Mẫu Liễu Hạnh – Vân Hương Thánh Mẫu
Mẫu Liễu Hạnh là con gái thứ hai của Vua Cha Ngọc Hoàng Đại Đế. Mẫu là một trong Tứ Bất Tử ở Việt Nam với sự tích Ba lần Giáng Sinh.
Mẫu Liễu Hạnh là thần chủ đứng đầu trong Tín Ngưỡng Thờ Mẫu Tam Phủ ở Miền Bắc. Nhiều tỉnh đều có đền thờ Mẫu và công nhận là di tích quốc gia.
Quảng Cung Linh Từ Phả Ký
Cát Thiên Tam Thế Thực Lục
Hiện đang lưu giữ ở địa phương do Ban quản lý di tích danh thắng của tỉnh Nam Định sưu tầm & một số tài liệu trong Hội đồng khoa học lịch sử Nam Định thẩm định thân thế và sự tích Mẫu Liễu Hạnh như sau:
Vào đầu thời nhà Hậu Lê, tại thôn Quảng Nạp, xã Vỉ Nhuế, huyện Đại An, phủ Nghĩa Hưng, trấn Sơn Nam, có ông Phạm Huyền Viên kết duyên cùng bà Đoàn Thị Hằng cùng xã Vỉ Nhuế.
Hai ông bà là những người hiền lành, tu nhân tích đức nhưng hiềm một nỗi đã ngoài 40 mà chưa có con.
Vào trăng rằm tháng hai, ông bà được báo mộng là Ngọc Hoàng sẽ cho con gái thứ hai là Công chúa Hồng Liên đầu thai làm con, từ đó bà có thai.
Năm 1433, ngày 6 tháng 3 trước khi sinh trời quang mây vàng có ánh hào quang. Ông Huyền Viên ngồi đợi tin mừng, bỗng như có một nàng tiên từ trong đám mây bước xuống thềm nhà và bà sinh một bé gái. Vì vậy ông đặt tên con là Phạm Tiên Nga.
Tiên Nga càng lớn càng xinh đẹp, mọi việc nữ công gia chánh đều thành thạo, đảm đang. Đến năm 15 tuổi đã có nhiều người đến dạm hỏi nhưng nàng đều khước từ vì nàng còn phải ở nhà chăm sóc cha mẹ già yếu, canh cửi quán xuyến công việc gia đình.
Năm 1462, ngày 10 tháng 10 cha của Tiên Nga qua đời. Hai năm sau mẹ của nàng cũng về nơi tiên cảnh. Tiên Nga đã làm lễ an táng cha mẹ ở phía đông nam phủ Nghĩa Hưng (nay là đền thờ thân phụ, thân mẫu).
Sau 3 năm để tang cha mẹ, lo mồ yên mả đẹp. Tiên Nga vừa tròn 35 tuổi, nàng bắt đầu đi khắp nơi làm việc thiện
Nàng ủng hộ tiền của và công sức giúp dân đắp đê ngăn nước Đại Hà từ bên kia phía núi Tiên Sơn (nay là núi Gôi) đến Tịch Nhi (đường đê Ba Sát, nối di tích Phủ Dầy với Phủ Quảng Cung).
Nàng cho làm 15 cây cầu đá, khơi ngòi dẫn nước tưới tiêu, khai khẩn đất ven sông, giúp tiền bạc cho người nghèo, chữa bệnh cho người ốm, sửa đền chùa, cấp lương bổng cho các vị hương sư, khuyên họ cố sức dạy dỗ con em nhà nghèo được học hành.
Năm 36 tuổi, Tiên Nga đến bờ Sông Đồi dựng một ngôi chùa trên mảnh vườn nhỏ, đặt tên là Chùa Kim Thoa. Bên trên thờ Quan Thế Âm Bồ Tát, bên dưới thờ Mẹ Cha.
Năm 38 tuổi, nàng tu sửa chùa Sơn Trường (Nam Định), chùa Long Sơn, chùa Thiện Thành ở (Hà Nam). Ở chùa Đồn Xá, nàng chiêu dân phiêu tán, lập ra làng xã, dạy dân trồng trọt, nuôi tằm, dệt vải.
