Đền được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia vô cùng quý giá.

    Đền Cờn hàng năm đều tổ chức lễ hội vào ngày 20, 21 tháng Giêng là ngày tiệc Tứ Vị Vua Bà đền Cờn Môn. Lễ hội đền Cờn được mệnh danh là một trong những lễ lớn và linh thiêng nhất. Tại ngày diễn ra đại lễ, người dân tiến hành rất nhiều các phần lễ nhỏ có thể kể đến lễ khai quang, lễ yết cáo, lễ khai hội, lễ cầu ngư, lễ hợp tế, lễ yết vị, lễ đại tế và lễ tạ. Sau phần đại lễ là tới phần hồi. Phần hội chủ yếu phục vụ du khách gần xa tới tham quan, chiêm ngưỡng nét đặc sắc văn hóa đền Cờn với các làn điệu hát dân ca, các môn thể thao dân gian như đẩy gậy đua thuyền
  •  
  • Văn Tứ Vị Vua Bà

    Hoa thơm hoa nở bốn mùa

    Trên ngàn xanh đua sắc hương bay

    Gió rung cây lay lay cành lá

    Nhác trông lên nhang xạ ngát mùi

    Cảnh rừng núi anh linh lừng lẫy.

    Nức danh thơm đã dậy muôn phương

    Vẻ cốt cách hình dung tươi tốt,

    Nét thanh tân tuyết nhường màu da

    Gió thoảng đưa mái tóc rườm rà

    Con tiến dâng văn tứ vị vua bà

    Cờn môn nơi ấy bao xa

    Danh lam cổ tích một tòa ngôi cao

    Cảnh bồng lai tiêu giao một thú

    Khi ngao du bến thủy sông thao

    Lạng Sơn Yên Bái Nghệ An ra vào

    Vận bốn mùa cầu đảo khói nhang

    Khi ngự đèo kẻng lại sang Bảo Hà

    Thượng ngàn nức tiếng vua bà

    Ban tài tiếp lộc gần xa cho đồng 

    Nguyện tâm thành sở cầu tất ứng

    Sắm lễ trình ắt thời chứng cho

    Vua bà chứng cho tai qua nạn khỏi

    Cứu người đời thoát mọi trầm luân

    Nước tiên tẩy sạch bụi trần

    Lưu tài giáng phúc độ trì muôn dân

    Ân trên ghi nhớ đời đời

    Ngồi lặng nhìn hoa rơi lai láng

    bức rèm châu thấp thoáng sang canh

    Đệ tử con một dạ lòng thành

    Cứu xin vua bà ngự giáng chứng minh

    Độ cho đệ tử khang ninh thọ trường

    Dù ai lưu xứ xa phương

    Nhớ ngày mở hội về cờn môn

    Lòng tôn kính dâng hương bái thánh

    Độ cho người phúc thọ trường sinh

    Cửa nhà phú quý khang vinh đời đời

    Dưới trần gian mấy lời kêu tấu

    Từ cổ triều lưu dấu anh linh

    Xe loan thánh giá hồi cung.

 

 

 

VÌ ĐỒNG TIỀN NGÀY NAY RẤT NHIỀU VỊ KO CÓ CĂN SOI BÓI
KO CÓ KHẢ NĂNG SOI BÓI VẪN TỰ NHẬN MÌNH LÀ ĐỒNG THẦY
VẪN NHIỀU NGƯỜI TIN ... U MÊ LÀ THẾ ĐẤY
 
KO CÓ CĂN SOI BÓI CHỈ CẦN BỎ RA 5>10 TRIỆU ĐỒNG
MUA BẰNG CHỨNG NHẬN
LÀ KO CÓ KHẢ NĂNG SOI BÓI CŨNG ĐƯỢC LÀ ĐỒNG THẦY
 
CÁC BẠN CÓ HIỂU ĐỒNG THẦY LÀ THẾ NÀO ???
 
ĐỒNG THẦY LÀ NGƯỜI CHA MẸ CHO KHẢ NĂNG SOI BÓI
 
NHỮNG NGƯỜI NÀY KO CÓ NHIỀU ĐÂU
 
100% NHỮNG AI ĐƯỢC CÓ KHẢ NĂNG SOI BÓI THÌ AI AI CŨNG PHẢI TRẢI QUA
VÔ CÙNG NHIỀU BIẾN CỐ HỌA ĐỦ KIỂU THÌ RỒI MỚI CÓ CƠ DUYÊN LÀM THẦY
 
 
CHỨ KO PHẢI NHƯ BÂY GIỜ ĐỒNG THẦY TOÀN BỎ 5 > 10 TRIỆU RA MUA BẰNG TREO TẠI NHÀ
 
THẾ LÀ LẠI ĐƯỢC LÀM ĐỒNG THẦY
 
Thầy ko có căn soi ko xem bói được vẫn trình đồng mở phủ cho người
Vẫn làm lễ cho nhiều người
Thế có khác gì ko phải là bác sĩ nhưng vẫn khám chữa bệnh cho người
Có phải là tiền mất tật mang ko
Đấy chính là lý do mà nhiều người ngày nay đủ các loại lễ rồi kể cả trình đồng
mở phủ mà vẫn ko yên
Thậm chí còn khổ hơn
 
 
BỞI VÌ CÓ NHIỀU TRƯỜNG HỢP
TÔI ĐI ĐÃ RẤT NHIỀU NƠI XÂY ĐỀN ĐIỆN NHƯ PHONG TRÀO Ý
1 NGÔI LÀNG NHỎ VÀI CHỤC NGƯỜI GIỚI THIỆU
THẦY ƠI NHÀ CON CÓ ĐỀN CON THỜ LÂU RỒI
VÀ TÔI HỎI ??? CÓ KHẢ NĂNG SOI BÓI GÌ KO MÀ CŨNG THỜ
THÌ CÓ NGƯỜI ẤP ÚNG KO TRẢ LỜI ĐƯỢC VÀ CÓ TRƯỜNG HỢP
THÌ NÓI CÓ CON XEM BÓI VÀ LÀM LỄ CHO NHIỀU NGƯỜI MÀ
NGHE ĐẾN ĐÂY TÔI MỚI HỎI TÔI NHÌN THẤY LÀ CHỊ KO SOI BÓI ĐƯỢC
MÀ CHỊ NÓI CHỊ CÓ XEM BÓI VÀ LÀM LỄ CHO NHIỀU NGƯỜI
THẾ CHỊ XEM CHO TÔI ĐI BẤT CỨ VỊ NÀO XEM BÓI
TÔI BẢO XEM CHO TÔI ĐI LÀ Y NHƯ RẰNG ẤP ÚNG KO NÓI GÌ ĐƯỢC
THÌ TÔI MỚI NÓI KO CÓ KHẢ NĂNG KO ĐƯỢC CHA MẸ CHO QUYỀN PHÉP
KO SOI BÓI ĐƯỢC MÀ VẪN THỜ ĐIỆN NHƯ THẾ NÀY LÀ THỜ MA THỜ QUỶ
NHÉ KO CÓ CHA MẸ NÀO NGỰ ĐÂU CÀNG THỜ THÌ CÀNG CÓ HOẠ ĐƯỢC CHÚT TIỀN BẠC TRƯỚC MẮT
RỒI HOẠ BAO GIỜ MỚI HẾT ĐƯỢC VÀ KHI BỊ TÔI BÓC MẼ LÀ KO CÓ KHẢ NĂNG SOI BÓI RỒI THÌ TÔI MỚI NÓI
CHỊ KO CÓ KHẢ NĂNG SOI BÓI MÀ VẪN XEM VÀ LÀM LỄ CHO MỌI NGƯỜI
CÓ PHẢI LÀ GIẾT NGƯỜI CƯỚP TIỀN CỦA HỌ KO THÌ IM LẶNG KO NÓI GÌ????
 
CÓ NHIỀU TRƯỜNG HỢP LÀM THẦY RỒI ĐƯỢC CHA MẸ CHO QUYỀN PHÉP
CÓ KHẢ NĂNG SOI BÓI RỒI VÀ LỢI DỤNG KHẢ NĂNG ĐÓ ĐỂ LÀM TIỀN
VÀ VÌ THẾ CHO NÊN CHA MẸ THU QUYỀN PHÉP KO CHO SOI BÓI NỮA
NHƯNG TRƯỚC ĐÓ KHI ĐƯỢC CHA MẸ CHO KHẢ NĂNG VÀ QUYỀN PHÉP
HỌ ĐÃ SOI VÀ NÓI CHUẨN CHO RẤT NHIỀU NGƯỜI VÀ VÌ THẾ CHO NÊN
SAU NÀY THÌ HỌ DỰA VÀO KHẢ NĂNG ĐÓ ĐỂ LÀM TIỀN CỦA DÂN
VÀ BỊ CHA MẸ THU QUYỀN PHÉP LẠI KO CHO SOI BÓI NỮA
NHƯNG KHI MÀ ĐÃ CHIẾM ĐƯỢC LÒNG TIN CỦA MỌI NGƯỜI RỒI
THÌ DÙ CHO LÀ HỌ BỊ THU HỒI KHẢ NĂNG SOI BÓI LẠI
LÚC ĐÓ HỌ PHÁN LINH TINH THÌ CÁC BẠN VẪN NGHĨ LÀ ĐÚNG
THÙ HỌ NÓI GÌ THÌ CŨNG TIN
ĐẤY LÀ LÝ DO NHIỀU NĂM NAY 10 CÔ GÁI THÌ 9 CÔ GÁI
THÍCH... TƯỞNG... NGHĨ MÌNH LÀ CĂN CÔ CHÍN
LẤY ĐÂU RA NHIỀU CĂN CÔ CHÍN THẾ
TẤT CẢ LÀ Ở MỒM BỌN THẦY BÀ LỪA ĐẢO PHÁN
AI CŨNG PHẢI CĂN CÔ CHÍN NGHE MÀ THẤY MỆT MỎI
VÌ BAO NHIÊU NĂM NAY NGÀY NÀO CŨNG THẦY ƠI CON ĐI XEM
CÁC THẦY NÓI CON CĂN CÔ CHÍN..... NẢN
CÓ PHẢI LÀ THẦY NÀO CŨNG ĐƯỢC CHA MẸ CHO KHẢ NĂNG SOI BÓI ĐÂU
VÌ THẾ CHO NÊN CỨ LÀ CON ZAI NHẤT LÀ AI CHƠI CỜ BẠC
LÀ CHẮC CHẮN 100% ĐƯỢC PHÁN CĂN HOÀNG BẨY
(NGÀY CÒN TRẺ TÔI CHƠI CỜ BẠC VÀ THẾ LÀ CŨNG NHIỀU THẦY PHÁN CĂN HOÀNG BẢY
LÚC ĐÓ CHƯA BIẾT GÌ VỀ CĂN QUẢ NGHE ĐƯỢC LÀ CON HOÀNG BẢY THÍCH LẮM OAI NỮA
MÃI CHO ĐẾN SAU NÀY MỚI BIẾT ĐÓ LÀ SAI...
 
CÁC BẠN CỨ NGHĨ XEM LÀ CON GÁI AI CŨNG THÍCH MUỐN
NGHĨ VÀ TƯỞNG MÌNH CON CÔ CHÍN
 
CÁC BẠN CỨ TỰ SUY NGHĨ THÌ SẼ THẤY 100 NGƯỜI THÌ 99 NGƯỜI BIẾT ĐẾN CÔ CHÍN CÔ BƠ
AI CŨNG THÍCH---TƯỞNG---NGHĨ MÌNH CON CÔ CHÍN....
KO THÌ LẠI CÔ BƠ
NHIỀU KHI THẤY AI CŨNG RỒ LÊN THÍCH NGHĨ TƯỞNG MÌNH CON CÔ CHÍN (BUỒN THAY)
THẾ CÁC CÔ KHÁC CÁC VỊ THÁNH KHÁC KO CÓ TÀI CÁN KO CÓ CÔNG ĐỨC GÌ À
MÀ 10 NGƯỜI BÂY GIỜ ÍT CŨNG 8 NGƯỜI CON CÔ CHÍN
 
Ví dụ như bạn này thầy khuyên tiễn căn thế tiễn được căn khác gì bố mẹ mình đẻ ra mình
Ko báo đáp công ơn của bố mẹ lại làm lễ tiễn để ko liên quan gì đến bố mẹ nữa thì là đúng à
Với bố mẹ mình chỉ là bất hiếu thôi nhưng cứ tiễn đi với nhà thánh
Mình là có lỗi và vì thế cho nên làm xong chắc chắn 100% là có hoạ
Sống khổ hơn chết
Thầy lại còn sai khai mở cung tài lộc thế tôi ví dụ đơn giản mở được thế
Thì tại sao cả đất nước này ko mở hết cung tài lộc đi là ko còn có ai nghèo khổ nữa rồi
Xem bói ko sai nhưng ngày nay ko có căn soi lộc bói cũng vỗ ngực tự xưng
Là thầy bà cô cậu phán linh tinh lừa đảo
Vừa mất tiền vừa ghánh hoạ
 
Nhắn Các Bậc Làm Thầy Đúng 1 Câu Thôi
Đừng đem tính mạng+Gia Đình Người ta ra mà doạ bắt phải ra trình đồng mở phủ nhé
Nếu thật sự có duyên với nhà thánh
Họ tự ngấm đủ.đắng cay.tủi hờn.nhập.ốp.dở dở.ương ương
hãy dẫn trình họ ra trình đồng mở phủ nhé
Sao các thầy cứ thích đông con nhang kiểu chợ búa thế
Càng đông càng tốt càng nở mặt à
 
KO CÓ CĂN QUẢ CŨNG HÙ DOẠ CHO CỐ VÔ BẮT NGƯỜI TA PHẢI RA TDMP
RỒI HỌ ĐƯỢC GÌ..?
THẦY ĐƯỢC GÌ..?
MỞ ĐƯỢC KO SAO ĐỆ TỬ YÊN KO SAO
MỞ KO ĐƯỢC NÓ HÀNH THẦY HƠN NGHIỆP HÀNH ĐẤY ..! SƯỚNG NỖI GÌ MÀ AI CŨNG BẢO PHẢI RA TDMP
RỒI CÓ NHỮNG THẦY MỚI ĐƯỢC ĐẺ RA MÀ LẠI ĐI ĐẺ RA ĐỆ TỬ khác NGAY ĐƯỢC thế thì thầy lại giỏi quá
____GHIM ĐÚNG 1 CÂU THÔI ..MONG CÁC THẦY BỚT DOẠ LẠI Ạ.! cho dân được yên bình
..CHÚC CÁC THẦY ĐẮC ĐẠO.!
 
BỌN KO CÓ KHẢ NĂNG VẪN VỖ NGỰC TỰ XƯNG LÀ ĐỒNG THẦY
RỒI THU TIỀN CỦA MỌI NGƯỜI LÀM LỄ SAI BỞI VÌ KO CÓ KHẢ NĂNG
SOI BÓI MÀ VẪN XEM BÓI VÀ LÀM LỄ THÌ CÓ KHÁC GÌ KO PHẢI LÀ BÁC SĨ
VẪN KHÁM CHỮA BỆNH CHO DÂN THÌ CÓ PHẢI LÀ GIẾT NGƯỜI KO DAO ĐÚNG KO ???
 
 
BỌN ĐỒNG THẦY KO CÓ KHẢ NĂNG SOI BÓI VẪN CỨ LỪA ĐẢO ĐI RỒI CHA MẸ PHẬT THÁNH CÓ MẮT
CHÚNG MÀY SẼ KO THOÁT TỘI ĐÂU YÊN TÂM
HAY THẬT SỰ KO CÓ KHẢ NĂNG SOI BÓI VẪN XEM BÓI VÀ LÀM LỄ CHO DÂN
KO CẦN PHẢI CÓ CĂN SOI BÓI MÀ CHỈ CẦN CHỤP HÌNH CÔ CẬU
ĐĂNG FB XEM BÓI TẠO PHÚC VÀ THẾ LÀ ẦM ẦM CÔ ƠI CẬU ƠI
CHÍNH BẢN THÂN TÔI ĐÃ MẮNG THẲNG VÀO MẶT BAO NHIÊU NGƯỜI
KO CÓ CĂN SOI BÓI MÀ VẪN THỜ ĐIỆN VÀ XEM BÓI LÀM LỄ CHO MỌI NGƯỜI
KHOE VỚI TÔI CON THỜ LÂU RỒI TÔI MỚI HỎI KO CÓ CĂN SOI BÓI MÀ THỜ
THÌ LÀ THỜ AI??? KO CÓ CĂN SOI BÓI THÌ CHA MẸ NÀO NGỰ
NHƯ THẾ LÀ THỜ MA THỜ QUỶ NHÉ THÌ VẪN CỐ CÃI
CON THỜ LÂU RỒI HÀNG NGÀY VẪN XEM VÀ LÀM LỄ CHO BÁCH GIA MÀ THẦY
TÔI BẢO VÂNG CHỊ XEM VÀ NÓI CHO TÔI LUÔN ĐI TÔI ĐỐ XEM VÀ NÓI ĐƯỢC ĐÚNG CHO TÔI THÌ Ú Ớ
QUÁ LÀ GIẾT NGƯỜI KO DAO
Đó LÀ LÝ DO AI ĐI XEM CŨNG ĐƯỢC NÓ PHẢI MỞ PHỦ KO THÌ LẠI TIỄN CĂN
 
KO THÌ LẠI TRẢ NỢ TỨ PHỦ.... CẮT TIỀN DUYÊN CẮT DUYÊN ÂM
TOÀN NHỮNG LỄ GIẾT NGƯỜI CƯỚP TIỀN CỦA BỌN THẦY BÀ LỪA ĐẢO
ĐẶC BIỆT NỮA LÀ CÁC BẠN CHỈ CẦN KO BỊ U MÊ
LÀ SẼ HIỂU THẬM CHÍ CÒN CƯỜI ĐỂU BỞI VÌ MỖI KHI THẤY AI NÓI
CĂN CÔ CHÍN BẤT CỨ NGÕ NGÁCH NÀO PHỐ XÁ LÀNG XÓM NÀO
AI CŨNG CHÊ BIẾT CÔ CHÍN CỨ LÀ CON GÁI THÌ ĐƯỢC MẶC ĐỊNH LUÔN LÀ
GHẾ CÔ CHÍN 10 NGƯỜI ĐI XEM 9 NGƯỜI ĐƯỢC PHÁN CĂN CÔ CHÍN
CON CHỈ THẤY VẬY MÀ VÔ CÙNG ĐAU LÒNG THAY CHO NHỮNG KẺ U MÊ
TẠI SAO CÁC CÔ KHÁC KO CÓ TÀI KO CÓ CÔNG GÌ VỚI ĐẤT NƯỚC À
MÀ AI CŨNG CÔ CHÍN TẤT CẢ LÀ DO BỌN THẦY BÀ LỪA ĐẢO KO CÓ KHẢ NĂNG
PHÁN AI CŨNG CON CÔ CHÍN...CON GÁI MẶC ĐỊNH SẴN LÀ SẼ CĂN CÔ CHÍN
CON ZAI LẠI CHỈ PHÁN CĂN HOÀNG BẨY HOÀNG MƯỜI
 
CÁC BẠN LƯU Ý LÀ 1000 THẦY THÌ MAY RA MỚI CÓ 1 THẦY ĐƯỢC CHA MẸ
CHO KHẢ NĂNG ĐỂ SOI CĂN THÔI KO CÓ NHIỀU ĐÂU MÀ BÂY GIỜ RANH CON
9X 2K ĐĂNG ẦM ẦM XEM BÓI TẠO PHÚC ????
Để MÀ ĐƯỢC KHẢ NĂNG SOI BÓI NÓI ĐƯỢC ĐÚNG Ý
THÌ CHẮC CHẮN LUÔN LÀ 10 THẦY THÌ CẢ 10 CÙNG PHẢI TRẢI QUA VÔ VÀN
CƠ ĐẦY KHỔ CỰC CHỨ KO ĐƠN GIẢN ĐÂU MÀ XEM BÓI TẠO PHÚC
LƯU Ý BỌN KO CÓ KHẢ NĂNG SOI BÓI VẪN XEM BÓI
VÀ LÀM LỄ CHO MỌI NGƯỜI LÀ TẠO NGHIỆP NHÉ RẤT NHIỀU NGHỆ NHÂN ĐỒNG THẦY NỔI TIẾNG
NGÀY NAY KHẢ NĂNG SOI BÓI KO CÓ CHỈ CẦN BỎ TIỀN RA
MUA BẰNG CHỨNG NHẬN TREO ĐẦY NHÀ DÂN ĐẾN NHÌN NỂ THẾ LÀ PHẢI TIN
TÔI KHUYÊN THẬT LÒNG CÁC BẠN KO BIẾT GÌ VỀ TÂM LINH THÌ HÃY TÌM HIỂU KỸ TRÁNH MANG HOẠ
TÂM LINH KO PHẢI CÔNG VIỆC ĐỂ KIẾM TIỀN ĐÂU ĐỪNG THẤY ĐÀO ĐƯỢC DỄ
THÌ CỨ ĐÀO 11 NĂM LÀM VIỆC TÔI ĐỐ BẤT CỨ AI NÓI TÔI NHẬN DÙ 1 NGHÌN
NGƯỜI CÓ TRÁCH NHIỆM LÀM THẦY LÀ PHẢI 1 LÒNG CỨU ĐỘ CHO BÁCH GIA
TRĂM HỌ CÓ CUỘC ĐỜI TỐT ĐẸP HƠN CHỨ NGƯỜI LÀM THẦY ĐÍCH THỰC
HỌ TRẢI QUA BIẾT BAO KHỔ CỰC HỌ MỚI THẤM NỖI KHỔ CỦA NGƯỜI KHÁC
THÌ LÀM SAO MÀ CÓ THỂ NHẪN TÂM CẦM NHỮNG ĐỒNG TIỀN MỒ HÔI
CÔNG SỨC CỦA CÁC BẠN CHỈ CÓ BỌN TỰ XƯNG TỰ NHẬN
LÀ THẦY BÀ CÔ CẬU THÌ MỚI VÔ TƯ CẦM NHỮNG ĐỒNG TIỀN MỒ HÔI NƯỚC MẮT
CỦA CÁC BẠN
NHẮN CÁC BẬC LÀM THẦY DÙ LÀ THẦY THẬT HAY TỰ NHẬN LÀ
NHIỀU NGƯỜI BỊ HÀNH VÌ LÀ NGƯỜI TRẦN MẮT THỊT HỌ ĐÃ U MÊ ĐÃ KHỔ LẮM RỒI
TÔI KHUYÊN CHÂN THÀNH LÀ KO GIÚP ĐƯỢC GÌ CHO HỌ THÌ THÔI
ĐỪNG LÀM TIỀN CỦA HỌ CHÍNH BẢN THÂN TÔI ĐI LỄ CÙNG RẤT NHIỀU CÁC CÔ GÁI Ở QUÊ KO HIỂU BIẾT THẦY XUI DOẠ
CHO TÍ LÀ SỢ LO 100 NGƯỜI THÌ TẬN 200 TRIỆU ĐỂ HẦU 1 THỜI GIAN SAU VÌ LÀM KO ĐÚNG VẪN BỊ CƠ HÀNH
HỎI THẦY THÌ THẦY NÓI BỊ LỖI PHẢI LO 100 TRIỆU ĐỂ XOAY KHĂN
(CÁC BẠN CHẮC SẼ HIỂU THẦY ĐÃ MỞ LỖI CHO MÌNH 1 LẦN THÌ DÙ CHO
CÓ XOAY KHĂN LẠI BAO NHIÊU LẦN THÌ CŨNG CHỈ TIỀN MẤT TẬT MANG MÀ THÔI)
 
