XEM BÓI MIỄN PHÍ 0966662332

Mail: Xemboionlinemienphi.vn@gmail.com

Mail : Xemboimienphi.vn0966662332@gmail.com


Điện Thoại: 0966 662 332

Trang chủ»ĐẠO MẪU VIỆT NAM»LẦN THEO NHỮNG GIẤC MƠ TIÊN

LẦN THEO NHỮNG GIẤC MƠ TIÊN

LẦN THEO NHỮNG GIẤC MƠ TIÊN
Chữa bệnh bằng thơ !!!?
Lê Hóa Chất sinh ngày 01 tháng 01 năm 1952. Cư trú xóm Đồng Văn, xã Nam Lạc, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, bị điên.
Gia đình phải nhốt Lê Hóa Chất trong nhà gỗ ba gian đóng kín để đỡ đi lại lung tung, chửi bới, đập phá, đánh người.
Đó là sự việc xảy ra vào năm 1993, khi tôi đang giúp chữa bệnh ở tại nhà ông Nguyễn Cảnh Đoan, làng Đan Nhiệm, xã Xuân Hòa, huyện Nam Đàn, thì người nhà chú Chất đến gặp tôi cầu cứu.
Tôi nghe bên tai: “ Lê Hóa Chất có mệnh Dược sư, con tấu Thiên cho đầy đủ, nó sẽ khỏi bệnh và Hải Thượng Lãn Ông sẽ độ linh cho làm thuốc cứu đời” .
Tôi liền lấy giấy bút, ứng khẩu ngay bài thơ :
“Việc trời sắc sắc, không không
Nào ai có phúc Mệnh Đồng mới hay
Tưởng Trời cao, tưởng Đất dày
Ai hay Trời Đất giang tay rất gần
Lê Hóa Chất tuổi Nhâm Thìn
Mệnh đồng làm thuốc cứu miền trần ai
Hải Thượng Lãn Ông độ đời
Nhập tâm sắc lệnh, phúc trời ban trao”
Tôi đưa cho người nhà chú Chất và dặn : “ Cứ đưa về cho chú Chất học thuộc lòng là khỏi bệnh”
Người nhà chú Chất rất ngạc nhiên nhưng không dám thắc mắc, cứ đem về nhà theo như lời dặn, đưa tờ giấy qua khe cửa phòng nhốt chú Chất rồi nói lớn: “ Đọc thuộc bài thơ này là khỏi bệnh đấy”
Chất giật lấy tờ giấy và đọc. Cứ đọc mãi cho đến khi thuộc lòng.
Bẵng đi một thời gian, tôi vì công việc bận rộn nên cũng quên mất chuyện đó. Tình cờ một hôm gặp lại chú Chất tại nhà người quen là Lê Thị Cúc ở thôn Đồng Văn, xã Nam Lạc, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Tay bắt, mặt mừng chú Chất hồ hởi kể lại : “ Khi tôi đọc bài thơ của anh đưa cho đến thuộc lòng. Một tối, Quan Ngự Y về, Ngài chữa bệnh cho tôi và dạy tôi làm thuốc. Từ đó, hàng đêm tôi học nghề bốc thuốc do Ngài truyền dạy. Đến nay tôi đã dùng Nam dược cứu chữa được cho nhiều người khỏi bệnh. Câu chuyện này nếu không phải người trong cuộc thì đúng là khó tin ”.
Chị Lê Thị Cúc cũng xác nhận : “ Đúng đấy chú Biên ạ! Kẻ gần, người xa đều đến nhờ chú Chất chữa bệnh. Chú Chất chữa bệnh đơn giản lắm, có khi chỉ mấy lá vặt mà cũng khỏi bệnh”
Chú Chất tiếp lời : “Không biết từ đâu người ta đưa sách Hải Thượng Y Tông Tâm Lĩnh của quan ngự y Hải Thượng Lãn Ông - Lê Hữu Trác, đến cho tôi. Cuốn sách này quý hiếm lắm!”
Tôi dặn : “Chú phải đến tận nơi quê bác Hải Thượng Lãn Ông ở Hương Sơn để tạ ân chú nhé!”