Năm 1472, Tháng Giêng Tiên Nga trở lại chùa Kim Thoa và tháng 9 năm ấy nàng trở về quê cũ cùng bà con tu sửa đền thờ Tổ Phạm họ khang trang bề thế (đền ở xóm Đình thôn La Ngạn). Sau đó nàng lại đi khắp nơi trong làng xã, khuyên răn bà con dân làng những điều phải trái.
Năm 1473, ngày 2 tháng 3 trời đất nổi gió cuốn, mây bay, giông, Tiên Nga hoá về trời. Năm đó bà vừa tròn 40 tuổi.
Ngay sau khi nàng hoá, nhân dân xã La Ngạn, huyện Đại An, phủ Nghĩa Hưng đã lập đền thờ trên nền nhà cũ, gọi là Phủ Đại La Tiên Từ (Nam Định).
Đồng thời quê mẹ của nàng cũng lập đền thờ để tưởng nhớ công lao của nàng, gọi là Phủ Quảng Cung (Nam Định).
Năm 1557, Tiên Nga vì thương nhớ cha mẹ và quê hương ở cõi trần, nàng lại giáng sinh lần thứ hai làm con ông Lê Thái Công và bà Trần Thị Phúc tại thôn An Hải, xã Vân Cát, huyện Thiên Bản, hạt Sơn Nam Hạ (nay là xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, Nam Định). Nơi này cách cách quê cũ Vị Nhuế Mẫu Liễu Hạnh giáng sinh lần thứ nhất tầm 7km.
Do ông Lê Thái Công nhìn mặt con, thấy nét mặt giống nàng tiên nữ bưng khay rượu trong bữa tiệc chúc thọ Ngọc Hoàng mà ông mơ trước đó nên đặt tên cho con là Lê Giáng Tiên.
Lần này, bà kết duyên với ông Trần Đào Lang sinh được một người con trai, tên là Nhân, một con gái tên là Hòa.
Năm 1577, mồng 3 tháng 3 lúc gia đình đang yên ấm, vui vẻ thì nàng không bị bệnh mà hoá, tròn 21 tuổi.
Lăng mộ và đền thờ Mẫu Liễu Hạnh ở di tích Phủ Dầy tại xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, Nam Định.
Giáng Tiên về trời đúng hạn định theo lệnh của Vua Cha Ngọc Hoàng. Nhưng khi nàng đã ở trên trời thì lòng trần lại canh cánh, ngày đêm da diết trong lòng nỗi nhớ cha mẹ, chồng con nên nàng muốn xuống trần gian lần nữa.
Khi về đến nhà vừa đúng lúc gia đình đang làm giỗ mãn tang cho nàng, mọi người đều hết sức ngạc nhiên và vô cùng sung sướng.
Nàng ôm lấy mẹ mà khóc, rồi kể hết sự tình, dặn anh hãy gắng lo chăm sóc cha mẹ, vì lần này xuống trần nàng không thể ăn ở như lần trước, rồi trở về nhà chồng. Tiên Nga gặp chồng, con cái vừa mừng mà vừa buồn.
Nàng cũng kể rõ mọi chuyện cho chồng biết, khuyên chồng hãy cố gắng luyện chí, yên tâm theo đuổi sự nghiệp công danh, đừng quên chăm sóc con thơ, phụng dưỡng cha mẹ. Nàng quét dọn, sửa sang nhà cửa, may vá quần áo cho chồng cho con, rồi bỗng chốc lại giá võ đằng vân.
Cứ như thế, thỉnh thoảng nàng lại hiện về, làm xong các việc rồi lại biến đi. Ròng rã hàng chục năm sau, cho đến khi con cái khôn lớn và Đào Lang công thành danh toại, nàng mới từ biệt để đi chu du thiên hạ.
Trận giao chiến trên Đèo Ngang
Năm 1385-1433, thời vua Lê Thái Tổ trị vì. Lần ấy, Tiên Chúa đang hóa phép thành cô gái, mở quán bán cho khách bộ hành ở chân đèo Ngang (Hà Tĩnh).
Lời đồn đại về một cô gái nhan sắc tuyệt vời bỗng đâu xuất hiện ở nơi đèo heo hút gió, làm cho mọi người hết sức ngạc nhiên. Rồi chỗ nào cũng thấy thì thào bàn tán. Chẳng mấy chốc, lời đồn đại cũng tới tận kinh đô đến tai hoàng tử sắp kế nghiệp đến tìm Tiên Chúa nhưng bị nàng làm thành một kẻ ngẩn ngơ, điên điên dại dại.