????Ngày nay đi lễ tự nhiên để ý bất cứ đền nào cũng
Kín các Cung đang có lễ Cung thì lễ Trả nợ tứ phủ
Cung thì Di cung hoán số Cắt duyên âm
Nhà Thánh Có Phải Chủ Nợ Đâu Mà Cứ U Mê Trả Nợ
Xong rồi lại tiền mất tật mang chứ sướng gì đâu
Những cái lễ này tôi dám chắc 100% bất cứ ai làm xong
Thì cũng sẽ ko được chuyện gì tốt đẹp gì đâu
Đứng Nghe những người làm lễ
Họ nói Lễ Trả nợ tứ phủ Và Di cung hoán số
 
 
Cắt duyên âm...Cắt tiền duyên họ nói lễ nào cũng 50 70triệu????
????Nghe vậy mà xót xa thương thay cho họ u mê mù quáng
Đã khổ rồi còn gặp thầy bà ma quỷ làm tiền
Đến sợ các thầy lễ ko đúng còn thu tiền như cướp
Thương thay những kẻ mang danh là Đồng Thầy con nhà Tứ Phủ con Cha con Mẹ vì đồng tiền mà bất chấp tất cả
Con nhang đệ tử nặng nghiệp đang phải trả nghiệp tiền kiếp trả nghiệp quá khứ cũng nhắm mắt xuôi miệng phán rằng căn số phải ra trình đồng mở phủ lập điện ngay????
????Tài giỏi hơn còn định đoạt được số mệnh của các con nhang sướng hay khổ giàu hay nghèo thọ hay yểu bằng cái lễ tên gọi rất hấp dẫn
: DI CUNG HOÁN SỐ (Hiểu nôm na là đổi số mệnh của mình sang 1 tuổi khác để hợp đường công danh tình duyên học hành hôn nhân) Đúng là cười ra nước mắt
Những người sáng tạo và làm ra những khoá lễ tương tự thế này thật xứng danh là CHÂN MỆNH THIÊN TỬ khác gì vua chúa ngày xưa lời nói thốt ra còn hơn vàng ngọc tài giỏi lạ thường ????????????????
????Lắm lúc tự hỏi nói câu này ra biết sẽ mạo phạm nhưng buộc phải nói tạo nghiệp nhân xấu ác đang phải chịu quả báo luân hồi chỉ cần làm lễ thì qua đc mọi vận hạn những Thánh Thần chứng cho LỄ này khác gì ăn hối lộ
Có Thầy cũng lạ lắm.không cần biết con nhanh của mình có tiền hay không giàu có hay khổ sở chỉ chăm chăm nhìn người ta mà phán: Căn số đấy nặng lắm rồi không lễ là tán gia bại sản không lễ vợ chồng ly hôn không lễ sẽ mất mạng.Đau xót quá????
????Ai ai cũng biết những vị Thần Thánh được người dân kính mến vì Đạo vì Nghĩa được dân thờ phụng bởi công đức đánh giặc xả thân quên mình làm điều thiện nghĩa có vị là tấm gương hiếu thảo kính trên nhường dưới không tham quyền thế.
Thiết nghĩ nếu các ngài còn sống những kẻ buôn Thần bán Thánh quên nghĩa nhân tham tiền như trên chém đầu không hết tội
Ai cũng biết Hầu Đồng là hình thức giữ gìn văn hoá Việt cũng là để nhắc chúng ta nhớ tới ân đức của các Ngài.Nhưng bây giờ đâu đâu cũng Hầu 1 năm hầu cả mười mấy giá nói là nhà ngài cho LỘC thì phải trả lễ. Nghe thật nực cười.Có những người từng làm lễ CẮT DUYÊN ÂM cưới vợ gả chồng cho vong âm theo ám mình có ai thấy khá hơn không? Có ai thấy mình sống dở chết dở vì từng đi vay mượn để theo đồng thầy trình đồng mở phủ chưa? Có ai từng tự xét bản thân trong quá khứ ta từng phá thai đặt điều hại người bất hiếu mẹ cha lừa gạt tình cảm của người khác thì sẽ bị quả báo gì chưa hay lại căn số?????
????Đi lễ Đền Bảo Hà nhiều người có quan điểm:
Dâng ông á phiện ông thích rượu chè cờ bạc gái xinh ông mê lắm tiện khổ quá xin ông con lô con đề.
Thật nghe mà nhục nhã quá
Thần tích sử tích còn ghi về ông ông chết hào khí oanh liệt phút chốc lại thành thằng nghiện ham cờ bạc mê sắc dục ????
Số ít người cũng lạ lắm làm ăn gặp thời suôn sẻ không sao có tiền có của bo bo giữ không đem tiền phụng dưỡng cha mẹ ông bà.Đến khi lâm nạn xem bói thầy nói căn số tin người được sao không tự vấn lại ta khi nhiều tiền của có làm việc thiện tu nhân tích đức hay không? Hay ăn chơi trác táng bạn xấu chơi cùng
Đi lễ các Đền to Phủ lớn nhiều vị dâng voi ngựa
Heo quay gà luộc xôi giò...Vấn đề phú quý sinh lễ nghĩa thì không dám bàn cãi nhưng nên hiểu nghèo sắp lễ theo nghèo có của ăn của để hiếu lễ vậy là tốt nhưng phải đi đôi với đạo lễ kính trọng phụng dưỡng gia tiên ông bà cha mẹ như thế????
????Hễ ai nghèo khó hãy biết tự tu tâm tu thân tu khẩu
Hiếu thảo sách có câu Đức Năng Thắng Số
Hễ ai đang phát đạt cũng đừng quên cội nguồn
Gia đình những người từng giúp đỡ ta ta khá giả rồi thì giúp người nghèo khó khổ sở hơn ta bằng gì cũng được đâu nhất thiết là tiền.
Kiếp này ta ăn ở hiền lành mà tai hoạ dồn dập vậy chắc gì kiếp trước ta ăn ở thiện lương.
Đốt vàng mã là phong tục tập tục của cha ông ta ngày xưa uống nước nhờ nguồn
Nhưng đừng hoang phí tiền bạc bỏ tiền thật ra mua đồ giả nên ở mức vừa đủ thôi. Hãy chăm xám hối tội lỗi không làm điều ác
Giúp người khi có khả năng
Tu nhân tích đức hiếu kính mẹ cha sống có nhân có nghĩa????
 
 
 
????????????BÀN VỀ VIỆC SOI CĂN????????????
????Thời gian gần đây có rất nhiều các bạn nhắn tin cho Add hỏi về căn số nội dung thường hỏi nhiều nhất là về vị thánh cầm bản mệnh!!!
Câu hay hỏi và cũng là điều các bạn đi xem bói thường thắc mắc là mình căn ai? Căn của vị thánh nào?
Và các bạn đi xem mỗi nơi các thầy lại phán căn một vị khác nhau
(nếu đi nhiều chắc đủ 36giá)
Với tình trạng thực tế hiện nay rất khó để các bạn xác định được mình do vị thánh nào cầm bản mệnh vì những lý do sau:????
 
 
????1.Không phải thầy nào cũng có khả năng soi căn nối quả
Nhưng thầy dởm thì nhiều nên không có căn cứ mà cứ phán...
Nên mỗi câu trả lời lại có một vị thánh cầm bản mệnh
2.Khi gặp đúng thầy soi đúng.Nhưng ai và lấy gì chắc chắn là thầy ấy đúng và hiển nhiên phải đi soi tiếp nơi khác thầy phán khác lại đi tiếp Cuối cùng bị loạn căn
3.Bản thân người đi soi căn cũng hoang mang không lbiết kêu cầu gia tiên dẫn đường chỉ nối cha mẹ khai sáng để có căn duyên gặp thầy tâm đức thậm chí nhiều bạn chẳng có tí căn quả nào? Chỉ vì đi xem bói thấy người ta bảo vậy là cuống cuồng đi xem chỗ này chỗ khác mong tìm kết quả.Có vị ra đồng gần chục năm có đền phủ riêng khi tôi hỏi vị thánh nào cầm bản mệnh của cô vị này đưa ra 3 vị thánh tôi hỏi vậy vị thánh nào là vị thánh thủ đền cô ấy cũng cho tôi 3 cái tên...Chao ôi!!! Đến đền phủ.Căn số của mình còn không vững thì cứu được ai? Vậy tôi thiết nghĩ các bạn muốn biết mình Căn của vị thánh nào điều đầu tiên cần nắm là phải biết mình có căn hay không? Khi có căn thì biểu hiện thế nào? Sức khỏe gia đình công việc các điềm báo giấc mơ soi bói...Khi xác định được có căn mới tìm hiểu mình căn của vị thánh nào? Điều này các bạn hay đi xem nhiều nơi nên bị loạn.Tốt nhất năng kêu cầu gia tiên và Phật thánh gia hộ đồng thời tìm thầy uy tín chỉ dẫn kết hợp với cảm nhận cá nhân « điều này là rất quan trọng vì không ai rõ mình con ai bằng chính bản thân mình» khi có thầy không nên nghe linh tinh mà loạn tâm chỉ có vậy mới mong tìm ra câu trả lời cho riêng mình Vì khó khăn này nọ mới hay đi xem bói
Ai chả biết điều đó không lẽ đồng thầy không biết
Có con nhỏ với tình hình môi trường hiện nay 10 cháu bé có đến 9 cháu bị bệnh vặt đi viện .....
Hoặc bận bịu không chăm sóc trẻ tuổi dậy thì không nắm rõ tâm sinh lý của con dẫn đến con có chuyện nọ chuyện kia????
 
 
????Thầy nói xung về số mệnh....không đúng mới là lạ
Riêng khoản nói nguội là nghề của các thầy.
Rồi nói nóng nữa.Ba cái vụ mồ mả động rồi đất ở lành dữ thầy nói đâu nghe sợ đấy
Dọa cái là sợ co cả người vào.Thầy nói di cung hoán số là di cung hoán số nói cắt tiền duyên là cắt tiền duyên
nợ tứ phủ là trả nợ tứ phủ nói có căn là phải hầu
Cũng không phải ai cũng đủ bản lĩnh để suy xét.
Tất dẫn đến mê muội
Đời ai không gập ghềnh uốn khúc????
 
 
????Không ai nắm tay thâu ngày đến tối lúc lên voi lúc xuống chó là thường
Nhất là yếu tố kinh tế và tình cảm hay bị các Thầy soi mói bằng thủ đoạn nói nguội Nhưng nếu mà tin vì thầy nói là có căn thì phải cẩn thậnRiêng khoản soi căn nổi quả không phải ai cũng xem được 1000 thầy may được 1 Đi xem thầy cứ phán các bạn cứ Con gái ai cũng căn Cô chín...Cô bơ
Con zai thì lại Quan hoàng 7...hoàng 10
Rồi Tiễn căn...Di cung hoán số...trả nợ tứ phủ...
Cắt duyên âm cắt tiền duyên chắc chắn làm xong
1 những lễ này các bạn chỉ có xuống dốc ko phanh sống dở chết dở luôn
Vì những lễ lừa đảo giết người này của các thầy vô lương tâm Chính xác là thế????
 
 
????Tôi viết bài này mong có thêm kinh nghiệm cho các bạn.
Đặc biệt mấy bạn trẻ
Các nghi lễ không có trong Tứ Phủ
1 : Mở Phủ Âm
2 : Hầu Đồng Âm
3 : Di Cung Hoán Số
4 : Tiễn Căn
5 : Mở Cung Tài Lộc
6 : Mở Cung Lộc Bói
7 : Trả Mã Tào Quan
8.Trả Nợ Tứ Phủ
9 Cắt Duyên Âm - Cắt Tiền Duyên
 
 
Những nghi lễ này ko có trong Tứ Phủ Đạo Mẫu mà là do
Tự các thầy bà lừa đảo làm tiền nghĩ ra để lấy tiền của dân
Làm 1 trong những lễ này xong thì bất cứ ai Cũng sẽ rất khổ????

 

 

CÁCH NHẬN BIẾT BẠN CÓ BỊ VONG DUYÊN ÂM THEO PHÁ ĐÓ LÀ
 

9 DẤU HIỆU NHẬN BIẾT BẠN CÓ "DUYÊN ÂM"
---------------------
Duyên Âm được hiểu là là tình duyên hiện tại giữa người trần và những người ở thế giới khác mà đa số là với các vong linh thậm chí tà ma ác linh
Duyên âm có hai loại:
Duyên tiền kiếp có thể là đoạn duyên còn chưa đứt của bạn trong tiền kiếp
Nói cách khác người yêu kiếp trước của bạn vì vương vấn mối tình này mà chưa chịu đi đâu theo còn theo bước bạn tới tận kiếp này.
Loại còn lại là duyên âm với những người đã chết ở kiếp này.
Theo Phật giáo chúng ta có kiếp luân hồi.Khi được chuyển kiếp người ta vẫn lưu giữ những ký ức về kiếp trước
Và khi mất đi địa vị xã hội không quan trọng chỉ có tình cảm với người khác là khó quên nhất.
Khi sống hầu hết con người ai cũng có tình cảm khác giới.Ngoài tình cảm vợ chồng thì còn có những mối tình nam nữ
Nhưng vì một lý do nào đó mà họ không thành vợ chồng hoặc là vợ chồng rồi nhưng không được ở lâu dài với nhau
Vì thế ai cũng có sự nhớ thương hoặc nếu bị phản bội đối xử quá tệ bạc thì sẽ trở thành hận tình
Sau đó khi mất đi sẽ tạo thành duyên âm
 
1. Tình duyên trắc trở yêu ai cũng không thành hoặc không ai thèm để ý đến mình
Nếu có tiến đến hôn nhân cũng tan vỡ không hiểu vì sao…
2. Tính tình bổng dưng nóng nảy có nhiều sự thay đổi lạ lùng theo chiều hướng xấu
Không phải do áp lực gia đình công việc…đôi lúc sau khi nghĩ lại, cũng có người nhận ra sự nóng nảy của mình
3. Lơ ngơ thơ thẩn bần thần như một người hoàn toàn khác không làm chủ được suy nghĩ
Có những trường hợp, mơ hồ
Nếu người nhà có kinh nghiệm thì lúc này sẽ hỏi và sẽ có thể khai tên tuổi nhưng không phải tên tuổi của người bị vong theo
Mà lại khai tên tuổi khác, có thể là tên tuổi của vong linh đang theo
(không mắc bệnh lý hoặc hồ sơ liên quan đến tâm thần).
4. Thường xuyên xuất hiện những giấc mơ gặp gỡ “người nào đó” lặp lại nhiều lần nhưng chưa hề quen biết.
Có nhiều trường hợp mơ " quan hệ " với một người nào đó
Có khi mơ một ai đó dẫn mình đi chơi đến một nơi mà ....có rất nhiều người khác lạ không quen biết cảnh vật màu vàng rất cũ vắng vẻ như ở âm phủ..
Hoặc có cảm giác có người đi theo mình
Hoặc có cảm giác có người nằm bên cạnh mình khi đi ngủ
5. Thỉnh thoảng nghe những lời thì thầm, những câu nói mơ hồ bên tai như muốn xúi dục một điều gì đó.
Có những lúc xúi dục, rủ đi chơi, hoặc tiếng gọi " đi đến chỗ nọ, chỗ kia "
6. Cảm giác sợ hãi, lãnh lẽo khi nghe thấy kinh kệ hoặc đứng trước di ảnh của Phật,
Đi lễ các đền, các phủ thì lại cảm thấy hoảng hốt, không rõ mình sợ hãi một điều gì
Cũng có trường hợp, khi bắt đầu vào lễ ở các đền, các phủ, người sẽ được thảnh thơi trở lại với con người thật của chính mình....
(tức là vong nó tạm thời ra khỏi bản thân) nhưng khi ra khỏi đền, chùa, phủ thì lại bị có người bị ngay nhưng có người được vài ngày
Đây là lý do để các thầy các cô nói phét là đã TRỤC được vong và lấy được.... tiền
7. Ngủ li bì, cảm thấy trong người mệt mỏi không có sức sống có khi mê sảng gào thét hoặc thấy một cái gì đấy rất sợ...
Có người bị bóng đè....nhưng khám bệnh không tìm ra nguyên nhân.
8. Thường xuyên bị đau nhức một vị trí nào đó trên cơ thể vào ban đêm
(Thông thường từ 6h tối trở đi) nhưng không phải do bệnh lý gây nên
9. Trong người bỗng dưng cảm thấy buồn chán không rõ nguyên nhân cảm thấy muốn tự tử kết liễu cuộc đời
Hay gặp xui xẻo khi đi chùa đền và thích soi guong chải đầu cả đêm dù đang nhắm mắt ngủ
Có khi đứng trước gương hàng tiếng đồng hồ đôi lúc nhìn thấy mặt mình khác rất nhiều
Thường thường vào luc 18h tối đến 1h30 đêm cũng có những trường hợp không theo khung giờ này
 

CÁC BẠN LƯU Ý BỊ NGƯỜI ÂM THEO PHÁ CHỚ TIN LỜI LÀM LỄ
CẮT TIỀN DUYÊN CẮT DUYÊN ÂM CHẮC CHẮN LÀ SẼ TIỀN MẤT TẬT MANG
 

XEM BÓI MIỄN PHÍ ONLINE 0966662332

 
 
 
 
 
 
 
 
 
Dấu Hiệu Có DUYÊN ÂM THEO PHÁ
 
 
1. Không muốn yêu ai và không ai yêu
+ Với nữ:
Trong mắt bạn bè người thân họ là những kẻ ế bằng thực lực.
Không hẳn là bởi ngoại hình tính cách hay gia cảnh hay bất cứ cái gì khác mà trước tiên chính là bản thân họ tự nghĩ rằng:
1 mình cũng chả chết được.Hơn nữa lại vô cùng thoải mái trong mắt người ngoài thì khác nào vô duyên nào số nó thế nào ma nó dữ người..... ???!!!
Họ luôn cho rằng không có người yêu đỡ phiền phức lo lắng và N thứ linh tinh KHÔNG CẦN THIẾT KHÁC
Họ QUYẾT TÂM dành trọn năng lượng nhiệt huyết cho những việc có ích cho xã hội hơn như ăn, ngủ, xem ti vi, du lịch…
Và đôi khi là bận làm việc nhưng đến tối về lại hay mơ mộng một hoàng tử nào đó cứu vớt.
Chung quy lại là không muốn yêu, không cần yêu, ta có thể sống hiên ngang giữa đời
Mà không cần một anh/cô người yêu bên cạnh làm gì cho mệt nếu nghĩ đến phái khác giới phải như trong mơ cơ.
Hoặc có người bình thường thì rất hào hứng nào nhờ người giấy thiệu làm quen
Nhưng cứ hễ gặp bất cứ ai trong đầu lại hiện lên lý do chốn tránh và chán .
???? là tự kiêu hay ngại va trạm và rất thu mình khi nói chuyện va chạm tình cảm với người khác giới
Nhưng cũng có thể đây chính là dấu hiệu đầu tiên của việc bị duyên âm theo đuổi
 
 
+ Với Nam Thì:
Ngược lại.Có người lắm mối tối lại nằm không
Ai giới thiệu cho người khác giới cũng bị cản mặc dù nhìn cũng dáng dấp khôi ngô tuấn tú không đến nỗi nào
Có khi còn rất ga lăng và có người còn có duyên ăn nói nữa cơ.
Hỏi ra mới biết trong mắt đối phương luôn e dè người này là kẻ đa tình khó tin tưởng
Dù chỉ là làm quen hay yêu ai cũng không quá vài buổi là đối phương bỏ chạy.
Cũng luôn có những trường hợp cả nam lẫn nữ bị người khác giới khi mới quen hay khi có chút nảy nở tình cảm
Thì bị đánh giá là đa tình hay là kẻ không chung thủy
Mặc dù có bạn từ nhỏ đến lớn đã nhiều mùa khoai sọ và chứng cá nhưng CHƯA từng một lần được cầm tay ai!!!
 
2. Tình Cảm Như Có Người Phá
 
Đã có người yêu hay thậm chí có gia đình.Tình cảm bình thường rất tốt nhưng rồi không tiến đến hôn nhân
Hoặc đã kết hôn nhưng có lúc bỗng nhiều lúc cảm thấy khó chịu không hạnh phúc dù đã cố gắng vun đắp tình cảm gia đình.
Đôi khi bị cảm giác ghét bỏ người mình đang yêu vợ/chồng mình mà không rõ lí do chỉ muốn chia tay và sớm chấm dứt tình trạng hiện tại.
Có khi đối phương chỉ gây những lời nói/hành động nhỏ cũng khiến bản thân không vừa ý khiến bản thân cáu giận gây cãi vã
Nhưng khi bình tĩnh lại thì lại thấy sự việc không đến nỗi phải gay gắt như thế.
Nhiều trường hợp duyên âm tác động khiến cho người ta chán ghét cuộc sống hiện tại muốn từ bỏ
Người ở bên cạnh mình là người yêu hay là vợ chồng để đi tìm cảm giác tự do 1 mình (chứ không hề có ý định tìm người mới).
Có khi duyên âm còn gây ra những giấc mộng ảo tác động tâm lý khiến cho người yêu
Vợ chồng sinh nghi ngờ đối phương thậm chí tự ảo tưởng đối phương đang lừa dối hay không xứng đáng với mình.
Lâu dần sinh cảm giác chán nản không muốn vun đắp cho cuộc tình/cuộc hôn nhân này nữa.
???? Việc này kéo dài mà không được chia sẻ thấu hiểu của đối phương hoặc không tìm cách tháo gỡ sẽ gây ra tâm lý buông bỏ hoặc chạy trốn
Chung quy là để người trần không còn mối quan hệ yêu đương/ vợ chồng với ai nữa
 
3. Tính Khí Nóng Nảy Gắt Gỏng Bất Chợt
 
Theo một cách “rất tự nhiên” bạn cảm thấy vô cùng khó ở.
Sự khó ở này không thường xuyên và cũng không phải là với ai bạn cũng vậy.
Đa phần là khi bình thường bạn ít khi bị cảm giác khó chịu này và cũng cảm thấy cuộc sống khá dễ chịu
Nhưng khi gặp hoặc nói chuyện với một đối tượng nào đó thì bạn lại trở nên khó chịu, nóng tính thậm chí hơi khó ưa.
Bạn như bị đặt ở trạng thái bom hẹn giờ sẵn sàng cau mặt với bất kỳ ai đương nhiên là chả có lý do gì gọi là chính đáng cả.
Sau những lúc đó bạn lại trở về trạng thái bình thường đôi khi không hiểu tại sao mình lại như vậy.
???? Đây rất có thể là do âm tác động để cho đối phương nghĩ bạn là chảnh chó chứ thực ra bạn lại là người dễ sống
Thậm chí có người bị duyên âm tác động chỉ thích thu mình không muốn
Tiếp xúc với ai đặc biệt dị ứng với người khác giới để bạn bè cho rằng lập dị khó gần.
 