Chú Chất vui vẻ : “Vâng! Em cũng có ý định đó từ lâu nhưng chưa thu xếp để đi được. Thời gian tới dứt khoát phải thực hiện tâm nguyện bằng được”
Cầu con trai : Nam tử Nguyễn Văn Trường
Nguyễn Văn Trợ sinh năm 1962, vợ là Lê Thị Thảo sinh năm 1965. Cư trú thôn 7, xã Cổ Đạm, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Sinh con một bề, có 6 người con gái.
Nguyện vọng của gia đình muốn có một đứa con trai để nối dõi tông đường họ Nguyễn, vì nếu sinh con gái thì sau này sẽ “ mất họ” chẳng còn ai hương khói tiếp quản.
Hai vợ chồng tìm đến gặp tôi đề xuất nguyện vọng và xin giúp đỡ. Tôi thấy lý do cũng hợp tình hợp lý, chỉ có điều băn khoăn là hai vợ chồng Trợ Thảo đều mạnh khỏe, có khả năng sinh nở, mà tại sao đẻ liên tục đến đứa thứ 6 vẫn là con gái? Chắc phải có chuyện gì liên quan đến tâm linh!!?
Tôi tiến hành khóa lễ tổ chức cầu siêu cho các vong linh gia tiên tiền tổ thuộc các thế hệ của họ Nguyễn cùng với gia đình Nguyễn Văn Trợ. Hồn bà Tổ Cô về cho biết :
1.Ngôi mộ ông Nội táng ngay cạnh đường đi, bị động, phải lễ tạ.
2.Nguyễn Văn Trợ đối xử với thân mẫu chưa tốt.
Tôi nói lại hai điều mà hồn phàn nàn, Trợ thú nhận đúng là chưa chăm sóc mẹ già đến nơi đến chốn. Còn việc ngôi mộ của ông táng ngay cạnh đường đi là có thật, nhưng có động hay không thì chẳng rõ.
Tôi hứa với vong linh họ Nguyễn rằng :
- Tôi sẽ theo dõi khi nào Nguyễn văn Trợ biết báo đáp ân dưỡng dục của thân mẫu, thì tôi sẽ làm lễ tạ mộ ông nội động và xin con trai.
Hồn đồng tình.
Một năm sau, làng trên xóm dưới ai cũng thừa nhận là vợ chồng Trợ Thảo từ bấy đến nay có nhiều biến đổi. Nết ăn, nết ở đã khác trước, sống với mẹ rất có hiếu thuận.
Tôi quyết định dâng sớ cầu hồn nam tử thiên giới đầu thai vào nhà Nguyễn Văn Trợ, Lê Thị Thảo, ở thôn7, xã Cổ Đạm, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
Nguyên văn sớ viết : ……………../.
Chúng tôi tiến hành tổ chức lễ cầu tự tại mộ Quan Hoàng Mười, xã Hưng Thịnh, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Ngài đệ nhị Thánh Đức về ký sớ và thông báo : “Khi nào cả vợ và chồng thuộc lòng đạo sớ này, đọc ngược được từ dưới lên trên thì hãy đến quỳ bên mộ ngài Hoàng Mười đọc cho ngài nghe. Đọc suôn chảy và thấm thía nội dung văn sớ, ắt sẽ có hồn nam tử đầu thai “.
Ngày 10 tháng 3 năm 2006, vợ chồng Trợ -Thảo tới mộ đọc sớ theo như lời dạy bảo. Ngày 12 tháng 4 năm 2006 Lê Thị Thảo có thai.
Ngày 6 tháng 01 năm 2007, sinh được con trai, đặt tên là Nguyễn Văn Trường.
Vong linh tên phi công mỹ trả thù
Chú Nguyễn Văn Long, cư trú thôn 12, xã Xuân Thành, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, cùng một số thanh niên trong làng đi tìm hài cốt phi công Mỹ. Họ tìm được một xác phi công , song vì việc thù lao quá ít ỏi, nên họ không giao xác phi công cho cơ quan chức năng. Riêng chú Long thì đưa hài cốt tên phi công Mỹ về dấu ở trong nhà mình.