Cả hoàng triều bối rối, lo sợ. Tìm thầy tìm thuốc có đến cả tháng mà bệnh tình hoàng tử vẫn không thuyên giảm. Nhà vua nhờ sự giúp đỡ của tám vị Kim Cương đã lừa bắt được Tiên Chúa. Họ đưa Tiên Chúa về kinh để hỏi tội.
Sau khi nghe Tiên Chúa kể lại hành vi của Hoàng tử, Nhà vua đành phải ngậm bồ hòn làm ngọt, nói lời cảm tạ rồi chúc Tiên Chúa lên đường may mắn.
Cuộc gặp gỡ Phùng Khắc Khoan & Mẫu Liễu Hạnh
Theo dân gian, ông đã gặp Mẫu Liễu Hạnh cả hai lần và đều có làm tờ xướng họa:
Lần thứ nhất gặp ở chùa Thiên Minh (Lạng Sơn) khi ông đi sứ về.
Lần thứ hai ở Hồ Tây (Hà Nội) khi ông cùng với hai bạn họ Ngô và họ Lý đi chơi thuyền.
Lần ở Hồ Tây, người tiên kẻ tục bèn làm thơ xướng họa liên ngâm. Sau này được nữ sĩ Đoàn Thị Điểm chép trong truyện "Vân Cát Thần Nữ" ở tập Truyền kỳ tân phả của bà.
Theo nhà nghiên cứu Bùi Duy Tân, thì bài thơ ấy được đặt tên là Tây Hồ quan ngư (Xem cá Hồ Tây). Bản tiếng Việt do Phan Kế Bính dịch có tên là Cảnh Hồ Tây.
Theo "Nam Hải Dị Nhân" của Phan Kế Bính thì Mẫu Liễu Hạnh vân du đến miền xứ Lạng. Lúc Phùng Khắc Khoan đi sứ từ Trung quốc về đến Lạng Sơn ông thấy một cô gái xinh đẹp ngồi dưới ba cây thông trước sân chùa, vừa đàn vừa hát.
Tam mộc sâm đình, tọa trước hảo hề nữ tử
Chữ ba 三 hợp với chữ mộc 木 (cây) thành chữ sâm 森 (cây cối rậm rạp)
Cụm 好... 女子 - hảo...nữ tử
chữ nữ 女 (con gái) hợp với chữ tử 子 (con) thành chữ hảo 好 (tốt đẹp)
Người con gái nghe vậy, đối ngay:
Trùng sơn xuất lộ, tẩu lai sứ giả lại nhân
Chữ 重 chữ sơn 山 (núi) chồng lên nhau thành chữ xuất 出 (đi ra)
chữ lại 吏 (làm việc quan) hợp với chữ nhân 人 (người) thành chữ sứ 使 (người được vua phái đi)
Phùng Khắc Khoan hết sức kinh ngạc bèn nói tiếp:
Sơn nhân bàng nhất kỷ, mạc phi tiên nữ lâm phàm.
Cô sơn nữ ngồi ở ghế, phải chăng là tiên nữ giáng trần? Nhưng lắt léo ở chỗ:
chữ sơn 山 và chữ nhân 人 ghép lại thành chữ tiên 仙
Chữ bàng có bộ kỷ 几. Chữ nhất一 và chữ kỷ ghép lại thành chữ phàm 凡
Văn tử đới trường cân, tất thị học sinh thị trướng
Ông nhà văn chít khăn dài, chính thị học sinh nhòm trướng. Câu đáp không những lịch sự, dí dỏm mà chơi chữ cũng hết sức tinh vi:
Chữ văn 文 và chữ tử 子 ghép lại thành chữ học 斈 (學)
Dưới chữ đới 帯 có bộ cân 巾. Chữ trường 長 và chữ cân ghép lại thành chữ trướng 帳)
Phùng Khắc Khoan vô cùng khâm phục cô gái. Ông cúi đầu làm lễ, lúc ngẩng đầu thì cô gái đã biến mất. Chỉ thấy trên thân cây gỗ viết bốn chữ:
Cây gỗ là bộ mộc. Mộc 木 thêm chữ mão 卯 là chữ liễu 柳.