4. Yêu Hay Không Yêu? Đó Là Vấn Đề
 
Đêm hôm nằm dài ngẫm ngợi về cuộc đời bạn bỗng thấy tình yêu cũng thú vị đấy chứ
Hay cứ thử yêu xem nhỉ, có người yêu quan tâm chăm sóc cũng tốt đấy chứ bạn cũng nên nghĩ tới tương lai hay điều gì đó ổn định…bla…bla...
OK chốt MAI BẮT ĐẦU YÊU.
Sáng ngủ dậy thấy cuộc đời vẫn đẹp phim vẫn hay còn yêu thì thôi chả cần nữa ở một mình cho sướng???!!!
???? Những người có duyên âm thường lười tiếp xúc với người khác giới và nhìn thấy ai cũng không có ý tiến xa hơn
Thậm chí còn chán ghét với những người khác giới dù bề ngoài nhan sắc hay tài năng của người kia không hề tệ
Ví như một người rất đẹp trai, ăn nói lưu loát trong mắt bạn lại không hề đẹp thậm chí nói nhiều vô duyên
Một idol được đông đảo người hâm mộ qua mắt nhìn của bạn lại vô cùng tầm thường thậm chí có phần ẻo dẹo…
???? Nhiều người trong lòng luôn có một hình bóng mơ hồ của một đối phương lý tưởng nào đó giống như không phải ở thực tại
Đây là do âm tác động nên nhìn thấy ai cũng không có cảm tình không vừa mắt
 
5. Người Yêu Từ Trong Giấc Mơ
 
Trong giấc mộng (có thể lặp đi lặp lại nhiều lần) thấy có NGƯỜI LẠ
Yêu mình và có đôi khi mình cũng quấn quít người ta (thậm chí còn làm một số việc xXx khác).
Đa phần các giấc mơ đều chỉ hình dung dáng vóc chứ không thấy mặt hay giống như chỉ nhìn 
Ở 1 góc quay nào đó để thấy được ánh mắt, nụ cười, hay một bộ phận nào đó khác chứ ít khi thấy tất cả.
Nếu may mắn thì đó có thể là một gương mặt của hot boy, hot girl, thân hình vạm vỡ hay quyến rũ, giọng nói nhẹ nhàng ấm áp…
Nếu không may thì đôi khi người yêu trong mơ xuất hiện dưới dáng dấp bóng đen bí ẩn, nghe giọng đoán hình thậm chí chỉ là tiếng thì thầm gọi tên 
 
 
???? Đặc biệt những người bị duyên âm thường hay cảm giác có ai đang theo dõi hay bên cạnh mình
 
Trong các giấc mộng với người khác giới này nhiều khi là bị bóng đè khi thức dậy tâm thần bị hoảng loạn và cơ thể mệt mỏi.
 
6. Nhắm Mắt Đưa Chân Nhưng Không Thành
 
Có lúc hạ quyết tâm ừ thì yêu đi sợ gì. Xung quanh có nhiều người tán tỉnh tin nhắn chờ hàng tá tin nhắn chưa kịp rep cả lô
Những lời quan tâm hỏi han lời mời đi chơi không kịp phản hồi.
Cũng có khi gật đầu đi chơi ăn uống hay nói chuyện… Đôi lúc về thấy cảm xúc dạt dào có lẽ là hơi THINH THÍCH rồi…
Được vài hôm bạn thấy không thích người đó nữa chả nhung nhớ chả quan tâm
Thậm chí những tin nhắn hỏi han lúc này trở nên phiền phức vô cùng và bạn muốn chấm dứt ngay.
Lỡ mà gặp lại tự bản thân thấy có chút ghét ghét hay muốn xa lánh trong khi họ vẫn quan tâm thể hiện
Đương nhiên là người ta chả làm gì sai với bạn cả.
???? Đa phần những người bị duyên âm theo đuổi tính cách có phần bất ổn lúc hào hứng tiếp nhận
Lúc đây đẩy xa lánh sự thay đổi này nhanh chóng mặt khiến cho đối phương không kịp trở tay dần dần trở nên khó chịu chán ghét…
 
7. Tự Nhiên Nghĩ Vu Vơ Rồi Tự Làm Mình Buồn
 
Thường là với nữ: Tự nhiên quanh quẩn với 1 đống tâm sự lôi hết chuyện buồn quá khứ
Dữ kiện tương lai nhận định hiện tại ra để suy nghĩ rồi buồn! Lắm lúc còn rơi nước mắt tủi thân nữa …!!!
Có những người tiền kiếp dùng sắc đẹp làm hại người càng hay bị bóng đè và luôn có cảm giác cô độc.
 
8. Tôi Không Phải Dành Cho Bạn
 
Có người chưa chồng con hay chưa có người yêu nhưng hay mơ hoặc có cảm giác
Như đã từng có người yêu từng có chồng có vợ thậm chí có những giấc mộng đang yêu thương chăm sóc gia đình vợ con/chồng con rất chu đáo.
Trong thực tế cuộc sống họ có cảm giác không muốn tiến xa với ai vì luôn mơ hồ về người trong tim mình khác hẳn với những người mình quen biết hay gặp mặt.
Người tâm giao đó đang ở một nơi nào đó cũng đang tìm kiếm đang chờ đợi họ đang mong được đoàn tụ với họ và đó cũng là những gì họ chờ đợi.
???? Niềm tin này nghe hư ảo không rõ ràng nhưng lại rất kiên định
Khiến cho người bị duyên âm theo đuổi không có hứng thú tìm hiểu hay mở rộng mối quan hệ yêu đương với ai.
 
9. May Mắn Dự Cảm Và Những Điềm Báo
 
Bạn như có một giác quan thứ 6 nhiều khi mơ hồ được báo trước những việc xảy ra
Hay gặp may bất chợt hay dự cảm được việc tốt việc xấu người này hợp tác sẽ thành công
Hay người kia không đáng tin … Thậm chí có những giấc mơ điềm báo rõ ràng một vấn đề sắp tới
Khiến cho bạn tự cảm nhận được mình có một năng lực tâm linh nào đó phù hộ
???? Đa phần sự phù hộ này là về mặt công việc bạn bè thăng tiến, tiền bạc…. hiếm khi hay không bao giờ là về tình duyên.
 
10. Mệt mỏi cơ thể đau nhức khó chịu mà không khám ra bệnh
Bạn cảm thấy cơ thể càng ngày càng mệt mỏi đôi khi đau nhức một vị trí nào đó trên cơ thể
Thậm chí có cảm giác đêm hôm trước vừa quan hệ với một người lạ mặt nào đó nhưng không thể xác định
Thậm chí có người còn bị ảo giác mình đang mang thai với người kia
Khiến cho tâm trí bạn sợ hãi mất ngủ áp lực… Khi đi khám thì lại không khám ra bệnh tật hay vấn đề gì.
Có nhiều người bị bóng đè
???? Rất có thể bạn đã bị duyên âm đeo bám lâu ngày hút cạn sinh khí sinh ra mệt mỏi.
11. Cảm nhận tâm linh và âm khí
Những người có duyên âm đeo bám lâu ngày sẽ có sự cảm nhận về tâm linh rõ nét hơn người thường
Khi đến nơi âm khí nặng như nghĩa trang, tang ma thì thấy rờn rợn lạnh gáy…
Còn khi đến những nơi linh thiêng như đền phủ ban đầu bạn có thể sẽ có cảm giác rùng mình nhưng ở lại một lúc thì cảm thấy dễ chịu, nhẹ nhàng hơn.
 
12. Luôn Dè Chừng Những Mối Quan Hệ Khác Giới
 
Nếu có ai “lỡ lời” tán mình là nghĩ ngay: Muốn…. (ý đồ đen tối) hay sao?
Nếu ai đó “chẳng may” chạm vào bạn thì cũng ngay lập tức tránh xa thậm chí là có phần gay gắt vì đơn giản bạn ghét sự động chạm khác giới.
Bạn cố tránh xa những mối quan hệ có khả năng dù là 0.01% tiến xa hơn trên mức bạn bè
Hạn chế tối đa đi chơi đêm hay riêng 2 người. Có đi đâu thì cả lũ cả đoàn và lỡ có nghe thấy mấy câu ngọt nhạt thả thính thì cứ bơ đi giả vờ như “điếc bẩm sinh”…
???? Ngoài những lí do tính cách con người lí tưởng cá nhân hay những người bản chất vô duyên vô ý không ai yêu ... thì đa phần những biểu hiện trên là có mặt âm tác động.
Và có ai thấy mình có DẤU HIỆU DUYÊN ÂM ĐEO BÁM không?
 
Những DẤU HIỆU Nói Bạn Là 1 ĐỒNG ÂM
1. Thường có linh cảm hoặc được báo về một sự việc sắp xẩy ra trong thời gian gần thường nó xẩy ra như mình linh cảm thấy.
2. Hay mơ mộng hoặc đôi khi được ứng báo về một hay nhiều sự việc tương lai (tương lai dài – có thể nhiều năm sau) của một hoặc nhiều người thậm chí một một cộng đồng (khả năng tiên tri).
3. Hay thơ thẩn vẩn vơ thỉnh thoảng vô định trống rỗng, hoặc quấn tâm vào một thế giới huyền ảo cõi nào đó.
4. Tin vào ma tà tin vào nhân quả, nhưng nghi ngờ đủ thứ kể cả Nhà Thánh.
5. Ốm đau vặt vãnh không tên liên tục. Đi khám lại không ra bệnh thậm chí khỏe mạnh hơn người. Nhưng về nhà lại mệt mỏi, người yếu ớt như không có sức sống.
6. Dễ bị ốp nhập bị âm khí tác động nặng nề (Mệt mỏi,Mất kiểm soát,Lạnh Người,Run rẩy)
7. Có người có khả năng giao tiếp với đằng âm (nghe/nhìn thấy người âm)
Hoặc có thể đọc được suy nghĩ của người khác (Cả âm và dương)
8. Người hay bị tự dưng mệt mỏi vô cớ như sắp hết sức (bị rút hết sinh lực) hoặc tâm trạng bất an nóng nảy bồn chồn khó kiểm soát
Chỉ thời gian ngắn sau có thể trở lại bình thường như chưa có gì xảy ra.
9. Tính khí nóng lạnh bất thường, đa sầu, đa cảm, hay cả nghĩ, dễ giận, dễ hờn, dễ tủi nhưng lại dễ thỏa hiệp và bỏ qua.
10. Có những trường hợp cứ 14,15, 30, mùng 1, hoặc những ngày tiệc Thánh (dù không hề biết hoặc không nhớ) là trở nên ẩm ương, cáu gắt khó chịu, ăn uống, ngủ nghỉ không được... Qua những ngày đó hoặc đã được đi lễ Thánh tự khắc trở nên vui vẻ, yêu đời.
11. Khi trái gió trở trời người như cây dự báo thời tiết chuẩn, đặc biệt những thời điểm năng lượng từ trường mạnh như nhật thực, nguyệt thực…cơ thể có sự cảm nhận rõ rệt.
12. Nhận biết người đối diện là kẻ thiện lành hay người xảo trá ác tâm rất nhanh.
13. Ai đó đang kém may giao du với bạn dễ đổi vận được may mắn. Nhưng khi bạn trù ẻo ai thì họ khó có thể ngóc đầu lên được.
14. Đem lại điều may mắn cho người khác khi làm đúng đạo nhưng nếu mượn đạo tạo đời thì sẽ là tai họa cho nhiều người.
15. Là người rất có phúc nhưng gặp phải rất nhiều thị phi, oan trái khi ban phúc cho người khác.
16. Là người tốt vía, mua đâu đắt đó nhưng nếu ghét ai mở mồm chê bai thì người đó sẽ phải vía.
Ví dụ như khi đi chợ, một hàng quán đang ế, bạn vừa sà vào có ý định mua gì đó thì rất nhiều khách khác ùa tới, nhưng nếu không vừa ý và không mua do chủ cửa hàng thái độ là y như rằng hàng đó ế ẩm ngay kể cả khi họ đang đông khách.
(Vậy nên các cửa hàng bán cho cô cậu đồng chú ý đừng kênh kiệu, hãy cố chiều bọn ẩm ương dở một chút, không vía họ lành thì may chứ nhưng khi dữ thì hơn ma).
17. Ngược lại, hãn hữu một số đồng âm có thể rất dữ vía. Đó là trường hợp đồng âm có binh hoặc gia nô binh chưa được chấn chỉnh đội ngũ hoặc vong tà bám tá đi theo quá nhiều. Đi đến đâu, làm ở đâu là chỗ đó rất khó bán hàng, có khi bình thường bán hàng đông không kịp bán, nhưng cứ ca kíp của người này là không có ai mua hoặc rất kén chọn, hoặc làm ở đâu được vài tháng là nơi đó phá sản, giải thể... Dù là tự kinh doanh cũng không ngoại lệ.
18. Lúc khó khăn luôn có lối thoát
Ai cũng có thể gặp khó khăn trong cuộc sống. Nhưng riêng bạn bạn thường tìm được lối thoát nhanh chóng cũng như xuất hiện tình huống thuận lợi bất ngờ hoặc có người tự dưng hỗ trợ (quý nhân phù trợ)
Bởi rằng có bà cô tổ hoặc các vị hộ đạo nâng đỡ (trừ khi bị nhà Thánh thải đồng).
19. Tai qua nạn khỏi trong những tình huống hiểm nghèo
Nhiều lúc nhẽ ra bạn sẽ bị một hạn nặng nào đó có thể nhìn thấy
Nhưng không hiểu vì sao những người khác bị còn bạn thì không.
Ví dụ như trong một vụ tai nạn tập thể nhiều người bị thương hoặc mất mạng, nhưng bạn không hề hấn gì dù đi trên cùng chuyến xe.
20. Khi có dịch bệnh gần như ai cũng mắc và thường chuyển nặng
Bạn lại không bị hoặc có bị cũng khỏi rất nhanh hơn người bình thường, thậm chí bị 2-3 lần cũng không hề hấn gì.
21. Làm gì về việc dương cũng khó thành công khi chưa yên căn số và chưa phụng Thánh làm việc âm
Nhưng khi đã làm việc âm và nhất tâm đúng đạo thì bạn kinh doanh làm việc công sở hay làm bất cứ điều gì, đều tốt hơn những người khác.
Ví dụ: ở cùng dãy phố kinh doanh một mặt hàng bạn luôn đắt khách hơn cả
Trong khi cả dãy phố kinh doanh đang ế ẩm, bạn vẫn bán hàng đều đều.
Cùng buôn bán một sản phẩm, bạn bán đắt hơn người khác nhiều lần nhưng khách hàng vẫn mua của bạn.
22. Có nhiều bạn bè quý mến, nhưng hay bị bạn phản dù thân tình với nhau
23. Có được người vợ hay chồng lý tưởng nếu trọn đạo, nhưng chỉ chếch lệch là tan vỡ
Sau phút mốt và phần long đong về tình cảm cô độc không ai hiểu mình chiếm rất lớn.
24. Một người có phúc nhờ tích đức sẽ là người gặp được ý trung nhân hết lòng vì họ.
25. Đồng âm thường có ngoại hình dễ nhìn hoặc gây thiện cảm.
Người là đồng âm và có phúc thường được ban cho ngoại hình đẹp đẽ hơn người
Đặc biệt họ có đôi mắt sáng và rất linh hoạt
Khiến người đối diện càng tiếp xúc lâu càng quý mến, trân trọng; còn những kẻ lòng dạ xấu xa hoặc tà ám thì không dám nhìn thẳng.
26 thỉnh thoảng mơ độ vong hoặc được dậy học âm hoặc dạo chơi đền chùa
Chiếm 70 % các yếu tố trên là Đồng Âm.Bạn thấy mình đúng bao nhiêu % ?
 
Con Đồng – Con Thánh?
Con đồng (Đã ra trình đồng) chưa chắc đã là con Nhà Thánh
 
Bởi rằng:
- Nói lời Thánh đức phán truyền giống Thánh, hầu hạ giống Thánh…Nhưng sống ngoài đời lòng dạ hẹp hòi, nhỏ nhen, xét nét nhân gian.., không có tình yêu thương con người, yêu thương muôn loài, không có trách nhiệm với chính mình, xã hội, cộng đồng…
Không phải con Nhà Thánh.
- Ngồi ở đền hầu hạ mặc áo công đồng làm thầy làm bà, khi bắc ghế hầu Thánh chỉ biết diễn như diễn viên, như bán nghệ trên sân khấu phục vụ cho “khán giả” reo hò, cổ vũ, hòng tạo hiệu ứng đám đông, xây nên cái danh nhà đồng, mạo nhận cái danh đại diện Thánh môn...
Không phải con Nhà Thánh.
- Ngồi giữa chợ mà hỷ xả yêu giống thương nòi, sống một đời sống bình dân có lý có nghĩa, không chắc làm ông nọ bà kia nhưng bụng dạ bao dung thiên hạ, vị thiên hạ, vị nhân sinh, vị Thánh môn, vị đồng đạo…
Chính là con Nhà Thánh.
- Thị phi chẳng tham gia; không đặt điều dựng chuyện; không đúng lại nói sai không lại nói có, chân tâm thật tính, không a dua bầy đàn.
Đó là con nhà Thánh.
- Hầu to đàn lớn chỉ vì 2 chữ tố hảo mà bất chấp tất, chăm hầu người trần, không trọng sự oai linh và phép tắc.
Chưa phải con nhà Thánh.
- Đồng nghèo bát nước cơi trầu, khăn áo đồ tế có đâu dùng đó (cũng tùy gia phong kiệm)…
Chưa chắc đã không phải con nhà Thánh.
(Chớ nhầm lẫn với những kẻ dãi đãi lấy tiếng đơn giản, giả nghèo giả khó mà xem nhẹ thậm chí bỏ qua lễ nghi, đó là giả tín giả nhất tâm, sẽ tự chiêu oan gia ma tà quấn thân tâm).
Dù giàu dù nghèo “Lễ” phải có “Nghĩa” mới nên “Lễ”.
- Sợ nghiệp, sợ ma tà, sợ... đủ thứ, trốn tránh công việc, trốn tu tập, “ngại” hành đạo… rồi cầu giầu, cầu có, cầu hơn người, cầu thành đạt, cầu danh… mới lễ lạt hầu hạ.
Nếu thành quen thì chưa phải con nhà Thánh.
- Có cái nhìn đa chiều, trí tuệ về quan điểm học đạo, tìm đạo, luôn tu tập hoàn thiện chính mình, có đức, có chân, có thiện, có mỹ, có nhân… quyết tâm học theo Thánh, sửa mình nhất tín...
Mới là con nhà Thánh.
- Việc xấu hại người, ảnh hưởng đến người, đến cộng đồng dù nhỏ cũng không làm; việc tốt giúp cho mình, cho người, cho bách gia dù rất nhỏ cũng không bỏ qua.
Chính là con Thánh.
- Làm chút việc tốt, giúp được người một chút
Khoe công khoe trạng, cái thói công thì một chút đã đòi tạc bia...
Hoặc hầu hạ mà không biết: hầu làm gì? tại sao phải hầu? Đang hầu ai? Nguyên tắc hầu hạ như thế nào?… hoặc chỉ mong hưởng quả, hưởng phúc, hưởng giầu sang phú quý địa vị... cho mình, cho gia đình...
Không phải con Nhà Thánh.
- Làm việc tốt cho người, giúp đỡ bách gia, lấy danh cho Thánh lấy diện cho đồng, “trên lo việc Thánh dưới gánh việc trần” mà việc trần ở đây là việc quốc gia, việc xã hội, việc cộng đồng… chứ không phải nói việc trần là chỉ nghĩ đến việc gia chung. Chớ ích kỷ chăm chăm việc bản thân mà quên rằng: mình cần làm việc tốt vì nước vì dân vì ...
Phải hiểu và phải coi “gánh việc trần” là nghĩa vụ phải làm thì mới là con nhà Thánh.
- Thấy người nghèo cơ cực, người có đồng cơ hành khó khăn… không khinh thường, thấy người giàu sang, có danh có tiếng... không a dua xu nịnh, sống chân thành, chân thật, chân tâm…
Mới là con nhà Thánh.
- Nếu là con đồng nhà Thánh, hãy nhớ:
• Thấy bản thân mình phúc mỏng nghiệp dày cơ hành... đủ kiểu cũng không quá buồn, luôn phấn đấu tu tập vượt qua.
• Thấy người ác phải trả nghiệp, con cháu họ bị trả nghiệp, bị quả báo cũng không lấy đó làm vui. Hãy xét về chân lý mà quan sát và chiêm nghiệm, chớ cảm tính.
• Nếu thốt ra lời cảm tính một cách cay nghiệt, oán trách, lăng mạ, bình phẩm xấu ... có thể làm ảnh hưởng người tốt, hãy chọn im lặng.
• Nếu lời nói, hành động... làm cho người tốt lên, cộng đồng tốt lên, tương lai của họ, của cộng đồng cải biến tốt đẹp, thì phải nói mà còn nói to và dài, phải làm dù khó khăn chướng ngại thậm chí đơn độc. Chớ im ỉm, sợ hãi, chớ phớt lờ để cái xấu lên ngôi, xã hội mục nát.
• Nếu phải lưu giữ, lấy hay nhận, hoặc bằng mọi thủ đoạn chiếm đoạt... một thứ gì đó theo ý mình mà làm ảnh hưởng, làm hai, phiền luỵ người khác, hay cộng đồng, hãy dừng lại.
• Không tự hào cũng đừng quá đau buồn nuối tiếc quá khứ, không sống về những thứ đã qua, vì ngày hôm qua sẽ không lập lại chứ đừng nói quá khứ.
• Dù ngoài xã hội ta là ai, chức vụ gì, địa vị ra sao, giàu nghèo thế nào…
Hãy cứ sống sống vì tương lai, sống vì người vì mình, vì xã hội, vì cộng đồng...
Sống có ích Có ý nghĩa
 