Sợ cơ quan chức trách bất chợt đến kiểm tra, phát hiện ra và lấy đi, nên chú đã tìm cách dấu ở nhiều nơi : Khi thì để chuồng Lợn, chuồng Bò. Khi cất ngoài nhà vệ sinh. Khi thì cất trên gác. Khi thì chôn trong vườn…. Linh hồn tên phi công Mỹ hợp vía với vợ chú Long là cô Phan thị Hạnh. Từ ngày chú Long đưa hài cốt tên phi công Mỹ về nhà, cô Hạnh cứ đau ốm liên tục, thuốc thang mãi không khỏi.
Một hôm, Hạnh lấy chiếc chăn mà cô hay đắp, trùm lên đầu chú Long. Từ đó, cô Hạnh khỏi bệnh và tên phi công Mỹ lại ám nhập vào người chú Long. Cũng kể từ khi ấy, tình hình chú Long khác thường: Phàm ăn, đòi chia của cải ( bất cứ thứ gì có trong nhà cũng đòi chia đôi). Phần cô Hạnh thì cô giữ. Phần chú Long thì tự chú đập tan bằng hết. Không còn gì để chia chác nữa thì chú Long đòi chia đôi căn nhà đang ở. Vì không thể chia được nên chú đã dùng xăng đổ lên người mình và tự thiêu. Bà con hàng xóm hay tin chạy đến ứng cứu, song chú cũng vẫn bị bỏng nặng. Bệnh viện Bỏng trung ương phải lấy thịt ở đùi, mông vá lên mặt, cổ…. Sau một thời gian chữa chạy, chú Long cũng được xuất viện với những di chứng sẹo trông như người dị dạng và chưa đi được vì gân bị rút lại. Nhưng vẫn đòi ăn ngon và ăn rất nhiều .
Cô Phan thị Hạnh, sau khi biết tin nhóm người đi tìm hài cốt cùng chồng mình, ai cũng dở dở điên điên, không bệnh này thì tật kia. Bèn kể câu chuyện với mọi người trong gia đình, bà con làng xóm. Nghe xong, ai cũng quả quyết rằng chồng cô Hạnh dứt khoát đã bị ma ám.
Được người quen biết mách nước, một hôm, cô đưa chồng tìm đến cửa điện của cô Dương Thị Tuyết ở thôn 6, xã Ngân Thành, để xin soi xét, trừ tà ma, tình cở gặp tôi ở đó. Tôi nhìn chú Long, phát hiện ra ngay là tình trạng thảm hại của chú do vong tên phi công Mỹ vẫn đang ám nhập gây ra.
Tôi dọa :
- Ngươi từ tây bán cầu mang bom đạn sang đây giết người, tội của ngươi phải đọa dưới mười tầng địa ngục.
Tên phi công trả lời:
- Thưa ngài! Mỗi quốc gia có một thể chế luật pháp riêng. Chúng tôi là công dân có bổn phận làm theo đường lối chính sách, chủ trương của nhà nước giao phó. Lỗi đó là của chính phủ Mỹ.
Tôi không ngờ vong hồn tên phi công lại đối đáp trôi chảy như vậy.
Tôi nói tiếp:
- Người đã phá hoại hạnh phúc của một gia đình công dân vô tội Việt Nam.
Tên phi công đáp lại:
- Thưa ngài! Tôi đúng là có tội! Và bộ đội phòng không Việt Nam cũng đã bắn rơi máy bay của tôi khiến tôi bị chết cháy. Tôi tự nhận thấy mình xứng đáng phải bị đền tội như vậy. Song, tôi xin hỏi ngài nắm xương của tôi có tội tình gì mà tên Long lại để vào những nơi ô uế bẩn thỉu , nào là chuồng Lợn, chuồng Bò, hố phân như vậy? Chính tôi xui nó tự thiêu để báo thù đấy!
Tôi thấy tên phi công nói cũng phần nào có lý, bèn hỏi:
- Vậy ngươi có yêu cầu gì?
- Tôi lái chiếc F105 Thần Sấm, bắn tan của tôi, phải đền . Lại cất cho tôi một chiếc xe Ford 4 chỗ ngồi, màu đen. Cùng với hai trăm năm mươi ngàn đô la và một bữa cơm mặn cho 7 người ăn.
Tôi hỏi :
- Sao đông người ăn thế?
- Phi đội tôi có 7 người, đều bị bộ đội phòng không Việt Nam bắn cháy, chết hết cả.