Mộc 木 thêm chữ khẩu 口 là chữ hạnh 杏
Người con gái khi nãy là Liễu Hạnh Công Chúa
Và kế bên tấm biển cũng có bốn chữ:
Bộ băng 冫 đi với chữ mã 馬, chính là họ Phùng 馮 của ta. Chữ dĩ 已 nằm cạnh chữ tẩu 走, chính là chữ khởi 起. Có lẽ Mẫu Liễu Hạnh dặn Phùng Khắc Khoan phải khởi công sửa lại ngôi chùa này.
Sau đó, Phùng Khắc Khoan cho người tu sửa lại ngôi chùa khang trang.
Hiện nay những câu đối, những dấu tích về 2 lần gặp gỡ tại Lạng Sơn và Phủ Tây Hồ còn lưu lại ở Phủ Mẫu Thượng (Long Nga Linh Từ) (nơi Phùng Khắc Khoan gặp Mẫu Liễu Hạnh lần đầu) và Phủ Tây Hồ (lần gặp thứ hai).
Tái hợp với Đào Lang (chồng kiếp trước)
Năm 1650, Liễu Hạnh Vì tình nghĩa thuỷ chung với chồng con ở trần thế nên vân du đến làng Tây Mỗ, xã Hà Thái, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá.
Vào mồng 10 tháng 10 năm Canh Dần, tái hợp với Trần Đào Lang lúc này đã tái sinh là Mai Thanh Lâm, sinh được một con trai tên là Cổn.
Năm 1668,ngày 23 tháng 12 Nàng hóa về trời. Năm ấy bà vừa 18 tuổi. Đền thờ Mẫu Liễu Hạnh ở Sòng Sơn, Thanh Hoá.
Sau khi hóa về trời, do vẫn còn tâm nguyện giúp đời nên Tiên Chúa khẩn thiết xin Vua Cha Ngọc Hoàng Đại Đế cho trở lại cõi trần gian.
Vua Cha lắng nghe và hiểu rõ tất cả. Ngài cho gọi hai thị nữ tin cậy là Quỳnh Hoa và Quế Hoa, bảo cùng đi với Tiên Chúa.
Lần này Liễu Hạnh giáng xuống Phố Cát, huyện Thạch Thành, Thanh Hoá. Ở đây, cũng như những lần trước Tiên Chúa thường hiển linh giúp đỡ người lành, trừng trị kẻ ác. Nhân dân cùng nhau góp của góp công, dựng một ngôi đền để lấy chỗ phụng thờ Tiên Chúa.
Những sự việc ấy lọt đến tai vua Lê chúa Trịnh. Hai vị vua chúa cho rằng trước kia tiên vương thả "yêu nữ" ra là một sai lầm, bây giờ đã đến lúc cần phải thẳng tay trừng trị. Bởi vì không thể có luật lệ nào khác ngoài luật lệ của vua chúa và ai muốn làm gì cũng không được tự quyền.
Thế là hai vị cho triệu hồi các thuật sĩ tài giỏi trong nước đến kinh đô trong đó có Tiền Quân Thánh (vốn là tướng nhà trời, do mắc lỗi, đã bị đày xuống trần làm con trai thứ ba của một vị thượng sư, sư tổ của phái Nội đạo tràng), giao cho dẫn một đội quân hùng mạnh, đến thẳng miền Phố Cát để đánh dẹp.
Biết là không thể chống cự lại được, Tiên Chúa bảo Quỳnh Hoa, Quế Hoa tìm cách trốn đi, còn tự mình cũng hóa phép thành đứa trẻ, rồi lại hóa phép thành con rồng có vẩy vàng vẩy bạc múa lượn trên không.
Tiền Quân Thánh lúc ấy ngồi trên voi chín ngà niệm thần chú tung lưới sắt ra chụp lấy. Tiên Chúa bị bắt rồi hiện nguyên hình trở lại.
Giữa lúc ấy Phật tổ xuất hiện giải cứu cho Liễu Hạnh. Khi vừa thấy Phật tổ, Tiền Quân Thánh liền sững lại, thay vì vậy đã sai quân lính mang đến cho nàng một bộ quần áo cà sa và một chiếc mũ ni cô. Nàng nhận áo mũ rồi thoắt biến lên mây cùng với Phật tổ.