IDOL ĐỒNG NÁT Thời 5.0
Hôm trước xuống đền Quan lễ Thánh gặp canh hầu của một cô đồng mà về cả đêm không ngủ được.
Cung văn thì nguyên một dàn từ trống điện tử, ghi ta điện, organ,.... đủ cả
Người phục vụ rồi khói mây phun mù mịt rồi trang trí bầy biện ánh sáng âm thanh cứ như sân khấu, lại thêm 3 cái máy tính 3 chuyên gia ngồi xử lý cắt ghép hình ảnh livestream trực tiếp... rồi có đến gần chục người nào quay phim chụp ảnh flycam ... thiết bị quay chuyên dụng bay vù vù trên đầu tượng Thánh... mấy cái.
Thằng thì kê ghế đứng quay video chổng cả đít vào trong ban, đứa hầu thì vái Thánh thì không vái mà vái thằng quay video với lễ ống kính livestream.
Cả công đồng không còn một khe hở chỗ trống để mình đứng lễ Thánh.
Nản quá thôi thì ra ngoài lầu cô lầu cậu vái lễ xong rồi về.
Trằn trọc cả đêm không ngủ được, vì nhìn cái cô đồng đó hầu như diễn trên sập với mớ chầu văn tân thời, ầm ỹ, không biết Thánh đạo Việt rồi sẽ về đâu.
Biết rằng rồi bọn họ đến ngày mà thấy được mình ngu si khi đã làm loạn trong đền thần vì đú đởn sẽ là ngày tiếc nuối quá khứ. Tại sao thời đó mình làm vậy.
Và cũng biết rằng khối kẻ ra đồng rồi khi sa cơ mạt vận vẫn không nhận thức được cái sai và tại sao mình sa cơ mạt vận, lại luôn đổ cho căn quả với nhà Thánh.
Đâu đó còn nhiều người đã khổ vẫn luôn mồm khoe khoang ngu sy tự hào quá khứ .... kiểu nói như bây giờ, bọn họ hay khoe tao cũng từng đồng bóng lẫy lừng ... hầu ở abc.,,, canh đàn triệu,,.. triệu, trăm triệu tỷ mời cả thằng abc về hát văn
Có lúc giá Hoàng Mười nó hát tao ngồi nghe say văn hơn 1 tiếng không muốn xa giá.....!
Và có rất nhiều người đến bây giờ họ còn không chắc có căn quả với nhà Thánh không và là ghế của vị Thánh nào, vị nào bảo trợ, vị nào cai đồng, vị nào thủ mệnh. Mặc dù đã hầu được mấy năm.
Và cũng rất nhiều và nhiều luôn đặt câu hỏi trong lòng ko dám nói với ai mình có căn đồng thật không? Hoặc mình đã phải lên ra trình chưa? Sao mình lại nghe lời thầy để ra đồng, sao đợt đấy mình cũng đú đởn theo phong trào mà ra đồng? Sao mình lại hầu hạ như thế?...
Thuốc hối hận thường bán trước nhưng không ai mua.
Trên cái thế gian này.
Ai cũng muốn an yên giàu có và hạnh phúc.
Nhưng lắm kẻ an yên chưa đủ, họ còn muốn thật hơn người, muốn thật giầu có và phải có danh có tiếng hơn người, thậm chí muốn làm thầy bà ăn trên ngồi chốc. Và giờ ra đồng là cái mốt cũng muốn theo mốt đú trend và nổi tiếng như các idol đồng bóng trên tiktok, trên mạng xã hội rồi cũng có kẻ cũng muốn tìm một con đường tắt để thoả mãn cái .... tôi.
Tâm linh chứ không phải mốt và đú trend.
Tâm linh cũng không phải trò đùa.
Bây giờ trên mạng xã hội mở máy ra nhan nhản các video: cái gì mà cô đồng hầu đẹp nhất vịnh bắc bộ, sang nhất, tố hảo nhất nước, ứng bóng ... đẹp, sang, ..... toàn từ ngữ diễn khoe mẽ là chính.
Các cụ bảo hiển bóng linh đồng chứ cứ đẹp và sang chảnh thì giải quyết làm sao được vấn đề về tâm linh.
Thế ra đồng cần an căn an số, an sổ thiên đình hay cần cái khác.
Linh thiêng cũng có cái đẹp nhưng đẹp không thể thay thế linh thiêng.
Đặc biệt nhan nhản video trên mạng xã hội: khoe hầu giá quan về khóc như mưa, tố hảo nhất sang nhất toàn tung tờ 500k... Xin thưa Thánh không lụy phàm chỉ có phàm cậy Thánh lụy Thánh.
Quan nào cần chúng mày ngồi đó để quan ốp bóng khóc như đứa trẻ ranh rồi khóc như mưa? Thánh nào cần chúng mày bỏ tiền ra ném tờ 500k như bươm bướm trong điện thần thì thiên hạ mới thấy nhà Thánh linh thiêng?
Hầu hạ Thánh xưa nay làm gì có chuyện như phường trèo?
Đức Ông nào vẽ mặt xanh đen môi son mỏ đỏ?
Nhà Trần giáng bóng bao giờ mà nhan nhản trên facebook ... ứng bóng đức ông Trần triều? Nên nhớ Nhà Trần chỉ thượng đồng nhé không giáng bóng.
Kể cả là hội đồng thượng từ loan giá cũng chỉ thượng đồng thôi chứ không giáng bóng.
Xiên lình lấy dấu để làm phép, chứ không phải để quay VIDEO khoe khoang trên facebook ,tiktok cho vui.
Nhạc hầu cung văn thì ba lăng nhăng như trên sàn...
Lên sập hầu cứ diễn như trên sân khấu, tự ám thị xong tự huyễn hoặc là nhà Thánh ốp bóng. Hưng phấn thăng hoa khi bị tự ám thị và nhà Thánh ốp bóng là 2 chuyện khác nhau.
Chính người hầu còn không phân biệt được, đâu là do ngoại cảnh kích động để hưng phấn, đâu là nhà Thánh giáng bóng thì cũng chỉ là đồng non, căn cơ thấp kém hoặc không căn quả.
Ngoài đời trên sàn diễn của nghệ sỹ hay trên xập hầu con đồng tâm linh đều cần sự hưng phấn và thăng hoa.
Biết là nhạc tân thời nhạc sàn hay nhạc quẩy dễ làm người ta lạc mình và hưng phấn thăng hoa, nhưng ko có nghĩa là ba cái nhạc đó lời văn đó có thể thay cho chất Tâm linh để khai mở Âm dương để nâng bóng Thánh khi nhà Thánh ốp bóng đóng đồng.
Loạn quá rồi sẽ rất nhiều người khổ vì ra đồng và sẽ rất nhiều cái oán cả Thánh lẫn các đồng thầy thời @ này.
Xin thưa rằng không có con đường tắt nào cả!
Dù có căn sâu quả nặng phải ra đồng
Tất cả phải trãi qua quá trình tôi rèn luyện hầu hạ chuẩn chỉ về tâm linh, phải theo khuôn phép và truyền thống.
Căn nông/không có căn vì đú trend thích ra đồng, phá đạo.
Đừng mơ tìm được thứ giá trị mà không nằm trong số phận của mình mà không phải trả giá đắt !
Kể cả căn sâu quả nặng mà đi ngược lại truyền thống tâm linh cửa Đình Thần cũng sẽ gặp hậu quả còn hơn cả kẻ không có căn.
Làm người thường không muốn cứ muốn làm Ông bà đồng.
Làm người đã khó, làm đồng còn khó hơn nhiều.
Chưa nói bây giờ 1 cơ số kẻ vừa hầu vừa ngóng màn hình điện thoại hay máy quay, có đứa còn trả lời livestream trực tiếp khi đang hầu.
Rất nhiều cung văn hầu dâng, người dự nói chuyện cười đùa to át cả tiếng ghế hầu… như cái chợ, không còn cảnh kính Thánh trọng đồng. Cứ tưởng thế là hay.
Đừng vì vài tấm ảnh, vài cái video đăng lên mạng mà ham có căn, mà trèo ra trình đồng hầu hạ. Không có rồi khổ không kêu được ai và cũng đừng oán trách ai.
Cũng đừng vì vài đồng bạc lẻ mà hát hò lai căng pha tạp, chế văn, chế nhạc phá đạo. Sau này gia đình tan nát khổ đau cũng đừng trách ai, mà khối kẻ nhãn tiền rồi chứ chả phải đợi đến sau này
 
LUẬN XIN LỘC TÀI
VÀ XIN LỘC PHÙ VÂN
 
Cái thời kinh tế địa vị là chủ đạo và là thước đo
Của con người này thì yếu tố tiền bạc lộc lá trở thành mong cầu chủ đạo.
Ở đời không ai có thể phủ nhận:
người không tài không sắc không đảm nhưng lại cực may mắn và giầu có.
Có người học giỏi tài có đảm có ... nhưng lại nghèo khó là thường tình.
Đời mới bây giờ thì tiền bạc địa vị ... che lấp hầu hết tất cả các giá trị của Đạo Mẫu.
99% con đồng hay thập phương tín thí bây giờ từ lễ bái cho đến hầu hạ đều mong cầu ở Nhà Thánh địa vị và lộc lá “đắc tài đắc lộc”.Nhiều người chỉ vì sợ nọ sợ kia mà lễ bái, thậm chí ra đồng, hầu hạ liên miên cũng không hiếm.
Rất ít người vì cái khác mới hầu hạ và lễ bái Nhà Thánh.
Ừ thì ra đồng ai cũng là con cha con mẹ.
Ừ thì đã là con nhà Thánh, ừ thì con có đói thì phải khóc
Mà khóc thì cha mẹ mới thương cho ăn cho bú.
Không khóc ai biết mình sao?
Nhưng có quá nhiều người nhìn lên cao
Thì không sướng và tiền tài không bằng người ta
Nhưng nhìn xuống thì mình còn đang là kẻ thừa ăn đâu có đói mà khóc?
Các bạn nghĩ xem tôi nói đời thực thôi:
Nếu bạn có vài đứa con trong đó có đứa vừa gặp mặt cha mẹ là khóc toáng lên, kêu nghèo kêu đói và đòi xin nọ xin kia.Ngày nào gặp nó cũng như vậy thấy mặt
Là ôn nghèo kể khổ và xin xỏ... thì xin lỗi chỉ có nước tránh mặt mà trốn, không dám gặp.
Đôi khi trong mấy đứa con có đứa không bao giờ xin xỏ dù khó khăn lại thương mà cho.
Bây giờ:
Ngày nào tháng nào khi vào đền phủ cũng một điệp khúc xin xỏ xin phù hộ cho con được cái nọ được cái kia…Cứ lúc nào vác mặt vào đền là y như rằng vẫn một loại sớ xin nào lộc, nào tài, nào danh, nào… đủ thứ.
12 tháng thì cả 12 tháng đến đền là kêu và xin...
Nguyên cứ thấy mặt là cầu cái nọ cái kia hết ngày này tháng khác vẫn thế, nhà Thánh chỉ cần nhìn thấy vào đền là biết chuẩn bị nghe nó kêu xin, có người còn ôm sập công đồng hàng vài tiếng kể lể xin xỏ.
Chưa bao giờ thấy gia tâm khấn vái với tấm lòng kính Phật Thánh ngoài việc xin xỏ.
Bản chất việc xin lộc tài công danh địa vị... của mọi người là tốt, là đúng.
Nhưng vào lúc nào vào thời điểm nào thì phải cân nhắc kỹ. Chứ không phải ngày nào cũng xin.
Chỉ nên cầu xin một vấn đề gì hay xin lộc Thánh khi:
- Có việc đại sự chuẩn bị làm
- Hoặc phải lúc bần cùng bất đắc dĩ
Chứ không phải lúc nào cũng một điệp khúc xin… xin…xin… diễn ra thường xuyên mỗi khi đi lễ tại đền phủ.
Thực ra:
Việc cầu xin Thánh che chở, xin lộc Thánh…, trước tiên giúp cho chúng ta xóa bỏ được nhiều nỗi lo âu, giảm đi những phiền muộn… về những công việc dự định tương lai (đôi khi xoa dịu cả quá khứ và hiện tại).
Đồng thời xin lộc cũng giúp mọi người thêm vững tâm khi tiến hành mọi việc. Nhiều việc được thuận lợi, hanh thông hoặc thoát khỏi tai họa, tai nạn, bần hàn, đói rét... đã đến và đang diễn ra khiến ta mệt mỏi phiền muộn. Thậm chí thoát khỏi vận hạn, tai họa, tai nạn chuẩn bị xẩy ra.
Khi cầu xin một vấn đề gì đó hoặc xin lộc Nhà Thánh các bạn nên tĩnh tâm để trong mình được thanh tịnh, đồng thời gột rửa chân tay, trang phục và thật thành tâm thì mới linh.
Nên nhớ: Lễ vật tố hảo không bằng cái tâm tố hảo.
Còn về: LỘC PHÙ VÂN
Cái gọi là lộc PHÙ VÂN mà gần đây hiểu nhầm thành lộc lô đề cờ bạc thì tôi nói thật là sai lầm hoàn toàn.
Như trên tôi đã nói:
Ở đời không ai có thể phủ nhận việc có người không tài, không sắc, không đảm… nhưng lại cực may mắn và giầu có.
Cũng có người học giỏi tài có đảm có... nhưng lại nghèo khó là thường tình.
Một người tài có hạn, cuộc sống kinh tế cũng có hạn… ví như mình chỉ đi làm công ăn lương hay buôn bán thông thường, thu nhập tháng nào cũng như vậy không có gì đột xuất làm mình khá lên, đều đều chỉ đủ ăn không có phương kế nào mà cải thiện tài chính,...
Hoặc ta có một công việc sản xuất kinh doanh cố định thu nhập đều đều không có thể làm gì để tăng thu nhập hay lộc tiền nào khác.
Nên người ta đi xin “lộc phù vân” của Nhà Thánh.
Việc này bắt nguồn từ lệ:
- Trước kia buôn bán thường là xuôi ngược trông chờ cả vào thiên nhiên.
Nếu lũ lụt mưa bão là đồ lâm thổ sản khó vận chuyển nên người ta hay phải nghỉ lại dọc đường tránh bão (nơi nghỉ lại thường hay cạnh các Đền Miếu), họ thường hay cầu xin được Thánh Thần che chở thuận buồm xuôi gió.
- Cũng có nhiều người do lũ lụt không vận chuyển được làm hỏng nông thổ sản hoa quả lỗ mất vốn liếng nên thường thửa lễ lên cửa Thánh Thần xin chút lộc phù vân.
“Lộc phù vân” ở đây có nghĩa là lộc ở trên trời rơi xuống.
- Lại nói: Người dân tộc xưa kia hay trao đổi hàng hóa lấy vật dụng nông thổ sản ...với người xuôi. Nhưng mỗi phiên chợ thường xuyên diễn ra bình thường không nổi trội, vẫn chỉ là kiếm ăn bình thường như bao phiên chợ khác.
Nếu hôm nào có quan tù trưởng hay trưởng bản... mà ra đặt hàng trao đổi thì gần như kiếm bằng cả năm đi buôn. Họ hẹn trước đặt hàng trao đổi.
Họ không phải là những người trao đổi những mặt hàng nông sản thông thường. Họ có những cái miền xuôi khan hiếm không có như da xương... hổ báo thú rừng, vải thổ cẩm, vải sồi, bạc trắng, đồng mỏ, thiếc, sắt, thuốc bắc lâu năm ...
Họ đổi muối, rượu mạnh, con giống, đồ gốm sứ, trang sức, giấy mực, vải tơ, lĩnh tía, gấm, lụa…, đồ công cụ sản xuất nông sản…
Một năm đôi khi họ đổi một đến hai lần tùy nhu cầu mà chợ thì nhiều người buôn, quả lộc to từ trên trời rơi xuống này thì chỉ một người nhận được.
Hoặc thỉnh thoảng có người dân tộc nào có món đồ đặc biệt... có giá trị mang ra đổi mà mình mua được kiếm được chút tiền to...
Nên người ta mới gọi là “lộc phù vân”.
(Phù là lửa phập phù, vân là đám mây bay nhìn thấy mà cầm không được).
Nói chung là lộc trên trời rơi xuống, không thường xuyên.
Lộc này ví như một người không phải là người môi giới nhà đất chuyên nghiệp như là thợ xây hay cai thầu... đang ngồi chơi có anh bạn kể chuyện muốn bán cái nhà... vài hôm sau lại gặp cô hàng xóm kể muốn tậu nhà cho con. Thế là anh giới thiệu hai bên mua bán xong xuôi... anh được tiền môi giới một mớ to.
Hoặc như cách đây nhiều năm trên Sơn La có anh kia đi buôn đỗ tương, đi mua nhà sàn cũ về dựng làm nhà vườn chơi trong khu vườn ở quê. Vào bản mua thế nào khi mang cái khung cũ về đến nhà dựng có ông bạn sang chơi phát hiện cột kèo mái toàn bằng gỗ pơ mu thế là đem bán. Cả anh đi mua lẫn anh phát hiện kiếm bội tiền...
Rất nhiều kiểu trúng mánh bất ngờ...
Đó là “lộc phù vân”, lộc tự nhiên trên trời rơi xuống.
Rất nhiều người không chuyên nghiệp lại chúng mánh ở các thể loại khác nhau và kiếm rất nhiều tiền... !
Đó, ý nghĩa và xuất phát của xin “lộc phù vân” cửa Thánh là từ những người buôn bán khi đó.
Bây giờ biến tướng thành: XIN lô đề cờ bạc.
Thật không hiểu nổi lòng mong cầu quá đà dẫn đến biến tướng.
- Một đằng họ bất ngờ có lộc từ trên trời rơi xuống theo kiểu: Mua bán không bao giờ thua lỗ và kiếm nhiều tiền. (Có lao động, có nỗ lực, có cả sự nhanh nhạy nắm bắt thời cơ…, cầu xin sự gia hộ để nỗ lực có kết quả, buôn may bán đắt…)
- Một đằng rõ ràng bỏ tiền đỏ đen: trúng lô ăn đề thì có tiền, không ăn thì mất tiền thậm chí bán cả nhà cửa…
Vậy mà còn gọi là lộc Thánh???
Ông Thánh mà cho lộc đến nỗi không biết bao nhiêu người đi xin xong về bán cả nhà à?
Rồi đi lễ, rồi hầu xong mà trúng quả đậm thì vái Thánh, lễ Thánh tiếp, hầu tiếp và có khi còn liên tục. Chứ mà không trúng hay mất tiền là nhẹ thì lại than thân trách phận, lại đổ căn số hẩm hiu, lại xin…cầu… và tệ hơn có khi còn quay ngoắt 180 độ “chê” Thánh không thiêng.
Lễ Thánh & Hầu Thánh xin lô đề cờ bạc là vấn nạn đáng lên án, giờ lại trở thành mốt. Từ bách gia đến thậm chí cả con đồng lắm người chăm chăm lên xin lộc Thánh ban trong canh hầu một cái là vội vàng soi số, luận số để coi hôm nay đánh con gì? Rồi “truyền tin” đến cả họ hàng, bạn bè để “chốt sổ”…. Còn quan tâm ghế hầu thế nào? Còn kính Thánh trọng đồng nữa đâu?
Vậy lấy đâu ra thành tín? Làm sao mà tu tập?
Cái tâm thành kính chẳng trọn vẹn, cái quan điểm “lộc phù vân” lệch lạc khiến người ta mờ mắt.
Tái bút: Nhắc nhở đệ tử con nhang
Một đời người các con đã lên sập hầu Thánh hay đi lễ Thánh đều phải thành tâm.
Có cầu hãy cầu cho gia trung hạnh phúc và bố mẹ cùng con cái mạnh khỏe bình an.
Chuyện vạn bất đắc dĩ hãy xin xỏ cầu nhà Thánh.
Hãy cố gắng tự lực và hạn chế không nên suốt ngày, đi đâu cũng xin xỏ mong cầu.
Vì cơ hội Thánh gia ân không nhiều. Một năm chỉ nên xin một lần đến hai lần thôi.
Nghiêm cấm xin lộc cờ bạc lô đề cửa Thánh
 
CỪU ĐEN – CỪU ĐỎ
Cừu đen là những con cừu được sinh ra với bộ lông màu đen, trái ngược hoàn toàn với những con cừu có màu trắng mà chúng ta vẫn thường thấy, do màu lông của chúng bị chi phối bởi gen lặn.
Những con cừu đen này thường vô cùng nổi bật trong bầy, và vào thời xa xưa, chúng thường bị bán cho các lò mổ để làm thịt.
Trong tiếng Anh, từ "cừu đen" (black sheep) còn dùng để ám chỉ một thành viên nào đó trong gia đình, trong công ty, trong đội bóng... có tính cách khác biệt, nếu không muốn nói là dị biệt,
Những con "cừu đen" này thường là thành viên nổi loạn, tai tiếng, ương ngạnh, bốc đồng, rất khó kiểm soát. Những hành động, quyết định, tính cách hay tư tưởng của họ đi ngược lại tập thể.
Những con "cừu đen" này thường bị xem là của nợ, bị xa lánh, coi thường, ghét bỏ hắt hủi, bị đối xử bất công… dù đôi khi họ sở hữu cá tính và tài năng hơn người.
Trong mỗi gia đình hoặc dòng họ… thường có một đứa...cá biệt.Dân gian còn gọi là "cừu đen"
Bao nhiêu thứ xui xẻo xấu xa đều dồn hết vào đứa con này.Hầu hết các gia đình coi "cừu đen" là của nợ mà ông Trời bắt mọi người trong nhà phải chịu đựng...hoặc đôi khi người ta coi “cừu đen” là đang gánh nợ cho gia đình dòng họ
Và thật kỳ lạ nhiều cô đồng cậu đồng đang tự ví mình là con “cừu đen” của gia đình dòng họ.
Tức là họ cho rằng những chướng ngại trong gia đình mình gặp phải khi tu đạo, sự kỳ thị, sự bất công thậm chí hắt hủi, không ủng hộ, ghét bỏ...với sự dị biệt, sự khác người, khác thường là vì họ đang gánh nghiệp cho gia đình, dòng họ.
Và chẳng hiếm gặp trường hợp những cô cậu đồng tu tập rất cố gắng, hành đạo giúp bách gia chẳng nề hà, lại lo lắng hương khói gia tiên, mồ mả gia đình dòng họ tận tụy, chu đáo. Nhưng…. Nghèo vẫn hoàn nghèo, khổ thì không kể xiết…
Trong khi đó, chẳng nói đâu xa trong chính gia đình dòng họ đó có những người tâm chả bao giờ tín hoặc chỉ chớt chơ, bát nước cơi trầu có khi còn chả có, có những người chẳng bao giờ mảy may suy nghĩ hay lo toan việc hương khói, cúng lễ gia tiên tiền tổ, hay lo toan sự mồ mả đất cát gia tiên, đừng nói đến những việc tâm linh như cúng phả độ gia tiên, biếu cúng đồ mã…, chăm lo nhà thờ tổ…
Ấy thế mà những người đó lại giàu có khi rất giàu rất có địa vị, rất được trọng vọng trong họ hàng lẫn ngoài xã hội…
Khiến các cô cậu đồng dù rất nhất tâm cửa Thánh, nỗ lực tu đạo… đôi khi không khỏi chạnh lòng, buồn buồn tủi tủi. Nhưng chẳng dám than thở, chẳng dám trách ai… Chỉ tự an ủi rằng: Mình là con “cừu đen” mình đang “gánh nghiệp” cho bản thân gia đình dòng dọ. Thôi thì phải chịu.
Một số khác thì lại có suy nghĩ: “Có được thì có mất. Tôi nhận khó khăn về mình thì ai đó sẽ có sự thuận lợi. Tôi gặp xui xẻo cũng có nghĩa là tôi đã dành lại sự may mắn cho người khác.”
Lại có những người tự an ủi mình bằng cách hy vọng rằng:
“Trong gia đình hay dòng họ, nếu có những cừu đen, cho dù xấu tính xấu nết hay điên điên khùng khùng, thì cũng đừng bao giờ quay lưng với họ, vì biết đâu họ đang gánh nghiệp cho tất cả”.
Hỡi các cô cậu đồng, những suy nghĩ này thực sự không đúng. Đừng có nghĩ vậy nữa.
Tại sao vậy?
- Thứ nhất:
Chúng ta đầu thai làm con của bố mẹ mình, con cháu của dòng họ mình là nhân duyên, phải bắt nguồn từ mối liên hệ nghiệp quả và phúc phần của chính bản thân ta và cha mẹ, gia đình, dòng họ. Sau khi đầu thai sẽ hình thành nên sự cộng nghiệp và cả cộng phúc vô cùng khăng khít.
Nghiệp ta mang theo từ tiền kiếp, nghiệp ta tạo hiện kiếp, nghiệp của gia đình, nghiệp gia tiên nhiều đời. Lúc này khó có thể tách biệt rõ ràng.
Nhưng được đầu thai, được bước qua cánh cửa luân hồi để trở về, để được hữu duyên biết đến cửa Thánh, để có đạo và tu tập…đã là một thành công rất lớn rồi.
Biết bao người ngoài kia, dù là tiền kiếp có tu tập, có căn cơ tu đạo… nhưng đến giờ vẫn lăn lộn bôn ba giữa cuộc sống, vẫn chưa tìm được đường về với đạo tu của mình, vẫn chỉ quanh quẩn những tục sự cuộc sống, đến khi chết vẫn chưa tìm được đến chữ đạo chứ đừng nói đến nhập đạo tu tập. Phí hoài một kiếp luân hồi tu đạo.
Bởi thế, mới có trường hợp phải mở phủ âm (những người căn số nhưng cả đời không biết mình có căn, không ra đồng, không tu tập… đến khi thành vong linh muốn về với cửa Thánh mà không về được nữa, lang thang vất vưởng).
Thứ 2:
Ví dụ: Nếu một ngày một cô đồng được thay Thánh làm việc một ngày tại một ngôi đền thì bạn sẽ làm gì? Khi có hàng tá người nghèo, người đau khổ, người oan khuất…và đủ mọi kêu cầu, xin xỏ mọi thứ trên đời. Liệu nghe khoảng 1.000 người cầu xin thì bạn sẽ làm gì? Đồng ý, ban phát, cứu rỗi…hay từ chối?
Sạch sành sanh còn manh áo đỏ.
Đã nhập đạo cửa Đình Thần ta thì hãy nhớ:
Ở đời chưa bao giờ nghèo thì chưa thể cảm nhận nỗi cơ cực của người nghèo, chưa bao giờ tai nạn hay bị phụ bạc bị ruồng rẫy, bị cơ cực, bị hắt hủi, bị mưu hại, bị chiếm đoạt lừa đảo... thì sẽ không đồng cảm với những người bị vào hoàn cảnh đó.
Tu đạo Thánh muốn học gương Thánh đức, muốn hầu cận bên Thánh, mong về với Thánh… thì phải hiểu, phải đồng cảm và biết thương những người cơ khổ, mới biết hướng thiện, hành thiện tránh ác; mới hiểu câu hành đạo đúng pháp cứu độ bách gia là thế nào?
Mới biết vượt qua được sự tham lam, sự tính toán; mới bỏ qua được sự đua ganh danh lợi tầm thường với người đời, mới vượt qua các chướng ngại trên con đường tu đạo.
Bởi rằng, lúc đó chúng ta đã biết sống, biết tu đạo “vị nhân sinh” đúng nghĩa.
Khi “sạch sành sanh” về bên Thánh, cận Thánh… mới thấu rõ nhân sinh, biết thương người, vì người, biết đúng sai phải trái… mà làm việc cho đúng.
- Thứ ba:
Nếu chúng ta là chú “cừu siêu đen” thực sự. Vậy thì có sao???
Ta không thể khẳng định được mình không có nghiệp, cũng không thể nói rằng bao nhiêu kiếp dồn lại mình đầu thai về đây là ít nghiệp hay nhiều nghiệp. Có thể lắm, chúng ta thực sự mang theo rất nhiều nghiệp. Và gia đình, dòng họ, gia tiên chúng ta ngày nay chưa chắc đã nhiều nghiệp, họ cũng đã rất đắn đo. Nhưng cuối cùng vẫn đón chúng ta về, bằng một lí do nào đó, nhân duyên sâu dày nào đó.
Bởi vậy chúng ta là con “cừu đen” của cả gia đình của cả họ… có khi đó còn là nói giảm nói tránh ấy.
Nhưng điều đó giờ cũng chẳng sao. Bởi giờ chúng ta là con đồng Nhà Thánh, chúng ta có đạo Thánh là đạo có thể giúp chúng ta bồi phúc giải nghiệp, trả nợ oan gia trực tiếp nhất. Chúng ta có thể đã sai trong quá khứ, và cả hiện tại cũng có thể… nhưng ta đang nắm trong tay một cứu cánh thần kỳ mà không phải ai cũng có. Đó là chúng ta có căn số (gốc rễ ta có) và đã tìm được về đúng nơi mình cần đến (nhập đạo Thánh và tu tập).
Có gì mà buồn với tủi, mà cam chịu. Phải vui lên mới đúng.
- Thứ tư:
Chớ có suy nghĩ một chiều về những người dù là ngoài xã hội hay trong gia đình dòng họ mình dù không tín tâm hay chưa hiểu về tâm linh, thậm chí sơ mơ chớt mớt với mồ mả, gia tiên và âm phần dòng họ nhưng lại được các cụ gia tiên cưng chiều, yêu quý hoặc được may mắn, công danh, tiền bạc… đủ thứ.
Bởi rằng: Ta có biết được chăng có thể những người đó bản thân mang theo phúc và vận khí tốt về với dòng họ gia đình. Có thể họ đã mang sẵn phúc vận của mình khi đầu thai về, họ có thể không có căn duyên tu tập kiếp này, có thể sơ mơ chớt mớt việc tâm linh… có thể nọ có thể kia thậm chí xấu tính. Nhưng họ vẫn đang có rất nhiều phúc mà tự bản thân họ có, vận khí của bản thân họ sinh ra đã tốt…chứ chưa nói là gia tiên, dòng họ bồi đắp cho họ.
Những người như vậy, gia tiên dòng họ mong đón họ về, cầu rước họ về để cái phúc, cái vận khí của họ kéo dòng họ gia đình đi lên. Họ được ưu ái, được cả phần dương trọng vọng và phần âm yêu quý. Có gì là sai đâu?
Việc họ dùng cái phúc, cái khí vận của mình trong kiếp này như thế nào, thành tựu được những gì, được bao lâu, bao xa… không phải do ta muốn hay quyết định mà được.
Và cũng chưa chắc, những cái ta đanh gánh chịu, những chướng ngại đường tu… ta đang phải vượt qua… đã là ta gánh nghiệp để họ được sung sướng đâu. Có khi ta còn đang gánh nghiệp của mình chưa xong, họ vẫn đang dùng phúc của họ chưa hết đó.
Còn nhược bằng nếu như ta có gánh nghiệp cho gia tiên dòng họ và phúc phần của ta được dồn cho họ tại một thời điểm nào đó, việc này là có nhưng chớ có so đo thiệt hơn.
Bởi rằng người đứng đầu âm phần dòng họ như bà cô tổ, ông mãnh tổ, những gia tiên có đạo… đều đã căn kê sắp xếp cả rồi. Nếu có chăng chỉ là “mượn”. Thời điểm này, gia đình người này trong dòng họ vốn có vận khí để làm quan còn thiếu một chút phúc, gia tiên có thể “mượn” phúc phần này để cho gia đình kia dùng và đạt được chức vụ tốt đó, để kéo vận khí của cả dòng họ đi lên.
Nhưng có “mượn” thì sẽ có “trả” và sẽ trả gấp nhiều lần. Giống như một khoản gửi tiết kiệm có lãi cao vậy. Thời điểm đó, phúc phần ta tạo được chưa đủ để tạo thành những chuyển biết, xoay vần khí vận gì cho bản thân ta hay con cháu ta, nhưng khi thời điểm đến phúc phần của ta kia sẽ được bồi hoàn cho ta hoặc con cháu ta, gấp nhiều lần.
- Thứ năm: Chúng ta, là những chú “cừu đỏ”
Đây mới là điều ta cần quan tâm.
Dù ban đầu ta đanh gánh nghiệp cho ai, dù là phúc phần ta tạo mà chính ta có khi không được hưởng thời điểm đó. Nhưng ta có đạo, tu theo Đạo Thánh cả đời, dần dần, liên tục, cứ tiếp tục tu tập đúng, hành đạo đúng, nghiệp bớt dần, phúc tích thêm... và gia tiên luôn trân quý những người con tu đạo của dòng họ (dù chúng có mang theo nhiều nghiệp hay phúc về với dòng họ này).
Và sẽ gia hộ dẫn chỉ cho chúng ta: Trước là đường tu luôn có gia tiên bên cạnh, uốn nắn, chỉ bảo, thậm chí đỡ hộ cho cũng không ít
Sau nữa là từ từ giúp đỡ để những mệt mỏi cuộc sống sẽ dần dần nhẹ nhàng, những chướng ngại tu tập sẽ không còn quá khó để vượt qua. Âm thuận dương sẽ hòa, ta đang tích âm phúc, sẽ đến lúc gia đình thấu hiểu, yêu thương và dần hòa hợp, cuộc sống mọi thứ sẽ dần ổn định…
Quan trọng nhất, sẽ đến thời điểm nghiệp kia phải hết, phúc kia đủ lớn để xoay vần vận khí hoặc của ta, hoặc của con cháu ta được hưởng.
Ta, dù có là cừu đen khi đến nhân gian này, thì bằng tu tập chính đạo đã dần dần được tẩy trắng và nếu tu tốt còn trở thành “cừu đỏ”, là người mang may mắn, phúc phần, vận khí đến cho chính bản thân ta và gia đình, con cháu ta và các thế hệ mai sau.
“...Nhớ ơn bành tổ cao dày
Nhờ ơn có tổ như cây có cành
Tuy không được trường sinh vững thế
Cũng mở đường thế hệ mai sau
Muốn sang ta phải bắc cầu
Muốn ăn quả ngọt bảo nhau vui trồng”
 
SÁM HỐI NHƯ THẾ NÀO ĐỂ
TIÊU TRỪ NGHIỆP CHƯỚNG ?
* * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * *
Làm thế nào để nghiệp chướng tiêu trừ? Đại sư nói với tôi, phải “Sám hối”, cùng Bồ Tát Phổ Hiền đã nói “Sám trừ nghiệp chướng” là một ý nghĩa. Tôi hỏi đại sư, cách sám trừ như thế nào? Ngài nói với tôi bốn chữ: “Sau Không tái phạm”. Câu nói này nói được dễ dàng, nhưng làm thì thật là khó. Lỗi lầm chỉ có một lần, không thể lăp lại, đây gọi là chân sám hối. Ngài nói với tôi, không cần phải vào chùa thắp hương lễ lạy, đi cầu nguyện, không cần thiết. Vào lúc đó tôi mới học Phật, ngay cả Tam Quy Y cũng chưa thọ. Ngài dạy tôi không cần thiết phải vào trong chùa lạy Phật, quan trọng nhất chính là “cải đổi tự làm mới”. Đây là lời của đại sư Chương Gia dạy tôi.
Chúng ta biết được lỗi lầm của chính mình, phát hiện lỗi lầm của chính mình, đây chính là khai ngộ. Người giác ngộ, sau khi ngộ rồi, đáng quý nhất là phải tu hành. “Tu hành” là gì? Chính là cải lỗi, đem lỗi lầm của chính mình cải đổi lại, đây gọi là tu hành. Cho nên, tu hành là tu sửa lỗi lầm của chính mình, tu sửa hành vi sai lầm của chính mình. Do đây có thể biết, tu hành không chỉ là niệm Phật tụng kinh, không phải vậy. Việc tụng kinh niệm Phật là phương pháp của tu hành. Người chân thật tu hành phải hiểu được là đem hành vi sai lầm của mình cải đổi lại. Tu từ chỗ nào? Tổ sư đại đức dạy bảo chúng ta “tu từ căn bản”. Cái gì là căn bản? “Khởi tâm động niệm” là căn bản. Đây là phương pháp tu hành cao minh nhất. Ta nói chuyện sai rồi, lần sau ta cải đổi; ta làm sự việc này sai rồi lần sau ta không dám làm nữa. Căn bản là từ khởi tâm động niệm

Từ chỗ này mà cải sửa thì thân khẩu của bạn tự nhiên liền không có lỗi lầm.

 

 

Tại Sao Mọi Người Hay Đi Lễ Ngày Mùng 1 Hôm Rằm?
 
Từ xưa ta thường thấy các cụ hay đi lễ chùa, đền, điện,phủ vào ngày mùng 1 và 15 âm lịch (hàng tháng)
 
Vậy tại sao mọi người lại chọn 2 ngày này để lễ chùa cúng chư Phật, Thánh thần?
 
Việc đi chùa vào ngày mùng Một và ngày Rằm có phải quy định của đạo Phật hay không?
 
Đi Chùa Lễ Phật
 
Nhiều Phật tử có thói quen ngày nào cũng thắp hương tụng Kinh và ăn chay trường nhưng một số thì thực hành những việc làm trên vào những ngày 1, 8, 14, 15, 18, 23, 24, 28, 29, 30 âm lịch trong tháng. Vào những ngày này họ sẽ kiêng ăn thịt, cá, ngăn cấm sát sinh. Những ngày này họ luôn dâng hoa tươi, quả ngon thanh tịnh để dâng cúng Tam Bảo và có cả chư Thiên (ở ban Trung Thiên).
 
Người do làm ăn bận rộn không có điều kiện ăn chay nhưng cũng không quên dâng hoa quả xôi, chè phẩm vật lên ban Tam Bảo và chư Thiên hôm mùng 1 ngày rằm. Tại sao lại có tục lệ này?
Đạo Phật có quy định phải đi lễ chùa mùng Một & ngày Rằm kO?
 
Theo cuốn "Vui buồn giỗ tết" của tác giả Trần Ngọc Lân, đi lễ chùa là tập quán của nhân dân chứ không phải quy định của đạo Phật, vì thời Đức Thích - ca còn sống, các sư đi lưu động khắp đất nước Ấn Độ thuyết pháp truyền giáo chứ chưa hề có chùa.
 
Theo các cụ xưa cũng cho rằng: Mùng một ngày rằm là những ngày Chư Phật chư Bồ-Tát thường giáng hạ tức là xuống nhân gian hòa vào dòng người để xem xét mọi sinh hoạt việc làm tốt xấu của mỗi người chúng ta.Những ngày thường khác thì khi có ai cầu thỉnh các Ngài sẽ cảm ứng mà đến chúng minh và lắng nghe lời thỉnh cầu của quý vị và ủng hộ gia trì cho nếu lời Cầu nguyện của quý bạn là chính đáng
 
Chính vì vây dù bận hay hoàn cảnh khó khăn đến mấy thì các gia đình Việt cũng tùy theo hoàn cảnh của mình dâng hoa, quả phẩm vật thắp hương Tam Bảo, Chư Thiên và gia tiên tại nhà. Người không có nhà cửa, không có ban thờ Tam Bảo hoặc có điều kiện thời gian nhiều hơn sẽ đến Chùa lễ lạy với lòng thành để được chư Phật chứng minh và gia trì ủng hộ. Một số bạn là Phật tử đáng quý do lòng thành tâm những ngày này đều làm phóng sinh dâng hoa quả nơi chùa hay nơi tượng Phật. Đó là nghĩa cử cao đẹp rất đáng trân trọng.
 
Cơ sở khoa học: Việc đi lễ chùa trong 2 ngày mùng Một và ngày Rằm?
 
Tuy nhiên, việc lựa chọn lễ Phật trong 2 ngày mùng Một và Rằm (tiếng Sanscrit Ấn Độ gọi là ngày ekadasi) thực ra lại có cơ sở khoa học.
 
Chúng ta biết rằng âm lịch dựa vào thời gian Mặt Trăng quay quanh Trái Đất trên một quỹ đạo hình elip.
 
Theo định luật Newton, lực hút giữa chúng gây ra hiện tượng thủy triều ở bất cứ nơi nào có nước, chứ không chỉ ở biển, dĩ nhiên là cả trong thân thể con người (với 75% nước).
 
Vào 2 ngày này, Mặt Trăng tiến tới gần Trái Đất nhất, lực thủy triều tăng tối đa ảnh hưởng xấu đến tâm sinh lý con người nên chúng ta thường không minh mẫn, hay cáu gắt và dễ gặp chuyện xui xẻo
 
Trong một bài viết có nhan đề "Mặt trăng có điều khiển tâm tính của bạn không?" đăng trên tạp chí New Sciences, tác giả Edga Zigler cũng cho biết, sở Cứu hỏa Phoenix thuộc tiểu bang Arizona (Mỹ) báo cáo, số cuộc gọi điện thoại tăng rõ rệt vào những đêm trăng rằm.
 
 
Các vụ phạm tội và tai nạn cũng tăng vọt khi trăng tròn.
 
Tiếng Anh cũng sử dụng những cụm từ liên quan đến Mặt Trăng như "lunancy" (có nghĩa là điên rồ – xuất phát từ tiếng Latinh với "luna" là mặt trăng), hay "moonstruck" (có nghĩa là hâm dở, trong đó "moon" cũng là mặt trăng)...
 
Chính bởi những tương tác tiêu cực của Mặt Trăng lên tâm lý con người vào hai ngày mùng Một và Rằm nên phép dưỡng sinh Yoga của Ấn Độ khuyên người ta nên nghỉ ngơi, tĩnh tâm để được an toàn, thoải mái trong 2 ngày đó và đi lễ chùa là một trong những cách để con người được thoải mái về tâm tưởng.
 
....................................

 

ĐỒNG NHÂN Cứ Chăm Đến ĐỀN

ĐIỆN, PHỦ, CHÙA Là Tốt?

 

Đi lễ ĐỀN, ĐIỆN, PHỦ, CHÙA... trong những ngày rằm, mùng 1 hay Tết là thói quen của đa số người Việt. Nhưng với các đồng nhân, thanh đồng trong đạo Mẫu, việc năng đi lễ tại các ĐỀN, ĐIỆN, PHỦ, CHÙA có thật sự tốt hay không? 

Trong tâm linh: các linh hồn tương tác với người trần bằng nguồn năng lượng

 

Con người tương tác với nhau qua trường năng lượng của mình, còn trong thế giới tâm linh, các linh hồn cũng tương tác qua lại với nhau và cả với người trần bằng trường năng lượng. 

Chư Phật chư Thánh dùng năng lượng tâm linh cao của mình giáo hóa và tiếp độ các vong linh thấp cũng như can thiệp một số cái được tạo hóa cho phép cả cho người trần. 

 

Đặc biệt đối với người có căn thì sự cảm nhận, tiếp nhận nguồn năng lượng này lại càng mạnh mẽ.

 

Nguồn năng lượng tâm linh luôn đa dạng

 

Nhưng cũng bởi nguồn năng lượng tâm linh luôn rất phong phú đa dạng, có tốt có xấu:

 

  • Năng lượng của Phật, của Thánh hiền thần linh chính tắc thì tốt
  • Năng lượng của ngã quỷ, của hung thần và tà thần vong tà… thì xấu. 

 

Ngôi chùa ngôi đền linh thiêng và người chủ trì hay thủ nhang ở đó đạo đức tốt

Tu tập tốt thì dù ngôi đền chùa hay điện đó to bé không quan trọng, Ta cũng cảm nhận được trường năng lượng tốt (hay còn gọi là linh khí Hay ngôi đền điện chùa đó linh thiêng), cảm thấy khoan khoái, dễ chịu, ấm áp và được sự che chở.

 

Nhưng nếu đến một ngôi chùa đền điện dù to đẹp hoành tráng mà người chủ trì hay thủ nhang không đi đúng đạo và không có đức thì ngôi đền chùa đó chỉ như nhà triển lãm tượng, giống những nơi trưng bầy và khoe khoang đời thường.Thậm chí nếu các vị đứng đầu nơi đó mà nhập ma thì khi bước vào sẽ chỉ nhận được trường năng lượng xấu thậm chí gây cảm giác lạnh lẽo, sợ hãi.

Cũng giống như người hiền lành đạo đức trong sáng, tâm thiện thì tỏa ra trường năng lượng tốt; người tà tâm, suy đồi đạo đức thì năng lượng xấu. Một con người đạo đức hay xấu xa dù thế nào, cũng không thể giấu diếm được trước các đấng siêu hình thậm chí cũng khó dấu diếm được các vị tu hành có đạo hạnh hay các nhà tâm linh có tu tập cảm nhận được năng lượng. 

 

Chọn nơi mà đến để nhận năng lượng của Phật, của Thánh hiền, của chính Thần

 Vậy các con nếu là đồng nhân, muốn tỏ lòng thành kính với đấng Thánh Thần, muốn được bề trên chứng tâm gia ân che chở, phù hộ, muốn xin cầu một chút ân duyên năng lượng để an yên lại căn mệnh, bình an thần trí... hãy năng đến các đền chùa linh thiêng, các địa linh để tiếp nhận năng lượng, để nhận sự tác động tốt bởi năng lượng của Phật, của Thánh hiền, của chính Thần. 

 

  • +Các con lại nên tránh những nơi có năng lượng xấu dù được rao giảng lôi kéo hay nhìn bề ngoài có hoành tráng đến đâu, nổi tiếng đến đâu.
  • +Các con cũng hạn chế đến nơi có nhiều mồ mả, nơi có năng lượng thi khí (khí từ người chết, thi thể), năng lượng âm khí, năng lượng địa mạch âm sát và năng nượng oán khí... Nó ảnh hưởng rất xấu đến cuộc sống của các con từ sức khỏe, tài vận và đặc biệt là đến căn mệnh của người có đồng...

 TRỪ KHI các con có năng lực nội tại đủ tốt để chế ngự/điều hòa năng lượng này hoặc khi có nhiệm vụ hành pháp ĐỘ VONG

 
 

Văn Khấn Gia Tiên Mùng 1 Và Ngày Rằm Hàng Tháng

 
Văn khấn gia tiên mùng 1 và ngày rằm là bài cúng tổ tiên cúng gia thần được các gia đình Việt Nam thực hiện vào ngày mồng một và chiều tối ngày rằm hàng tháng nhằm cầu mong một tháng bình an may mắn thành đạt Mời các bạn cùng tham khảo bài viết tổng hợp dưới đây của XEMBOIONLINEMIENPHI.NET để biết cách sắm lễ vật cúng gia tiên ngày rằm bài cúng ngày rằm và mùng một âm hàng tháng
 
Bài cúng gia tiên mùng 1 và ngày rằm
 
1. Tại sao phải cúng gia tiên mùng 1 và ngày rằm
 
Theo quan niệm lâu đời của người Việt Nam, ngày Rằm gọi là ngày vọng. Vọng có nghĩa là nhìn xa trông rộng, ngày mặt trăng, mặt trời đối xứng nhau ở hai cực xa nhất trong tháng. Người xưa cho rằng, ngày này mặt trăng mặt trời nhìn rõ nhau thấu suốt nhau soi chiếu vào mọi tâm hồn.Con người trở nên sáng suốt trong sạch đẩy lùi được mọi đen tối vẩn đục trong lòng.
 
Còn ngày mùng 1 đầu tháng âm lịch gọi là ngày sóc.Nguyên nghĩa từ sóc là khởi đầu bắt đầu.Ngày mùng 1 là ngày bắt đầu của một tháng nên gọi là ngày sóc.
 