Phủ Tiên Hương vẫn còn lưu giữ được được nhiều sắc phong của các triều đại sắc phong cho Thánh Mẫu (sớm nhất là đời Lê Chính Hòa, rồi đến Lê Vĩnh Thịnh, Lê Vĩnh Khánh đầu thế kỷ XVIII):
Mẫu Nghi Thiên Hạ (Mẹ của muôn dân)
Ngoài ra, Mẫu Liễu Hạnh được các triều Vua từ thời Lê đến thời Nguyễn sắc phong:
Chế Thắng Hòa Diệu Đại Vương
Quần Thể Di Tích Lịch Sử Văn Hóa Phủ Dầy
Quân thể Phủ Dầy tọa lạc tại thôn Tiên Hương, xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định với 20: Đền, Phủ, Lăng, Chùa. Trong bài viết này, mình sẽ đi chi tiết vào 3 nơi chính:
Đây là những địa danh lớn nằm trong trung tâm Quần Thể Di Tích Lịch Sử Văn Hóa Phủ Dầy, nơi gắn liền với nhiều thần tích Mẫu Liễu Hạnh Giáng Sinh.
Năm 1975, Quần Thể Di Tích Lịch Sử Văn Hóa Phủ Dầy được nhà nước xếp hạng cấp quốc gia.
Năm 2017, Quần Thể Di Tích Lịch Sử văn hóa Phủ Dầy vinh dự tổ chức lễ đón bằng UNESCO ghi danh “Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt” trở thành di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.
Phủ Tiên Hương hay còn gọi là Phủ Chính Tiên Hương, là di tích quan trọng nhất trong quần thể di tích lịch sử văn hóa Phủ Dầy, là nơi chính thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh.
Năm 1663–1671, vào thời Hậu Lê Phủ Tiên Hương được khởi công xây dựng và trải qua nhiều thăng trầm trong lịch sử, đến nay Phủ vẫn giữ được nét cổ kính ngày xưa.
Năm 1996, Phủ Tiên Hương đã được trùng lớn để thờ thân phụ và thân mẫu của Thánh Mẫu Liễu Hạnh, đồng thời được sắp xếp thêm cung thờ Đức Thánh Trần.
Theo dân gian, Phủ có 81 gian thờ Ngự trên thế đất đầu rồng theo hương Tây Nam núi Tiên Hương , hồ Bán Nguyệt xây trước phủ là hàm rồng & phía nam có 1 con lạch chạy dài là vòi rồng.
Hồ bán nguyệt phía trước phủ được có lan can thấp bao quanh bằng đá xanh, có tấm bình phong và hai cầu vượt lối lên xuống đều bằng đá chạm khắc hình con rồng với móng vuốt độc đáo tinh xảo.
Phủ Tiên Hương có bốn cung thờ:
Cung Cấm thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh, Chầu Quỳnh Hoa, Chầu Quế Hoa
Cung Đệ Nhất thờ Tam Tòa Thánh Mẫu
Cung Đệ Tứ thờ Ngũ Vị Tôn Quan
Từ Phủ Chính Tiên Hương đi thẳng tới Ủy ban nhân dân xã Kim Thái, rẽ bên trái là đi tới Phủ Vân Cát.
Phủ Vân Cát là một công trình di tích lịch sử quan trọng trong hệ thống các di tích thuộc Quần thể Phủ Dầy, bên cạnh Phủ Chính Tiên Hương và lăng Mẫu Liễu Hạnh.
Năm 1975, Phủ Vân Cát đã được Nhà nước xếp hạng Di tích lịch sử cấp quốc gia nhờ những giá trị lịch sử và văn hóa tâm linh của dân tộc.
Nằm ở phía Bắc thôn Vân Cát thuộc xã Kim Thái, cách Phủ Chính Tiên Hương chừng 1 km về phía Tây Nam, Phủ Vân Cát được xây dựng trên một khu đất rộng khoảng 1 hecta, quay về hướng Tây nhìn dãy núi Tiên Hương (núi Ngăm).