Người Việt ta coi ngày Sóc Vọng là ngày tưởng nhớ tổ tiên cúng ông bà ông vải
Ngày Sóc Vọng còn có ý nghĩa "Cát tường" xem ngày tốt xấu thấy là ngày tốt nhất trong tháng
Cúng vào mùng 1 và ngày Rằm hoặc cúng vào chiều ngày 30 và chiều ngày 14 hàng tháng đều được.
 
Theo phong tục truyền thống thì trong những ngày này người ta cúng với ý nghĩa:
 
Ngày mùng Một (ngày Sóc): Ngày khởi đầu của một tháng mới cầu điều may mắn và thành công.
Ngày rằm (ngày Vọng): Ngày có sự thông suốt của mặt trăng và mặt trời tức là trong ngày này thần thánh, tổ tiên thông thương với con người thì con người chỉ cần thật tâm cầu nguyện sẽ dễ dàng gửi được những nguyện cầu hơn. Hơn nữa, lễ cúng trong ngày này còn thể hiện mong muốn con người sáng suốt trong sạch, đẩy lùi những thứ xấu xa trong lòng.
 
Chính vì vậy, việc khấn cúng gia tiên vào ngày mùng 1 và ngày rằm (khấn cúng ngày sóc, ngày vọng) là việc mà các con cháu nên làm hàng tháng để bày tỏ lòng biết ơn đối với các vị tổ tiên.
2. Cách làm lễ cúng gia tiên
 
Thờ cúng thần linh gia tiên là một phong tục lâu đời của người Việt. Đây là cách người sống thể hiện sự biết ơn tri ân với thần linh và những người đã khuất cầu mong sự an ổn may mắn đến với gia đình. Vào mỗi ngày rằm hằng tháng, mọi gia đình lại chuẩn bị đồ cúng để dâng lên ban thờ gia tiên và chư Phật thần linh.
Nhưng cần chuẩn bị đồ cúng cho ngày rằm sao cho đúng và đủ có lẽ chưa nhiều người biết.
 
Ngày xưa, mâm cúng rằm thường rất cầu kỳ, phải có cả đồ chay đồ mặn. Tuy nhiên, do cuộc sống hiện đại rất bận rộn, nhiều gia đình không có thời gian chuẩn bị những mâm cúng cầu kỳ nên đồ cúng rằm đã được giản lược đi khá nhiều.
 
Với ý nghĩa ngày tốt lành nhất trong tháng nên khi cúng vào ngày rằm hay ngày mùng 1 hàng tháng, người Việt không cúng cầu kỳ, đơn giản chỉ là những đồ lễ như:
 
1 hũ rượu
1 lọ hoa tươi
1 đĩa quả tươi
1 cốc nước
Trầu, cau
 
Và một thứ không thể thiếu là văn khấn gia tiên mùng 1 và ngày rằm. Ở mỗi nơi trên đất nước Việt Nam lại có những quan điểm khác nhau về cúng lễ những ngày này. Có nơi cúng vào mùng 1 và ngày 15, nhưng cũng có nơi lại cúng vào chiều ngày 30 tháng trước và ngày 14 Âm lịch hàng tháng. Dù cúng theo vào thời điểm nào thì trước khi cúng gia tiên thì phải cúng ông thần Thổ Công trước. Như vậy mọi điều nguyện cầu mới phải phép và đến được với ông bà, ông vải và tổ tiên.
Các nghi thức cúng gia tiên mùng 1 và ngày rằm
 
Khi cúng gia tiên thì trọng tâm cúng thần thức của người đã khuất khi trở về cảnh giới an lạc.Người ta gọi đây là “âm siêu dương thái” Nghi thức cúng gia tiên để đạt được những kết quả viên mãn là:
 
Tình vật, tịnh tài và tịnh tâm nên mọi thứ dâng cúng đều phải trong sạch, tuyệt đối không cúng tiền giả, không cúng những đồng tiền có nguồn gốc bất lương, không cúng những thực phẩm tanh hôi,... Ngoài ra có một số nơi còn không cúng đồ có nguồn gốc sát sinh vì họ cho rằng người mất không hưởng trực tiếp đồ cúng phạn thực nên chỉ dùng đồ hỷ thực hoặc hiếu thức mà thôi.
 
Cúng cần có sự nôi dưỡng, hoặc phóng sinh thể hiện lòng từ bi hay công đức của gia chủ và tiêu trừ được những nghiệp chướng trong quá khứ. Đây là cách giúp cho người thân tránh được những họa nạn không mong muốn về những nghiệp chướng này.
 
Không giải hạn bằng bùa ngải, bởi không thể dùng người khác thay thế mình, chỉ có mình mới có khả năng giải trừ các tai ách. Bất luận nguyên nhân nào cũng có nhân - quả.
 
Đọc văn khấn gia tiên với lòng thành cao cả, nguyện cầu những điều tốt đẹp cho gia đình, bản thân và có thể là cả xã hội.
3. Cách khấn vái tổ tiên vào ngày rằm, mùng một
 
Ăn có mời, làm có khiến… Đối với việc cúng lễ cũng vậy. Đồ cúng lễ dù có thịnh soạn, trang trong nếu con cháu chỉ đặt lên bàn thờ, không mời thì tổ tiên ông bà ắt không phối hưởng. Bởi vậy trong buổi cúng, con cháu phải KHẤN. Người Việt vốn trọng nghi lễ, cho nên mỗi dịp cúng vái đều có văn khấn riêng.
 
Khấn là lời cầu khẩn lâm râm trong miệng khi cúng, tức là lời nói nhỏ liên quan đến các chi tiết về ngày tháng năm, nơi chốn, mục đích buổi cúng lễ, cúng ai, tên những người trong gia đình, lời cầu xin, và lời hứa.
 
Trước khi khấn, gia trưởng vái ba vái ; sau khi khấn xong, gia trưởng lễ (lạy) 4 lễ và vái thêm 3 vái – ta gọi là 4 lễ rưỡi (xem thêm chi tiết về “vái và Lạy” phần sau).
 
Trong lời khấn, gia trưởng sẽ nói rõ ngày, tháng, năm và lý do làm lễ (và cả các điều xin, nếu có). Phải mời các cụ kỵ từ ngũ đại trở xuống, cùng với chú bác anh chị em vừa mới khuất.
Trước đây lời khấn thường do “thầy cúng” làm và dùng chữ Nho. Nhưng ngày nay việc dùng chữ Nho cho văn khấn rất hiếm. Dân gian thích dùng chữ Việt hơn, vì chữ Việt dễ viết và đọc, mạch lạc không bị hiểu lầm…
4. Văn khấn gia tiên ngày rằm, mùng 1 hàng tháng
4.1. Văn khấn Thổ Công ngày Rằm, mùng 1
 
Nam mô A Di Đà Phật !
 
Nam mô A Di Đà Phật !
 
Nam mô A Di Đà Phật ! (3 lạy)
 
Con lạy chín phương Trời, mười Phương Chư Phật, Chư Phật mười phương.
 
Con kính lạy Hoàng thiên, Hậu Thổ chư vị Tôn thần.
 
Con kính lạy ngài Đông Thần Quân
 
Con kính lạy ngài Bản gia thổ địa Long Mạch
 
Con kính lạy các ngài Ngũ phương, Ngũ thổ, Phúc đức Tôn thần
 
Con kính lạy ngài tiền hậu địa chủ tài thần
 
Con kính lạy các Tôn thần cai quản trong khu vực này.
 
Tín chủ (chúng) con là:…… Ngụ tại: ………
 
Hôm nay là ngày … tháng … năm … tín chủ con thành tâm sửa biện hương hoa lễ vật
Kim ngân trà quả đốt nén hương thơm dâng lên trước án. Chúng con thành tâm kính mời: Ngài Kim Niên đương cai Thái Tuế chí đức Tôn thần, ngài Bản cảnh Thành hoàng Chư vị Đại Vương, ngài Đông trù Tư mệnh Táo phủ Thần quân, ngài Bản gia Thổ Địa. Long Mạch Tôn thần, các ngài Ngũ Phương, Ngũ Thổ, Phúc đức chính thần, các vị Tôn thần cai quản trong khu vực này.Cúi xin các Ngài nghe thấu lời mời thương xót thương tín chủ giáng lâm trước án, chứng giám lòng thành, thụ hưởng lễ vật, phù trì tín chủ chúng con toàn gia an lạc công việc hanh thông. Người người được bình an, lộc tài tăng tiến, tâm đạo mở mang, sở cầu tất ứng, sở nguyện tòng tâm.
 
Chúng con lễ bạc tâm thành, trước án kính lễ, cúi xin được phù hộ độ trì.
 
Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần kèm 3 lạy).
 
4.2. Bài khấn gia tiên Nôm 1
 
Nam mô a di Đà Phật!
 
Nam mô a di Đà Phật!
 
Nam mô a di Đà Phật!
 
- Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư phật mười phương.
 
- Kính lạy ngài Hoàng Thiên Hậu Thổ chư vị Tôn thần.
 
- Con kính lạy ngài Đông Trù Tư mệnh Táo phủ Thần quân, Ngũ phương Ngũ thổ, Phúc đức chính Thần.
 
- Con kính lạy các ngài Thần linh cai quản trong xứ này.
 
- Các cụ Cao Tằng Tổ khảo, Cao Tằng Tổ tỷ
 
- Thúc bá đệ huynh và các hương linh nội, ngoại.
 
Hôm nay là ngày ........ tháng ..... năm ..............
 
Tín chủ con là .................................................. ....
 
Ngụ tại ........................................................ cùng toàn gia quyến.
 
Thành tâm sửa biện hương hoa, lễ vật, trà quả và các thứ cúng dâng, bày lên trước án.
 
Chúng con thành tâm kính mời:
 
- Các vị Tôn thần cai quản trong khu vực này.
 
- Hương hồn Gia tiên nội, ngoại
 
Cúi xin các Ngài thương xót tín chủ
 
Giáng lâm trước án. Chứng giám lòng thành. Thụ hưởng lễ vật
 
Phù trì tín chủ chúng con:
 
Toàn gia an lạc, mọi việc hanh thông
 
Người người được chữ bình an,
 
Tám tiết vinh khang thịnh vượng,
 
Lộc tài tăng tiến, tâm đạo mở mang
 
Sở cầu tất ứng, sở nguyện tòng tâm.
 
Giãi tấm lòng thành, cúi xin chứng giám.
 
Cẩn cáo!
4.3. Văn khấn gia tiên mẫu 2
 
Nam Mô A di đà Phật!
 
Nam Mô A di đà Phật!
 
Nam Mô A di đà Phật!
 
Con tấu lạy chín phương trời mười phương Phật Chư Phật mười phương.
 
Con tấu lạy Hoàng Thiên Hậu Thổ.
 
Con tấu lạy Thần Linh Đất nước, Thổ thần bản cảnh, Quan đương niên đương cảnh, Thành Hoàng bản thổ, Táo Quân thần chủ, Chúa đất long mạch, Thần tài, Tiền chủ, Hậu chủ, Táo phủ thần quân, Tả Long hữu hổ tiếp dẫn phúc đức tại gia tại số nhà: ……………………………...................................
 
Con tấu lạy Chư vị Liệt Tổ Liệt Tông ngũ đại đồng đường dòng họ …………………………………
 
Con tấu lạy Cao Tằng Tổ Khảo, Cao Tằng Tổ Tỷ, Cô Gi Tỷ Muội, Thúc Bá Đại Huynh, Chầu Bà Tổ Cô, Cô Bé tại gia, Cậu Bé tại gia, các Chân Linh thần tử Hữu danh vô thực, Hữu thực vô danh dòng họ: ……………………………………
 
Hôm nay là ngày ....................… Tháng ..........................…… Năm………………………
 
Phu thê hai họ con thành tâm có nén nhang bát nước ………. Dâng kính Phật Thánh
Các Quan, Chư vị Tổ Tông chứng minh công đức, chứng tâm nhận lễ, phù hộ độ trì ………………… Xin các ngài phụ hộ cho gia chung chúng con được nấp bóng cửa nhà Ngài,...... phù hộ độ trì cho chúng con được đắc kỳ tài được sai kỳ lộc, phu thê hòa thuận, Gia chung bình an, lộc tài vượng tiến.
 
Nam Mô A di đà Phật!
 
Nam Mô A di đà Phật!
 
Nam Mô A di đà Phật!
 
( Ai chưa lập gia đình thì thay từ Phu thê bằng Gia chung hay đơn giản là Chúng con )
4.4. Văn khấn gia tiên ngày Rằm tháng 4
 
Nam mô a di Đà Phật!
 
Nam mô a di Đà Phật!
 
Nam mô a di Đà Phật!
 
- Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương.
 
- Con kính lạy Hoàng thiên Hậu Thổ chư vị Tôn thần.
 
- Con kính lạy ngài Bản cảnh Thành Hoàng, ngài Bản xứ Thổ địa, ngài Bản gia Táo quân cùng chư vị Tôn thần.
 
- Con kính lạy Tổ tiên, Hiển khảo, Hiển tỷ, chư vị Hương linh (nếu bố, mẹ còn sống thì thay bằng Tổ Khảo, Tổ Tỷ)
 
Tín chủ (chúng) con là:………………………………………………….................
 
Ngụ tại:……………………………………………………………..........................
 
Hôm nay là ngày………………………..gặp tiết……………………..(ngày rằm, mồng một), tín chủ con nhờ đất ơn đức trời đất, chư vị Tôn thần, cù lao tiên tổ, thành tâm sắm lễ, quả cau lá trầu, hương, hoa trà quả, thắp nén tâm hương dâng lên trước án.
Chúng con kính mời: Bản cảnh Thành hoang Chư vị Đại Vương, ngài Bản xứ Thần linh Thổ địa, ngài Bản gia Tao quân, Ngũ phương, Long Mạch, Tài thần. Cúi xin các giáng lâm trước án, chứng giám lòng thành thụ hưởng lễ vật.
 
Chúng con kính mời các cụ Tổ Khảo, Tổ tỷ, chư vị Hương linh gia tiên nội ngoại
Họ….................. cúi xin thương xót con cháu linh thiêng hiện về, chứng giám tâm thành thụ hưởng lễ vật.
 
Tín chủ con lại kính mời các vị Tiền chủ, Hậu chủ ngụ tại nhà này, đất này đồng lâm án tiền, đồng lai hâm hưởng, phù hộ cho gia chúng con luôn luôn mạnh khỏe,mọi sự bình an, vạn sự tốt lành, làm ăn phát tài, gia đình hòa thuận.
 
Chúng con lễ bạc tâm thành, trước án kính lễ, cúi xin được phù hộ độ trì.
 
Nam mô a di Đà Phật!
 
Nam mô a di Đà Phật!
 
Nam mô a di Đà Phật!
4.6 Văn khấn gia tiên bằng âm Hán
 
Duy!
 
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đệ …. Thập … niên, tuế thứ … nguyệt, … nhật … tỉnh (Thành phố thuộc Trung ương), … huyện (thị xã), … xã (phường, thị trấn), … thôn (khu phố, ấp).
 
Trưởng nam (hoặc tự tôn): …. Cung thừa mẫu mệnh (cha chết, mẹ đang còn sống), hiệp dữ chư thúc, dữ dồng / bào đệ, tỷ, muội, nội, ngoại, tử, tôn, hôn, tế đẳng / toàn gia kính bái (xướng những ai đang có mặt trong lúc hành lễ).
 
Kim nhân: Hiển Khảo (tỷ) hoặc Tổ khảo (tỷ) hoặc Tằng tổ khảo (tỷ) … húy nhật.
 
Cẩn dĩ: … chi nghi, cung trần bạc tế.
 
Hiển: … tôn linh vi tiền, cảm kiền cáo vu:
 
Viết: … (tùy theo từng lễ)
 
Kính thỉnh:
 
Hiển: …
 
Hiển: …
 
Hiển: …
 
 
Liệt vị chư tiên linh.
 
Kính kỵ: … liệt vị chư tiên linh, cập phụ vị, thương vong đẳng tòng tự, đồng lai hâm hưởng.
 
Kính cáo: Bản gia đông trù tư mệnh Táo phủ thần quân, bản gia tiên thánh, tiên sư, bản viên thổ công, bản đường ngũ tự gia thần, mặc thùy chiếu giám, đồng lai giám cánh, tích chi hanh cát.
 
Cẩn cáo!
4.5. Bài văn khấn mùng 1 ngoài trời
 
Kính lạy Hoàng Thiên Hậu Thổ chư vị Tôn thần.
 
Con kính lạy ngài Đông Trù Tư mệnh Táo phủ thần quân.
 
Con kính lạy các ngài Thần linh, Thổ địa cai quản trong xứ này.
 
Con kính lạy ngài Bản gia Tiền chủ ngụ trong nhà này.
 
Tín chủ con là... sinh năm...
 
Ngụ tại...
 
Hôm nay là ngày mùng 1 tháng… năm... Âm lịch.
 
Tín chủ con thành tâm sắm lễ, hương hoa trà quả, đốt nén tâm hương dâng lên trước án thành tâm kính mời: Đức Hoàng thiên hậu Thổ Chư vị Tôn Thần ngài Bản cảnh Thành Hoàng, ngài Bản xứ Thổ Địa, ngài Bản gia Táo Quân cùng Chư vị Tôn thần, ngài Bản gia Tiền Chủ.
 
Cúi xin Chư vị Tôn thần Bản gia Tiền Chủ thương xót tín chủ, giáng lâm trước án chứng giám lòng thành, thụ hưởng lễ vật, phù trì tín chủ chúng con toàn gia an ninh khang thái, vạn sự tốt lành, gia đạo hưng long thịnh vượng, lộc tài tăng tiến, tâm đạo mở mang, sở cầu tất ứng, sở nguyện tòng tâm.
 
Chúng con lễ bạc tâm thành, trước án kính lễ, cúi xin được phù hộ độ trì.
 
Phục duy cẩn cáo!
 
5. Văn khấn tổ tiên ngày mùng 1 Tết
 
Kính lạy: Các cụ Tổ khảo, Tổ tỷ, bá thúc huynh đệ, đường thượng tiên linh, và các hương hồn nội tộc, ngoại tộc.
 
Hôm nay là ngày mùng một Tết, tháng Giêng, năm …………………..
 
Chúng con là: ………………………………Tuổi……………
 
Hiện cư ngụ tại số nhà …….. Đường……………………..Khu phố …………….
 
Phường ……………………Quận…………………………..Thành phố………………….
 
Nay theo tuế luật,âm dương vận hành tới tuần Nguyên đán, mồng một đầu xuân,mưa móc thấm nhuần, đón mừng năm mới. Con cháu tưởng niệm ân đức Tổ tiên như trời cao biển rộng, khôn đem tấc cỏ báo đáp ba xuân
Do đó chúng con cùng toàn thể con cháu trong nhà sửa sang lễ vật,oản quả hương hoa kính dâng trước án.
 
Con lại kính mời các cụ tiên linh,Cao tằng Tổ khảo, Cao tằng Tổ tỷ, Bá thúc đệ huynh,Cô di tỷ muội, nội tộc, ngoại tộc, chư vị hương linh, cúi xin giáng phó linh sàng hâm hưởng lễ vật. Tín chủ lại kính mời các vị vong linh tiền chủ, hậu chủ, y thảo thụ mộc ở trong đất này, nhân tiết giao thừa, giáng lâm trước án, chiêm ngưỡng tân xuân, thụ hưởng lễ vật.
 
Nguyện cho chúng con tân niên khang thái, ngày đêm tốt lành thời thời được chữ bình an
Gia đạo hưng long, thịnh vượng.Giải tấm lòng thành cúi xin chứng giám. Phục duy cẩn cáo!
 
 

Văn Khấn Tứ Phủ:
Ngắn Gọn Đầy Đủ & Hay Nhất
 
 
 

 

Các bạn căn đồng số lính có căn hầu đồng con cha con mẹ khi đi lễ đền phủ... không thể không thuộc bài văn khấn Tứ Phủ

Nhưng bài khấn quá dài thì các thanh đồng còn non trẻ sẽ khó lòng mà thuộc được

Bài văn khấn quá ngắn lại chưa đúng ý nguyện mong cầu của các đồng cựu thầy đồng.

 

Bản đầy đủ dành cho các thầy và Bản Văn khấn ngắn gọn dành cho các con nhang đệ tử.Có hướng dẫn cách khấn sao cho linh nghiệm nhất đối với con nhang đệ tử ở dưới bài viết

 

Hôm nay là ngày.. Chúng con đến đây có chút hương hoa phẩm quả, lễ mặn (chú ý dâng gì thì kêu đó nghe - không có lễ mặn mà kêu lễ mặn là phải tội đó, nên nhớ không bày lễ mặn ở cúng Phật) xin dâng lên các chư tiên chư thánh để cảm tạ ơn đức của các ngài đã phù hộ độ trì cho chúng con suốt thời gian qua.Vừa qua được sự lưu tâm độ trì của các ngài mà công việc (Nếu đã xin việc gì cụ thể mà thành công thì xin trình bày) của con đã hanh thông vẹn tròn Chúng con xin được cảm tạ và lễ tạ tất cả các Ngài.

 

Hôm nay chúng con tới đây với tất cả lòng thành kính xin các ngài phù hộ độ trì cho con các việc sau: ( Nêu cụ thể các việc cần xin, các khó khăn có thể gặp phải và có thể cả hướng định giải quyết ra sao).

 

Một lần nữa thay mặt gia chung chúng con con xin các ngài giang tay cứu giúp cho chúng con. Chúng con xin đa tạ ...( tên vị thánh bản đền) và toàn thể các chư tiên, chư thánh.

 

Nam mô a di dà phật (3 lần).

 

Một số lưu ý về bài khấn trên:

 

Do các ngôi vị của nhà thánh rất nhiều chúng ta chỉ khấn: Toàn thể chư tiên, chư thánh là đủ hết cả rồi, không sót một ai. Nên các bạn cứ an tâm mà khấn.

Ngôi đền nào cũng có một vị chủ đền nên sau khi khấn các chư tiên, chư thánh rồi thì phải khấn tên của vị thánh chủ đền. Vị thánh chủ đền là vị thánh chủ nhà của ngôi đền, còn các ngôi khác tuy quyền cao hơn cũng chỉ là khách, nên không thể không khấn tên vị thánh chủ đền được. Thử hỏi cõi dương trần mình đến nhà người ta chơi mà không chào chủ nhà, chỉ chào mỗi khách thôi thì chủ nhà sẽ hành xử với chúng ta ra sao? Khấn mà quên vị thánh chủ đền thì coi như các lời xin cầu của chúng ta là vô nghĩa, thậm chí còn nguy hại vì mình vô lễ với vị thánh chủ đền.

Cũng lưu ý khi khấn bên cung Phật thì đoạn "chư Phật, chư Tiên, chư Thánh" thì chỉ cần khấn chư Phật thôi, còn khấn bên cung Thánh thì có thể khấn chư tiên, chư thánh thôi.

Khi bắt đầu khấn thì khấn các ngôi chư Phật, chư Tiên, chư Thánh vì ngôi cao hơn, sau đó mới đến vị thánh chủ nhà. Còn khi ra đi thì phải xin phép chủ nhà rồi mới chào các vị khách mới đúng. Thậm chí, chúng ta khấn vị thánh chủ đền rồi mới đến chư tiên, chư thánh cũng không sao. Bởi vị thánh chủ đền là chủ nhà còn các chư tiên, chư thánh chỉ là khách.