Từ ngoài vào, phía trước phủ Vân Cát là hồ bán nguyệt xây bằng đá xanh, đây là đặc trưng của các phủ tại quần thể Phủ Dầy. Giữa hồ bán nguyệt có một phương du nằm ở ngay chính giữa và có hai cầu đá dẫn lối lên xuống. Phương du gồm có ba gian làm bằng gỗ lim, mái có góc uốn cong, xung quang lan can thấp ghép bằng những tường hoa đá.
Phủ Vân Cát có 4 cung thờ như Phủ Tiên Hương. Cung Đệ Nhất và Cung Đệ Nhị đều được xây dựng ba gian, được tôn tạo và mở rộng từ đời Tự Đức năm Kỷ Mão (1879). Cả hai cung này đều bị giặc Pháp phá hủy bằng ném bom.
Năm 1959, dân làng xây dựng lại cung Đệ nhất.
Năm 1992, cung Đệ nhị mới được tôn tạo.
Cung đệ nhất là chính cung khép kín thờ Tam tòa Thánh Mẫu, tượng bằng đồng gồm có Mẫu Đệ nhất Thượng Thiên ngồi giữa, Mẫu Thượng Ngàn ngồi bên trái và Mẫu Đệ tam thoải phủ ngồi bên phải.
Cung đệ nhị thờ Tứ vị chầu Bà và Tam tòa Quan lớn, đặc biệt có hai khám thờ hai bên thờ Ông Hoàng Mười bên phải và thờ Ông Hoàng Bảy bên trái
Cung đệ tam, tại đây có thờ Công đồng tứ phủ, cung này cũng có ban thờ Bà chúa bản đền.
Cung đệ tứ hay còn gọi là tòa Bái Đường, cung này có thờ Quan Giám sát
Trong phủ cũng có cung cấm thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh, nơi đây theo truyền thống chỉ những ngày lễ trọng đại hoặc khai hội mở đền mới mở phủ và rất ít khi được phép ra vào.
Phủ nằm giữa đền làng Vân Cát và chùa Long Vân nơi thờ Phật, vì thế tạo nên một quần thể thờ Phật, Mẫu, Thần. Cùng với Phủ Tiên Hương và lăng Mẫu Liễu Hạnh, phủ Vân Cát đã được Nhà nước xếp hạng cấp quốc gia từ năm 1975 nhờ những giá trị lịch sử và văn hóa tâm linh của dân tộc.
Từ Phủ Chính Tiên Hương đi thẳng tới Ủy ban nhân dân xã Kim Thái, rẽ bên phải đi tới lăng Mẫu.
Năm 1880, theo Nam Định Dư địa chí thì tại Cồn Cá thôn Tiên Hương có một ngôi mộ cổ, quanh năm cây cối xanh tươi tương truyền mộ Thánh Mẫu Liễu Hạnh.
Dân trong làng mỗi khi có bệnh thường ra đây hái lá bẻ cành về sao vàng rồi sắc nước uống nên rất nhiều người khỏi bệnh. Thường thì đến khi hái lá phải thắp hương trên mộ, khấn vái cầu xin sẽ khỏi bệnh.
Nếu tự tiện hái lá, lại đem lời nhạo báng tất bị ốm đau. Nhưng nếu lễ vật ra mộ sám mối thì bệnh lại bình thường. Lễ vật chủ yếu là hương hoa, cốt tâm thành là được.
Chuyện kể rằng có một viên quan nghịch ngợm, về nhà bị ốm lại, người nhà sửa lễ rất to rồi khấn vái qua loa vẻ kiêu căng ngạo mạn, do đó bệnh không khỏi, mà cả vợ y cũng bị sốt cao, sau đó viên quan đó phải thân hành ra mộ làm lễ sám hối thì bệnh tình mới khỏi.
Năm 1820-1840, quan tri huyện Vụ Bản cho người xây dựng theo lối cổ nhưng chỉ xây một trang nhỏ cho mọi người đặt lễ. Đó là lăng mộ Thánh Mẫu Liễu Hạnh trên cá Chép ở xứ Cây Đa thôn Tiên Hương.
Năm 1937, Vua Bảo Đại lấy vợ đã lâu nhưng không có con, Nam Phương Hoàng Hậu cầu tự ở Đền Sòng Sơn (Thanh Hóa) và được Mẫu ban ơn cho Hoàng Tử Bảo Long.