Để khấn khi đến hay khấn chào thì nên khấn ở Ban Công Đồng hoặc ở Ban vị thánh chủ đền là được. Sau đó có thể chỉ đến vái các ban khác nếu không có đủ thời gian. Tất nhiên, nếu có nhiều thời gian chúng ta có thể khấn thêm ở các ban khác.

 

2. Bài khấn Tứ Phủ đầy đủ nhất (Dành cho các đồng thầy)

Con niệm Nam Mô A Di Đà Phật (3 lần)

- Con lạy chín phương Trời, con lạy mười phương Đất, con lạy mười phương chư Phật, chư Phật mười phương,

- Nam Mô Bản sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

- Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật.

- Nam Mô Đương Lai Hạ Sinh Di Lặc Tôn Phật.

- Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.

 

Con Lạy Chư Đại Bồ Tát, Chư Hiền Thánh Tăng.Hộ Pháp Chư Thiên, Thiện Thần Bồ Tát.

Con lạy Tam Vị Đức Vua Cha Đức Tam Thập Tam Thiên Thiên Chúa Đế Thích Đề Hoàn Nhân Thánh Đế Ngọc Bệ Hạ

Con Lạy Hiệu Thiên chí tôn Kim Quyết Ngọc Hoàng Huyền Cung Đại Đế Ngọc Điện Hạ.

Con lạy Đức Phật Mẫu Hoàng Thiên

Con Lạy Đức Vua Cha Bát Hải Động Đình Thủy Quốc Long Vương.

 

-Con lạy Tam Tòa Thánh Mẫu:

Con Lạy Mẫu Đệ Nhất Thượng Thiên

Con Lạy Mẫu Đệ Nhị Thượng Ngàn

Con Lạy Mẫu Đệ Tam Thoải Phủ

Con Lạy Mẫu Đệ Tứ Khâm Sai

Con Lạy Hội Đồng Quan Tứ Trụ Triều Đình

Con Lạy Tam Phủ Công Đồng, Tứ Phủ Vạn Linh hội Đồng Tiên Thánh

 

Văn khấn Tứ phủ: Ngắn gọn đầy đủ & hay nhất

 

Các bạn căn đồng số lính có căn hầu đồng con cha con mẹ khi đi lễ đền phủ

Không thể không thuộc bài văn khấn Tứ Phủ

Nhưng bài khấn quá dài thì các thanh đồng còn non trẻ sẽ khó lòng mà thuộc được.Bài văn khấn quá ngắn, lại chưa đúng ý nguyện mong cầu của các đồng cựu, thầy đồng.

 

 

VĂN KHẤN TỨ PHỦ ĐẦY ĐỦ NHẤT

 

Bản đầy đủ dành cho các thầy và Bản Văn khấn ngắn gọn dành cho các con nhang đệ tử.Có hướng dẫn cách khấn sao cho linh nghiệm nhất đối với con nhang đệ tử ở dưới bài viết.

 

 

1.Bài khấn Tứ Phủ ngắn gọn hay nhất (Dành cho con nhang đệ tử)

 

Đối với các con nhang, đệ tử đi lễ không thường xuyên thì nên khấn ngắn gọn như sau:

 

Nam mô a di đà phật ( 3 lần )

 

Con lạy chín phương trời, con lạy mười phương đất, con lạy chư phật mười phương, mười phương chư phật.

Con lạy toàn thể chư phật, chư tiên, chư thánh.

Con lạy: ...........( tên thánh chủ bản đền. Ví dụ, đến đền Cô Chín ta khấn: Con lạy Cô Chín tối linh)

 

Đệ tử con tên là:............. tuổi:..........

Ngụ tại:.................................

 

Hôm nay là ngày... Chúng con đến đây có chút hương hoa, phẩm quả, lễ mặn (chú ý dâng gì thì kêu đó nghe - không có lễ mặn mà kêu lễ mặn là phải tội đó, nên nhớ không bày lễ mặn ở cúng Phật) xin dâng lên các chư tiên, chư thánh để cảm tạ ơn đức của các ngài đã phù hộ độ trì cho chúng con suốt thời gian qua. Vừa qua, được sự lưu tâm độ trì của các ngài mà công việc

(Nếu đã xin việc gì cụ thể mà thành công thì xin trình bày ) của con đã hanh thông vẹn tròn. Chúng con xin được cảm tạ và lễ tạ tất cả các Ngài.

 

Hôm nay chúng con tới đây với tất cả lòng thành kính xin các ngài phù hộ độ trì cho con các việc sau: ( Nêu cụ thể các việc cần xin, các khó khăn có thể gặp phải và có thể cả hướng định giải quyết ra sao).

 

Một lần nữa thay mặt gia chung chúng con, con xin các ngài giang tay cứu giúp cho chúng con. Chúng con xin đa tạ ...( tên vị thánh bản đền) và toàn thể các chư tiên, chư thánh.

 

Nam mô a di dà phật (3 lần).

 

------ HẾT -------

Một số lưu ý về bài khấn trên:

 

Do các ngôi vị của nhà thánh rất nhiều chúng ta chỉ khấn: Toàn thể chư tiên, chư thánh là đủ hết cả rồi, không sót một ai. Nên các bạn cứ an tâm mà khấn.

Ngôi đền nào cũng có một vị chủ đền nên sau khi khấn các chư tiên, chư thánh rồi thì phải khấn tên của vị thánh chủ đền. Vị thánh chủ đền là vị thánh chủ nhà của ngôi đền, còn các ngôi khác tuy quyền cao hơn cũng chỉ là khách, nên không thể không khấn tên vị thánh chủ đền được. Thử hỏi cõi dương trần mình đến nhà người ta chơi mà không chào chủ nhà, chỉ chào mỗi khách thôi thì chủ nhà sẽ hành xử với chúng ta ra sao? Khấn mà quên vị thánh chủ đền thì coi như các lời xin cầu của chúng ta là vô nghĩa, thậm chí còn nguy hại vì mình vô lễ với vị thánh chủ đền.

Cũng lưu ý khi khấn bên cung Phật thì đoạn "chư Phật, chư Tiên, chư Thánh" thì chỉ cần khấn chư Phật thôi, còn khấn bên cung Thánh thì có thể khấn chư tiên, chư thánh thôi.

Khi bắt đầu khấn thì khấn các ngôi chư Phật, chư Tiên, chư Thánh vì ngôi cao hơn, sau đó mới đến vị thánh chủ nhà. Còn khi ra đi thì phải xin phép chủ nhà rồi mới chào các vị khách mới đúng. Thậm chí, chúng ta khấn vị thánh chủ đền rồi mới đến chư tiên, chư thánh cũng không sao.Bởi vị thánh chủ đền là chủ nhà còn các chư tiên, chư thánh chỉ là khách.

Để khấn khi đến hay khấn chào thì nên khấn ở Ban Công Đồng hoặc ở Ban vị thánh chủ đền là được. Sau đó có thể chỉ đến vái các ban khác nếu không có đủ thời gian.Tất nhiên nếu có nhiều thời gian chúng ta có thể khấn thêm ở các ban khác.

 

2. Bài khấn Tứ Phủ đầy đủ nhất (Dành cho các đồng thầy)

 

Con niệm Nam Mô A Di Đà Phật (3 lần)

- Con lạy chín phương Trời, con lạy mười phương Đất, con lạy mười phương chư Phật, chư Phật mười phương,

- Nam Mô Bản sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

- Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật.

- Nam Mô Đương Lai Hạ Sinh Di Lặc Tôn Phật.

- Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.

 

Con Lạy Chư Đại Bồ Tát Chư Hiền Thánh Tăng.Hộ Pháp Chư Thiên, Thiện Thần Bồ Tát.

Con lạy Tam Vị Đức Vua Cha Đức Tam Thập Tam Thiên Thiên Chúa Đế Thích Đề Hoàn Nhân Thánh Đế Ngọc Bệ Hạ

Con Lạy Hiệu Thiên chí tôn Kim Quyết Ngọc Hoàng Huyền Cung Đại Đế Ngọc Điện Hạ.

Con lạy Đức Phật Mẫu Hoàng Thiên

Con Lạy Đức Vua Cha Bát Hải Động Đình Thủy Quốc Long Vương.

 

-Con lạy Tam Tòa Thánh Mẫu:

Con Lạy Mẫu Đệ Nhất Thượng Thiên

Con Lạy Mẫu Đệ Nhị Thượng Ngàn

Con Lạy Mẫu Đệ Tam Thoải Phủ

Con Lạy Mẫu Đệ Tứ Khâm Sai

Con Lạy Hội Đồng Quan Tứ Trụ Triều Đình

Con Lạy Tam Phủ Công Đồng, Tứ Phủ Vạn Linh hội Đồng Tiên Thánh

 

-Con lạy Trần Triều Hiển Thánh Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương.

Con lạy Trần Triều Khải Thánh Vương Phụ, Vương Mẫu, Vương Phi Phu Nhân,

Trần Triều Vương Huynh, Vương Đệ.Vương Tử, Vương Tế, Vương Nữ Vương Tôn

Con Lạy văn võ bá quan quân thần trần triều

Con lạy Tam Tòa chúa bói – Hội đồng Chúa bói Chúa chữa Chúa Mán Chúa Mường

Con Lạy Chúa Đệ Nhất Tây Thiên

Chúa Đệ Nhị Nguyệt Hồ

Chúa Đệ Tam Lâm Thao

Tiên Chúa Thác Bờ

Con Lạy Ngũ Phương Bản Cảnh Vũ Quận Bạch Hoa -Năm Phương Chúa Bà

 

-Con lạy Ngũ Vị Vương Quan, Tôn Quan Đệ Nhất Thượng Thiên, Tôn quan Đệ Nhị Giám Sát, Tôn Quan Đệ Tam Thoải Phủ, Tôn quan Đệ Tứ Khâm Sai, Tôn Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh.

Con lạy Tôn Quan Điều Thất.

 

-Con cung thỉnh mời Tứ Phủ Chầu Bà

Chầu Đệ Nhất Thượng Thiên

Chầu Đệ Nhị Thượng Ngàn Đông Cuông

Chầu Đệ Tam Thoải Phủ

Chầu Đệ Tứ Khâm Sai

Chầu Năm Suối Lân

Chầu Lục Cung Nương

Chầu Bảy Tiên La

Chầu Bát Nàn Đông Nhung Đại Tướng Quân

Chầu Cửu Sòng Sơn

Chầu Mười Đồng Mỏ

 

Con lạy Hội Đồng Chầu Bé-Con Lạy Chầu Bé Thượng Ngàn Quyền Cai Bắc Lệ

 

-Con cung thỉnh mời Tứ Phủ Thánh Hoàng, thập vị quan Hoàng

Con lạy 36 tòa Sơn Trang -Sơn Trang, Tám Tướng Thập Nhị Tiên Nàng

 

-Con lạy Tứ Phủ Thánh Cô

Con xin kính lạy Cô Nhất Thượng Thiên- Cô Cả đền Dùm

Con lạy Cô đôi Thượng Ngàn

Cô bơ Thoải, con lạy cô tư Ỷ La, Cô năm suối lân, cô Sáu sơn trang, Cô bảy Tân La cô Tám Đồi Chè, 12 cô Chín, Cô chín thượng Ngàn, Cô chín Sòng sơn, cô Mười mỏ Than, Hội đồng cô bé, Con Lạy cô bé Thượng ngàn, cô bé Thoải con lạy cô Bé Bản Đền (bản điện), Con lạy Tứ Phủ Thánh Cậu trên Ngàn dưới Thoải,

 

Con lạy Cậu đệ nhất Hoàng Thiên, Cậu Hoàng Đôi Thượng Ngàn, Cậu Hoàng Ba Thoải, Cậu Hoàng Tư Long Thành, Con Lạy Cậu Bé Hoàng Thiên, Cậu Bé Thượng Ngàn, Cậu Quận Phủ Dầy, Cậu Đồi Ngang Phố Cát. Con lạy cậu bé bản Đền ( Bản Điện ).

 

-Con Lạy Hội Đồng Quan Ngũ Dinh, Đôi quan Thanh Xà Bạch Xà, Sơn Thần Bản Thổ Ngũ Hổ Thần Tướng

-Con cung thỉnh mời chư vị Chúa Chầu các Quan thủ Đền thủ Điện, Chư vị Thành Hoàng Bản Thổ, Chư vị Thần thổ cư đồng ngự dải đất này.

 

- Đệ tử con tên là:............. tuổi:..........

Ngụ tại:.................................

Kim niên kim nguyệt cát nhật lương thời. Hôm nay ngày:... Tháng:... Năm:...

( Dâng gì cầu gì khấn nấy hoặc theo bài bên dưới)

 

Nhân …………..

Đệ tử con nhất tâm 1 lòng, nhất tòng 1 đạo, nhất tâm trí thiết, nhất dạ chí thành, đêm tưởng ngày mong, tu thiết hương, hoa, đăng, trà, quả, thực (mang miệng về tâu, mang đầu về bái), trên con tấu thượng thiên, dưới con đệ trình long cung thuỷ phủ cùng đồng gia quyến đăng cung phụng cửa đình thần tam tứ phủ ...............(tên đền) linh từ.

 

Mong trên cha độ dưới mẫu thương đèn trời đuốc biển soi đường dẫn lối phù hộ độ trì cho quốc thái dân an, mưa thuận gió hoà vuốt ve che chở cho gia chung chúng con trong 3 tháng hè, 9 tháng đông, tai qua nạn khỏi - Đầu năm chí giữa nửa năm chí cuối được bình an vô sự cửa nhà khang ninh, cầu danh đắc danh, cầu phúc đắc phúc đắc tài sai lộc...... Dãi tấm lòng thành cúi xin Phật Thánh Chúa Tiên anh linh chứng giám!!!

 

-Cung thỉnh công đồng Lục Cung Tiên Tổ dòng họ..... nguyên quán Tổ Cô Mãnh Tướng

Cậu bé cô bé tại gia, chư vị tiên linh trong dòng họ theo hầu Phật Thánh cửa Đình Thần Tam Tứ Phủ, trên tấu tòa vàng Thượng Thiên, dưới tấu Thủy Cung Địa Phủ, cho con cháu nhất một lòng, tòng một đạo Sở cầu tất ứng, sở nguyện tòng tâm…

 

Nam mô a di dà phật (3 lần).

 

Văn khấn công đồng bài 3 dễ nhớ (Dành cho các thanh đồng)

 

Nhất thiết cung kính, nhất tâm kính lễ thập phương pháp giới thường trụ Tam Bảo (3 lần)

Nam mô Phật, Nam mô Pháp, Nam mô Tăng

Nam Mô Bản Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần)

Nam mô đại từ, đại bi tầm thanh cứu khổ cứu nạn quảng đại linh cảm Quán Thế Âm Bồ Tát.

 

- Con lạy chín phương trời, mười phương chư phật chư phật mười phương, ngũ phương ngũ phật, thập phương thập phật, hằng hà sa số, đức phật vô lượng, công đức vô biên.

Con xin sám hối con lạy Đức Cao Thiên Thượng Thánh Đại Từ Nhân Giả, Huyền Cung cao thượng đế, Ngọc Hoàng đại thiên tôn.

- Con xin sám hối đại thánh Nam Tào Lục Ty Duyên Thọ tinh quân, con sám hối đại thánh Bắc Đẩu Cửu Hoàng Giải Ách tinh quân, Bắc Cực Thiên Trung, Tam Nguyên, Tam Phẩm, Tam Quan, Cửu Tinh Thiên Chúa, Thập Nhị Bát Tú, dương phủ ngũ nhạc thần vương, địa phủ thập điện linh vương.

- Con xin sám hối đến thái linh phủ, bát hải linh từ, con sám hối vua cha bát hải động đình, con sám hối cửu trùng thánh mẫu bán thiên công chúa thiên tiên thánh mẫu.

- Con sám hối quốc mẫu vua bà, bơ toà thánh mẫu, mẫu đệ nhất thiên tiên Quỳnh Hoa Liễu Hạnh, đức mẫu thượng ngàn, Diệu Nghĩa, Diệu Tín thiền sư, tuần quán đông cuông, đệ nhị đỉnh thượng cao sơn triều mường sơn tinh công chúa Lê Mại Đại Vương, thánh mẫu đệ tam thuỷ cung Xích Lân Long Lữ thuỷ tinh công chúa, Hàn Sơn linh từ .

- Con lạy trần triều hiển thánh nhân vũ Hưng Đạo Đại Vương Quốc Công Tiết Chế Thượng đẳng phúc thần ngọc bệ hạ, trần triều khải thánh vương phụ, vương mẫu, vương phi phu nhân, vương tử, vương nữ, vương tể, vương tôn, tứ vị vương tử, nhị vị vương cô, phạm tướng quân, cô bé cửa suốt, cậu bé cửa đông chư vị tướng tá bộ hạ các quan công đồng Trần Triều uy phong lẫm liệt

- Con sám hối Cung thỉnh Tam vị Chúa Mường:Đệ nhất Tây Thiên,đệ nhị Nguyệt Hồ,đệ tam Lâm Thao

- Chúa Bà Cà Phê ,Tiên Chúa Thác Bờ-Hòa Bình công chúa,Ngũ Phương Bản Cảnh Chúa bà bạch hoa công chúa tối tú tối linh,hội đồng chúa bói,hội đồng chúa chữa,hội đồng chúa Mán,hội đồng chúa Mường,lục cung chúa chầu các bộ sơn trang,sơn lâm công chúa,tam thập lục cung công chúa

Lục thập hoa giáp thần nương.

Con sám hối ngũ vị tôn quan hội đồng quan lớn, quan đệ nhất thượng thiên,quan đệ nhị thượng ngàn, quan đệ tam thoải phủ, quan đệ tứ khâm sai, quan đệ ngũ tuần tranh.

Con lạy tứ phủ chầu bà, Năm tòa quan lớn, 10 dinh các quan. Bát bộ sơn trang thập nhị tiên cô trên ngàn dưới thoải, Thủ điện công chúa tối tú tối linh.Con kính lạy tứ phủ quan hoàng. Tứ phủ thánh cô, tứ phủ thánh cậu

Cậu bé bản đền, cô bé bản đền. Ngũ lôi thiên tướng, ngũ hổ đại thần chư vị các quan. Con kính lạy Thanh Xà đại tướng, Bạch Xà đại quan. Con kính lạy công đồng các giá, hội đồng các quan, trên ngàn Adưới thoải 18 cửa rừng, 12 cửa bể, cửa đình thần tam tứ phủ tối tú anh linh, con lạy Thổ công chúa đất chư vị tôn thần bản sứ.

 

Hôm nay là ngày...tháng...năm...

Đệ tử con là ... (tuổi) thê ... (tuổi) sinh nam tử ... (tuổi) nữ tử .... v.v… đồng gia quyến đẳng.

Ngụ tại địa chỉ:........................................................

 

Ngày hôm nay, kim niên kim nguyệt cát nhật lương thời.

Đệ tử con nhất tâm tưởng vạn tâm cầu, tu thiết nhang hoa lễ vật có tờ vàng lá sớ, tờ tấu lá trạng, mang miệng về tâu mang đầu tới bái cửa đình thần tam tứ phủ. Trên Mẫu độ, dưới gia hộ Mẫu thương, vuốt ve che chở phù hộ độ trì cho con 3 tháng hè 9 tháng đông, đầu năm chí giữa nửa năm chí cuối, tứ thời bát tiết phong thuận vũ hòa, tai qua nạn khỏi.

 

Mẫu cho con sáng hai con mắt, bằng hai bàn chân. Mẫu ban lộc dương, Mẫu tiếp lộc âm, cho lộc mùa xuân, cho tài mùa hạ, cho con tươi như lá, đẹp như hoa, phúc lộc đề đa tiền tài mang tới. Mẫu cho con lộc ăn lộc nói, lộc gói lộc mở, lộc gần lộc xa, hồ hết lại có, hồ vơi lại đầy, điều lành Mang đến điều giữ mang đi. Mẫu cứu âm độ dương, cứu đường độ chợ, vuốt ve che chở nắn nở mở mang, cải hung vi cát, cải hạo vi tường thay son đổi số, lảy mực cầm cân Mẫu phê chữ đỏ, Mẫu bỏ chữ đen, cho con được trăm sự tốt vạn sự lành, trên quý dưới yêu, trên vì dưới nể. Mẫu cho con Gặp thầy gặp bạn, gặp vạn sự lành, Mẫu ban danh ban diện ban quyền cho con có lương có thực có ngân có xuyến, cầu tài đắc tài, cầu lộc đắc lộc Cầu bình an đắc bình an, trồng cây đắp phúc cho con được nở cành xanh lá

Phúc lộc đề đa, ngũ phúc lâm môn, thân tâm an lạc, quả đạo viên thành, đầy thuyền mãn quả, gia đạo hưng thịnh. Mẫu cho trên thuận dười hòa trên bảo dưới nghe, trên đe dưới sợ, Mẫu cho nước chảy một dòng thuyền trôi một bến, bách bệnh tiêu tán vạn bệnh tiêu trừ, Năm xung Mẫu giải xung tháng hạn Mẫu giải hạn cho gia trung con được trong ấm ngoài êm nhân khang vật thịnh, duyên sinh thọ trường.

 

Đệ tử con người trần mắt thịt việc âm chưa tường việc dương chưa tỏ, tuổi con còn trẻ tóc con còn xanh, ăn chưa sạch bạch chưa thông, không biết kêu sao cho thấu tấu sao cho tường. Con biết tới đâu con tâu tới đó, 3 điều không sảy 7 điều không sai trăm tội Mẫu xá vạn tội Mẫu thương. Mẫu xá u xá mê xá lỗi xá lầm, soi đường chỉ lối cho con biết đường mà lội biết lối mà lần.

 

Hôm nay đệ tử con lễ bạc tâm thành con giàu một bó con khó một nén, giàu con làm kép hẹp con làm đơn, thiếu Mẫu cho làm đủ, vơi Mẫu cho làm đầy. Mẫu chấp kỳ lễ vật, chấp lễ chấp bái, chấp lời kêu tiếng tấu của con, bay như phượng lượn như hoa tới cửa Mẫu ngồi, tới ngai Mẫu ngự, cho con sở nguyện như ý sở cầu tòng tâm.

 

Dãi tấm lòng thành cúi xin Phật Thánh Chúa Tiên anh linh chứng giám!!!

 

- Con sám hối Cung thỉnh công đồng Tổ tiên nội ngoại, Tổ Cô Mãnh Tướng cậu bé cô bé tại gia đẳng đẳng chư vị chân linh sống vi anh tử vi linh về hầu cửa Phật cửa Thánh trên tấu thượng thiên, dưới tấu tòa vàng thoải phủ kêu thay lạy đỡ cho con cháu cháu chắt của Tổ được kêu thấu, tấu nổi đắc lễ đắc bái đắc yêu đắc cầu.Đức Tổ cao minh tận thương tận độ!!!

 

Các thanh đồng lưu ý khi khấn Tứ phủ để có ứng nghiệm được tốt nhất

 

Cần quỳ lạy tốt hơn nếu có điều kiện về vị trí, chỉ đứng khi không có chỗ để ngồi.Nhà Thánh không chấp nếu ta không có chỗ quỳ lạy nhưng sẽ chấp ta

Nếu có chỗ mà không quỳ.Quỳ là sự thể hiện sự tôn kính mà.

 

Khi khấn cần chắp tay cung kính, dồn toàn bộ tâm trí vào câu khấn,. Có thể mở mắt, nhưng phải để hướng mắt vào các tượng thánh.Có thể nhắm mắt để tiện cho dồn tâm trí vào câu khấn thì trong tâm vẫn phải hướng thẳng vào cung thờ.

 

Không quá nặng nề về câu chữ để sao cho lời khấn được mạch lạc, để có thể khấn bằng cả cái tâm của mình. Đây là phần quan trọng nhất trong khi khấn.Có làm được như vậy thì cây cầu tâm linh giữa người khấn với cõi tâm linh mới được kết nối.Khi đó lời khấn của mình mới được chứng

Nếu trong khi khấn mà không tâm niệm được điều này thì có khấn hay đến đâu cũng khó được chứng giám.Tuyệt đối không được mang bản in sẵn ra mà đọc

Nếu ta đọc thì cây cầu âm dương không bao giờ được kết nối.

 

Nên dãi bày chi tiết cụ thể các việc mình cần xin thì càng tốt. Có như vậy, cõi âm mới biết mình vướng cái gì, mắc ở đâu, chỗ nào ngăn trở mình thì cõi âm mới có cách giải quyết cho chúng ta được. Không nên khấn chung chung không cụ thể như: Mua một bán mười, tài lắm, nhiều lộc, gặp may gặp mắn.....

 

Đi lễ không quá cầu kỳ về đồ lễ vì cõi âm thường: Chứng tâm không chứng lễ.Nếu có lễ thì nên đơn sơ Chúng ta nên dành bớt phẫn lễ để cung tiến, hay giọt dầu. Việc đó tốt hơn vì góp công của xây dựng nhà đền sẽ được nhà ngài chứng tâm nhiều hơn.Cha mẹ nào chả thương con nghèo. Vì thế, không nên đua đòi sắm lễ, đặc biệt là mã cho tốn kém mà không giúp gì cho hưng thịnh đền nhà ngài.Nhà thánh hàng năm nhận hàng vạn mã, vàng thử hỏi có dùng làm chi ở cõi đó. Lễ mã chẳng qua là thể hiện lòng tôn kính mà thôi.

 

Hãy tự mình khấn thì tốt hơn vì các thầy chỉ thay mình khấn hộ nên chỉ khấn được chung chung hoặc chỉ là tên sự việc chứ không thể tả được các khúc mắc trong sụ việc như chính bản thân chúng ta. 

Vì vậy khi thầy khấn xong ta nên tự khấn một mình sau, nếu không thì có thể khấn thầm ngay khi các thầy khấn chung.Lưu ý chỉ khấn nhẩm thầm để tránh ảnh hưởng đến người xung quanh. Nếu ta làm ảnh hưởng đến người xung quanh thì chính chúng ta không tôn trọng chính mình thì há chi nhà thánh còn muốn nghe chi lời trình bày của mình nữa.

 

Một điểm lưu ý thêm là bà con hay có cái tật đi với thầy khi thầy lễ cho người khác thì mình không thèm để ý. Tốt nhất là phải lắng tâm để nghe và cùng lạy tạ cho người ta.Mình không tiếp phúc cho người thì há chi người tiếp phúc cho ta. Mà với nhà Thánh ai chả là con nhà Thánh không thích những kẻ chỉ biết cho chính mình mà quên đi đồng loại.

 

Trong đền có nhiều cung, nếu chúng ta đến từng cung mà khấn đầy đủ mạch lạc là điều bất khả thi bởi ngay chính chúng ta cũng sẽ mất kiên nhẫn để hướng tâm trí vào lời khấn. Vì vậy chúng ta chỉ nên chọn một vị trí khấn đầy đủ tốt nhất là tại Ban Công Đồng nếu không chúng ta vào chính cung của vị thánh chủ đền nếu không còn chỗ thì chúng ta ra bên ngoài cửa đền khấn vọng vào còn hơn phải đứng chen chúc xô đẩy khiến chúng ta không thể nhất tâm trong suốt thời gian khấn.

 

Như bạn đã biết khi khi tâm trí bị đứt mạch thì sợi dây âm dương tiếp nối của chúng ta với cõi âm sẽ bị gián đoạn.Tất nhiên những điều ta khấn sẽ trở thành vô giá trị. Sau đó chúng ta sẽ đến các cung khác vái lạy và xin cảm tạ là đủ. Lý do đơn giản là khi ta khấn vừa rồi là đã khấn các vị đó rồi.Tất nhiên nếu thời gian cho phép chúng ta có thể tóm tắt các điều cần lễ tạ và các điều cần xin

Nên nhớ chỉ tóm tắt thôi nghe.

 

Gọi hồn và các chiêu trò.
Nói về việc gọi hồn mình xin có ý kiến như này.
Gọi hồn về thường là 2 cách:
1. Là xuống tìm linh hồn đó mời họ về.
2. Là các thầy dùng lệnh để lôi về hoặc nhờ vong khác lôi về.
Cái cách thứ nhất thì chẳng có mấy ai làm được
Người làm được cách đó cả nước này may ra có 2 người.
Còn cái cách thứ 2 thì đa số các thầy, cô đều làm đây chính là cái chết của mấy thầy, cô.
Như việc 1 người đang đứng bỗng túm áo lôi đi thì họ đánh cho là phải
Các thầy cô cứ thấy gọi về được tưởng là không sao.
Xin thưa là lúc đó phúc thầy cô còn họ chưa làm gì được
Họ chỉ biết mài phúc dần, phúc mỏng thì họ ập vào đánh cho.
Thế nên mới thầy cô sau này với gia đình sập từ trên xuống dưới là vì đó.
Tiếp nữa là gọi về nhập vào người nhà
Mình xin thưa là gia tiên không bao giờ muốn nhập vào con cháu.
Âm và dương không thể cùng chung.Nhập vào sẽ tổn hại cả 2 bên.
Người dương sẽ mất đi dương khí của người đó mà cụ thể hơn là giảm thọ.
Những người bị nhập biết rõ nhất họ rất mệt mỏi sau mỗi lần bị.
Người âm sẽ bị tổn hại cái tu hạnh của người ta.Khi mà người ta có thể tu vài ba năm người ta có thể siêu thì nhập vào rồi sẽ bị giảm đi lại phải một thời gian dài nữa.
Có cha mẹ nào muốn tổn hại con cháu đâu nên với chân linh gia tiên thì họ biết điều đó nên họ không nhập đâu.
Gia tiên dòng họ có về chỉ ảnh bóng thôi. Tức là với người bị ảnh bóng họ vẫn nhận biết được nhưng có những cái cơ thể họ không điều khiển được.
Lúc mà người thân mất bị đau ở đâu hay như nào đôi khi người con cháu đó thấy đau đúng ở vị trí đó và cảm nhận như thế.
Người con cháu đó nói ra những điều mà tự họ không muốn nói. Lúc ấy là gia tiên chỉ ngồi cạnh bên thôi.
Việc mà gia tiên nhập vào chỉ trừ khi có thầy đắc đạo ngồi trợ khí cho họ không để tổn hại hai bên.
Mà những thầy như vậy lại không bao giờ đi làm gọi hồn vì nó trái quy luật âm dương.
Trường hợp nữa là gia tiên thấy con cháu có nạn muốn cứu mà không có cơ duyên gặp người sang tai cho con cháu
Thì họ về nhập thẳng vào con cháu khi ở trong nhà hoặc ở ngoài mộ chứ chẳng cần đi thầy cô nào đâu và họ vào rất nhanh rồi ra luôn.
Những người nhà bị nhập thế là cái phúc họ đang rất kém rồi nên mới dễ bị nhập như vậy.
Thế đi gọi hồn gia tiên không nhập thì ai nhập???
Xin thưa là toàn vong với quỷ ngoài họ vào thôi
Bản chất của vong là họ cố chấp mới không đi đầu thai họ còn lưu luyến việc họ muốn làm.
Nên họ rất muốn có thân xác để họ làm những việc còn khúc mắc lúc mất.
Vong bình thường họ vào họ chỉ chiếm được xác nhưng không nói được. Quỷ vào thì nói được còn đi lại được.
Sao thấy nhập mà nói đúng lắm cái gì trong nhà cũng biết???
Xin thưa có những vong người ta mất cả mấy chục năm cả trăm năm họ vẫn không siêu.
Nhà bạn có cái gì họ biết rõ hết kể cả tên gia đình đọc từng người.
Chưa kể bạn dám khẳng định xung quanh nhà bạn không có vong nào. Hỏi một cái là ra hết.
Nhập vào mấy ông thầy bà cô???
Xin thưa thế này mấy ông thầy bà cô một là không biết cho vong vào nói.
Hai là họ biết tác hại họ không cho vong vào đâu
Toàn để vong khác đứng ngoài nói cho biết rồi truyền lại.
Còn lắc lư thì ngày nào ngồi cũng lắc dẻo ngay ấy mà.
Việc gọi hồn có nên hay không???
Mình khuyên thật sự là không nên.
Bây giờ một người đã mất rồi đang cố gắng không chấp vào điều gì nữa.
Tự dưng con cháu gọi về kêu con biếu thứ này thứ nọ làm cho người ta bỗng dưng nhớ lại cái chấp niệm lại cao lên làm sao mà siêu thoát được.
Khác gì đang đi học có người dúi tiền kêu đi chơi game.
Cái chúng ta cần là tích công đức là hồi hướng cho gia tiên và thắp nén hương tưởng nhớ họ.
Công đức hồi hướng như là hành trang cho gia tiên trên con đường tu tập.
Còn gia tiên luôn nhớ thương con cháu đôi khi họ lộn lại chính là những con vật trong nhà mà mọi người đang nuôi.
Đôi khi vì miếng cơm manh áo, tiền đóng học phí của mình hay một món đồ chơi cho mình mà ông bà, bố mẹ phải tạo nghiệp để bị đày xuống thế.
Con cháu hãy vì thế mà năng làm việc thiện nguyện để trả ơn gia tiên nhà mình.
Chứ đừng u mê gọi hồn làm gì cả.
 
Thứ nhất căn ai ghế ai bóng ai và sát ai
Căn là gì là gốc là rễ con người ai sinh ra đều mang hàng căn hàng mệnh và có một vị cầm mệnh
Ghế là gì ghế là nhưng người được nhà thánh chấm chọn ví dụ ông bảy chấm đồng thì gọi là ghế ông bảy hoặc một vị nào đó trong tứ phủ chấm chọn để giao phó công việc
Bóng là gì bóng là trường hợp điển hình nhất như kiểu bóng cô chín bóng cô bơ ông bay ông 10 hay các hàng quan lớn đều có tính cách. Ngay thẳng hay bóng cậu hay hờn hay dỗi đó là bóng
Còn đã là con nhà thánh phải biết rằng kinh ghế nhà ngài có rất nhiều bóng thánh ngự và nhiều căn các vị có nhưng trường hợp thầy không soi được căn được quả dẫn đến đi sai đường
Trường hợp phụ khiến các bạn bị cơ là sổ phó úy là sổ sách của tân đồng ví dụ
Con nhà thoải nhưng thầy đưa về thượng ngàn hoặc thiên phủ hoặc con nhà thượng ngàn nhưng đưa về thoải phủ sẽ bị loạn căn loạn bóng
Trường hợp 2 là cơ đồng có những đồng nhân ra đồng song là bị cơ luôn có 2 trường hợp
Thứ nhất là ra đồng trả nghiệp những trường hợp đó là do oan gia trái chủ tìm đến đòi nợ hoặc tiền kiếp hoặc gia tiên tiền tổ tân đồng nợ dẫn đến cơ hành sau mở phủ cách giải quyết
Không được loạn tâm chịu khó tu tập để trat nghiệp cho bản thân và gia tiên tiền tổ sau thời hạn nhất định sẽ hết
Thứ 2 trường hợp thánh cơ số này là hy hữu
Mục đích là để cho các lính ghế nếm trải khổ đau mất mát trắng tay rồi mới cho lại có những đồng vì nặng nghiệp nặng duyên nên khổ nhiều năm
cơ trước khi ra đồng 2 phần
1 là oan gia trái trái chủ nghiệp duyên tìm để ép đồng nhân trả nợ và cơ đày họ
Phương pháp giải quyết là tu tập ra đồng để mượn cửa nhà thánh để tu tập trả nghiệp cho oan gia trái chủ và tu tập cho bản thân mình
Phần 2 là ta ma đeo bám và cơ hành của nhà thánh
có những lính ghế sát bóng âm tà ma sẽ đi theo và đeo bám để hãm hại ví dụ ốp nhập sưng ông này bà nọ ông nọ bà kia các quan các hoàng các mẫu rồi lừa đồng nhân phụ vụ để cho các lộc các phép cấp thấp có trường hợp tà ma dẫn đến thầy chưa đủ đạo chưa đủ tâm đủ đức để giúp khiến cho các bạn loạn đồng loạn bóng và mất niềm tin vào các thánh
Thánh cơ : có những lính những ghế được giao trọng trách đặc biệt nhưng các ngài khảo tâm khảo tính khảo lính khảo đồng
Cho trắng tay điên dở hành kinh kế điều kiện gia đình tan nát rồi tất cả mọi thứ quay ngược hiện tại
Mất niềm tin vào cuộc sống và đồng thầy nhưng khi họ ngộ đạo ra thì họ sẽ hiểu sâu hơn đạo tu tập nhận ra sẽ được quyền cha phép mẫu để cứu khổ độ mê đúng cách
Cách giải quyết
Chịu khó tu tập lấy tâm làm gốc lấy đạo làm đầu năng làm việc thiện bố thí công đức phóng sinh và bạn phải hiểu biết và nhận biết đâu là đúng đâu là sai
Thứ 2 có phải cứ mở phủ là có tiền có của mở phủ là có lộc soi lộc bói hay mở phủ ra là làm thầy thiên hạ
thứ nhất trình đồng mở phủ để làm gì
Trình đồng mở phủ là hình thức bước vào tiến trình cửa hội đồng đình thần tam tứ phủ là bước vào đạo học đạo
Để tu tập và thoát ly khổ ai tham sân si dục vọng chứ k phải là để có tiền Có của rồi làm ông nọ bà kia đồng cô đồng thầy xin lỗi các bạn không có đâu đừng mơ tưởng hão huyền
 
Thứ 2 trình đồng để có lộc soi lộc bói
 
Những người có lộc soi lộc bói đa số là hội đồng chứ tiên chư thánh cắt cử và có những trường hợp được lộc
Gia tiên tiền tổ đi theo hầu cửa thánh chứ không có nghi thức nào mở lộc bói cả chỉ có nghi thức ngả quạt bói dành cho những đồng nhân đã biết bói của phép sơn trang
Trình để có tiền có của làm ông nọ bà kia rồi bị cơ hành
Đây là trường hợp rất nhiều người bị không trình không sao trình là nhà cửa tan nát tiền bạc tiêu tan
nguyên nhân
Do các bạn nghe lời thầy và không hiểu về đạo khi trình ra các oan gia trái chủ tìm về nghiệp nợ
Tìm bạn để bắt bạn cơ hành trả nợ có người trình ra thì ăn lên làm ra có người thì càng làm lễ càng nợ
Càng trình càng khổ rồi đổ lỗi do thầy do ông thánh trách ai trách các bạn quá ảo tưởng tham vọng
Vấn đề thứ 2 liệu có 3 năm thử lính 9 năm thử đồng 12 năm cấp sắc làm thầy có hay không
Theo nhà em được biết là không có cái luật nào là 3 năm thử lính chín năm thử đồng
Đã là con của ngài thì cơ hành thử tâm thử tính thử lính các ngài sẽ thử đến lúc chết và do
Các lính các ghế tu tập có tốt hay không để bề trên cấp sắc âm làm việc và lệnh ấn trao tay có những trường hợp
Trình đồng song trong 1 năm họ đã làm thầy đi trình cho bách gia là đúng chứ kO phải sai họ làm đúng lề đúng lối đúng phép của cha mẹ
còn nhiều lắm nhưng em viết đến đây thôi nguồn em tự suy ra và gặp ở thực tế
 
 
‼️Phân Biệt Vong Tà Và Căn Số 
 
Thời điểm Bây giờ vong tà theo hay có căn cũng không phân biệt được nên tôi viết vài câu
Thường những người trẻ tuổi mới có hiện tượng khác lạ như sau là nghĩ ngay đến căn và vong theo .
hay có hai chiều hướng người có căn cho mình có vong theo và có vong theo thì ngược lại cho mình có căn ....
 
Còn những người nhiều tuổi thì họ đủ chín chắn để nhận định .
Tôi viết vài phần phân biệt đệ mọi người tự cân nhắc
Tuy rằng có căn và vong tà theo nhiều khi có biểu hiện tương đồng nhưng cũng có những điểm nhận ra được .
 
Xem mình có căn với Thánh hay có vong tà bám theo tuy không đủ 100% nhưng cũng hạn chế phần nào
????Dấu + là vong tà
????Dấu - là có căn
+ tự dưng thay đổi tâm tính nhanh chóng hay cáu bẩn vô cớ và không thân thiện.
- người có căn thay đổi tâm tính nhưng luôn thân thiện.
+ nếu vong tiền duyên thì Tình duyên trắc trở, yêu người nào cũng không thành hoặc không ai thèm để ý đến mình
Hoặc đang thích đối phương quay 180° luôn ... Nếu có tiến đến hôn nhân cũng tan vỡ không hiểu vì sao…
- Tự mình tự cảm thấy không muốn yêu hay lúc thì yêu tha thiết nhưng lúc tự dưng chán ghét và hay mơ ước tình yêu trong chuyện cổ tích trên mây trên trời ....
+ Tính tình đột nhiên nóng nảy, có nhiều sự thay đổi lạ lùng theo khuynh hướng xấu không phải do áp lực đè nén gia đình, công việc… và thường không nhận lỗi
- Những người có căn thường hành xử quái lạ nhưng có phần hành vi giống với người có đồng bóng và luôn biết lỗi khi gây ra .
+ Lơ ngơ, thơ thẩn, lần thần như một người hoàn toàn khác không làm chủ được suy nghĩ (không mắc tình hình bệnh lý hoặc hồ sơ liên quan đến tâm thần ).
- Người có căn ngoài lơ ngơ thơ thẩn ra hay biểu lộ những hành vi của đạo như ca múa không kiểm soát, hành động vô thức như lên đồng, hành động và lời nói vô thức khác lạ có phần tâm linh ....
+ Thường xuyên xuất hiện những giấc mơ gặp gỡ “người nào đó” lặp lại nhiều lần nhưng chưa hề quen biết.... Thậm chí sinh hoạt với cả người âm ...Bóng đè....
- Những người có căn thường mơ thấy vong nhưng cũng hay mơ nhiêu thấy Phật Thánh hơn. Thậm chí đi âm được học pháp .... Bay bổng ....kakaka.
+ Thỉnh thoảng nghe những lời thì thầm, những lời nói mơ hồ bên tai như muốn xúi giục một điều gì đó.
- Nhiều người có căn hoặc có năng lực còn giao tiếp nghe hay nhìn thấy hoặc cảm nhận được vong âm , ...
Nhưng cũng hay được ứng báo nhìn thấy Pháp tượng dung nhan Phật Thánh
+ Người có vong tà theo xúc cảm sợ hãi, lạnh lẽo khi nghe thấy kinh kệ hoặc đứng trước di ảnh của Phật, Thánh , đặc biệt tượng hộ Pháp tại đền chùa …
- Những người có căn thì cảm thấy gần gũi và chỉ muốn đến đền chùa.. hoặc nghe hát cúng lễ hay kinh kệ " cảm giác đền chùa như ở nhàhoặc mơ hoặc được báo thấy như vậy ấn quyết sắc lệnh chữ thiên sắc lệnh hội nguyên hoặc làm việc Thánh ...mơ hạ ban quan lớn khi sát âm .
+ Ngủ li bì không muốn làm gì cảm thấy yếu ớt cảm nhận thấy trong người mệt mỏi không có sức sống nhưng khám bệnh không tìm ra nguyên nhân.
- Những người có căn đồng hay oan gia cũng hay bị cơ như vậy .
Nhưng khi đi lễ thường sẽ giảm triệu chứng
+Thường xuyên bị đau nhức nhức một vị trí nào đó trên cơ thể vào buổi tối hoặc đêm nhưng không phải do tình hình bệnh lý bệnh tật gây nên
 
 
-Người có căn bị hành âm hay bị gia đánh âm cũng có triệu chứng đau... thì thường do chống đối hoặc ăn bậy bạ , mà ra như thịt chó ..... Hoặc làm những việc bẩn thỉu bậy bạ .... Hoặc trong lúc này thường thích ăn chay....
+Trong người thỉnh thoảng cáu bẳn vô cớ giận dỗi vô cớ , hoặc thích đập phá , làm một việc gì đó vô trong thức
Trong người đột nhiên cảm nhận thấy buồn chán không rõ nguyên nhân, cảm nhận thấy muốn ƫự ƫử kết liễu cuộc đời.
- Người có căn thì thường không bao giờ nghĩ đến tự tử và thường giỏi chịu đựng .
+ Người có vong theo thường làm việc không khéo léo và hay bị tác động hỏng việc
- người có căn thì làm việc rất khéo léo , và bền bỉ .
Nhưng sự không thành công hay đổ vỡ thì cả hai .
+ người có vong bám hay làm những việc oan trái và hay bị mọi người xa lánh hoặc lé tránh .
- Nhưng người có căn Đặc biệt người có căn hay bị đổ oan . và đặc biệt những người căn sâu hay bị cô lập và bị mọi người cho là lập dị .
+ người có vong theo hay nhớ thù hằn
- nhưng có căn tính hay quên , không để bụng và dễ tha thứ thì người có căn là số một .
+ vong theo thường không được may mắn đột xuất và không linh cảm được những tình huống tương lai .
- có căn thường hay có linh cảm được việc sắp tới và thường may mắn đột xuất ( có nhà Thánh phù trợ )
+ người có vong bám vào đền hay bị trói cứng người
- người có căn cũng vậy nhưng xong khi được giải ra người có căn thường nhẹ nhàng và khỏe hơn .
Có rất nhiều bạn có căn và cũng có vong theo , tôi khuyên các bạn hãy tìm người sủ lý giúp vong tà trước khi quyết định căn số .
 
Cũng chúc mừng các bạn có trên 80% cả dấu + lẫn - người đó quá gan lỳ không chịu tín Thánh mà quy hàng .
 
Mấy lời cho các bạn tự phân biệt tuy không đầy đủ nhưng hy vọng giúp ích phần nào cho tình trạng người người ra đồng ai cũng có căn hiện nay .

 

 

 

 

http://xemboimienphi.vn/
https://www.facebook.com/BaoVeDaoMauVietNam0966662332
https://www.facebook.com/XEMBOIMIENPHIONLINE0966662332/
https://www.facebook.com/groups/xemboimienphivn0966662332/

 
 

ĐẠO MẪU VIỆT NAM

Liên hệ

Trang Chia Sẻ Tâm Linh Cho Người Việt

 

XEM BÓI MIỄN PHÍ ONLINE 0966662332

 

  

XEM BÓI MIỄN PHÍ ONLINE 0966662332

XEM BÓI MIỄN PHÍ ONLINE 0966662332

 

zalo