Thánh Mẫu Liễu Hạnh đã báo mộng cho Hoàng Hậu biết mộ của mình ở Miếu xứ đa Phủ Dầy. Để trả ơn đó Vua Bảo Đại đã cho dựng lăng để tạ ơn Thánh Mẫu Liễu Hạnh.
Năm 1938, Vua Bảo Đại đã cho“ hội xuân kinh” triều đình Huế tiến hành hưng công trùng tu xây dựng khu lăng Mẫu hoàn toàn bằng đá xanh và 60 búp sen hồng khang trang to đẹp”. (Theo học giả Trần Đăng Ngọc)
Kiến trúc Lăng mộ Thánh Mẫu Liễu Hạnh
Trung tâm của lăng là Ngôi mộ Thánh Mẫu ghép bằng đá xanh cao hình tám cạnh, từ ngoài bước vào theo bậc tam cấp lên đến mộ phải qua 5 lớp tường toàn bằng đá được chạm khắc, mỗi lớp tường vuông đều có cửa, cửa được bổ trụ bằng đá vuông với ba mặt đều khắc câu đối và đặt trên các thiết bị sen bằng đá hồng nhạt tới 60 nụ sen đá.
Bao quanh lăng mộ là vườn cây bóng mát quanh năm, có 4 cột trụ cao để bốn góc, tạo thành cảnh quan khu lăng mộ thêm trang nghiêm, long trọng.
Ngôi mộ được đặt ngay trung tâm và ở nơi cao nhất của cả khu lăng. Tại bốn cửa ở bậc cuối cùng đều có một bức bình phong bằng đá án ngữ. Phía sau cửa chính, nằm về phía hai góc đối với cửa ra vào là hai nhà bia có cột vươn lên.
Lăng mộ Mẫu Liễu Hạnh đã trở thành di tích không thể thiếu được khi mỗi khách hành hương về với lễ hội Phủ Dầy và ngày càng nhiều khách thập phương về thăm
quan dâng hương lên mộ phần bày tỏ tấm lòng thành kính đối với mẫu.
Mẫu Liễu Hạnh với thần tích Ba lần Giáng Sinh cõi trần cứu độ chúng sanh. Nhiều lần âm phù dương trợ cho Việt Nam, giúp cho chúng sinh giác ngộ quy y theo Phật Pháp Tăng, quy y theo Mẫu trở về với bồ đề là gốc, thiên hạ tôn xưng là "Mẫu Nghi Thiên Hạ".
Nam mô a di Đà Phật!
Nam mô a di Đà Phật!
Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương.
Con xin kính lạy Thánh mẫu Liễu Hạnh, Chế thắng Hoà Diệu, Đại vương Tốỉ linh chí linh.
Mấu Đệ nhất thiên tiên!
Mấu Đệ nhị thượng ngàn!
Mấu Đệ tam thoải cung!
Hương tử con là……………..
Ngụ tại………………..
Hôm nay là ngày………….
Tại: Phủ Tây Hồ, phường Quảng Bá, Quận Tây Hồ
Thành kính dâng lễ vật
Cung thỉnh Tam Toà Thánh Mẫu, vua cha Ngọc Hoàng, Tam phủ công đồng, Tứ phủ vạn linh, hội đồng các Quan, Bát bộ Sơn trang, Thập nhị quan Hoàng, Thâp nhị chầu Cô, Thập nhị quan Cậu, Ngũ lôi thiên tướng, Ngũ hổ thần quan, Thanh Bạch xà Thần linh, chấp kỳ lễ bạc chứng giám phù hộ độ trì cho hương tử con được hưởng: Gia quyến mạnh khoẻ, bình an, đắc lộc, đắc thọ, bách sự như ý…
Hương tử con lễ bạc tâm thành cúi xin được phù hộ độ trì.
Nam mô a di Đà Phật!
Nam mô a di Đà Phật!
Nam mô a di Đà Phật!
Bài văn khấn cầu may trên đây chỉ nên sử dụng tại miếu thờ của bà chúa Liễu Hạnh. Bởi mỗi vị thần, mỗi vị chúa sẽ có bài cúng khác nhau. Chẳng hạn như văn cúng Tứ phủ Công đồng sẽ khác so với văn khấn ban Tam Bảo.