Tôi lại nói:
- Ta cho người nhà đền bù đủ những thứ mà ngươi yêu cầu, ngươi có cam kết buông mệnh cho Nguyễn Văn Long không?
- Thưa ngài! Tôi xin cam kết.
Tôi liền đưa bút, giấy cho Long ( Lúc này là tên phi công đang ám nhập). Long viết vào tờ giấy những chữ tiếng Anh chúng tôi không thể đọc được, sau cùng ký tên.
Tôi đưa tờ giấy cho Phan Thị Hạnh, lại bày cách tổ chức bảy mâm cơm mặn, đặt làm một cái máy bay F105 bằng giấy, một xe ô tô Pho đen 4 chỗ ngồi bằng giấy. Năm cục tiền 100đô la ( tiền âm khoảng 2500 tờ).
Tại nhà Nguyễn Văn Long, Phan thị Hạnh, anh chị em người thân trong gia đình, bà con hàng xóm láng giềng kéo nhau đến giúp bắc rạp, đặt bàn ghế 7 bộ, 7 mâm cơm để mời vong linh tên phi công Mỹ về nhận.
Chú Long từ trên giường chạy ra sân đi quanh bảy mâm cơm, hai tay khoát hơi cơm, thức ăn, cho vào mũi ( Khoảng 20 người chúng tôi và bà con thôn 12 Xuân Thành vô cùng ngạc nhiên, vì lâu nay chú vẫn nằm ốm bẹp ở trên giường, vậy mà nay vùng đứng dậy được, chạy ra sân đi lại như một người bình thường).
Sau khi đến chỗ đặt máy bay, ô tô, chú Long ra hiệu đốt đồ.
Đồ mã hóa xong, chú Long chạy ra cổng ngã lăn quay ra đất.
Tỉnh lại, chú khỏi ốm và trở lại trạng thái như trước khi bị vong ám nhập.
Từ đó đến nay chú đi buôn chè xanh từ Hương Sơn về Nghi Xuân nhập. Cuộc sống gia đình trở lại yên ấm vui tươi.
Phan Trọng Thiết bị câm mà thuyết pháp
Phan Trọng Thiết sinh ngày 17 tháng 7 năm 1985, cư trú tại xóm 8, xã Hồng Lộc, huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh, bị đau ốm đã mười năm. Mới đây lại bị cấm khẩu không nói được.
Ngày 10 tháng 3 năm Mậu Tý, người nhà chở Thiết đến điện cô Dương Thị Tuyết ở thôn 6, xã Xuân Thành, huyện Nghi Xuân theo sự hướng dẫn của cậu Thiết ( Lúc đó bị câm, dùng bút viết lên giấy). Đến nơi, Thiết nằm ngoài bụi cây hoa giấy. Cô Tuyết ra mời, Thiết vẫn không vào điện. Thiết viết vào giấy dòng chữ : “ Mời thầy của cô về đây”
Cô Tuyết điện thoại cho tôi (lúc đó tôi đang làm lễ tại đền Mỏ Hạc). Lễ xong, tôi về ngay Xuân Thành. Đến nơi, tôi thấy cậu Thiết đang nằm dài trên nền gạch hoa dưới giàn cây hoa giấy xanh mát trước nhà cô Tuyết. Tôi bảo Thiết :
- Rửa tay, mặt, vào điện!
Thiết nghe và làm theo. Vào trong điện, tôi thấy Thiết vái lạy rất đẹp. Ngay lúc đó, tôi thấy người mình khác hẳn. Tai tôi nghe vài tiếng : “ Duy Ma Cật! Duy Ma Cật! Duy Ma Cật!” rõ mà ấm áp làm sao. Tôi chờ nghe nữa nhưng không có tín hiệu.
Tôi suy nghĩ : Duy Ma Cật là vị Bồ Tát thông thái về chính pháp Phật. Tôi muốn nhân cơ hội mời ngài thuyết pháp. Tôi ứng khẩu tấu rằng :
“Mậu Tý mồng mười tháng ba,
Phùng Long Biên tấu Tam Tòa, Tam cung
Phan Trọng Thiết - Một mệnh đồng
Ốm đau chạy chữa mười năm chưa lành
Đã mười ngày Thiết mất thanh
Xin trên khai khẩu, viên thành đồng nhân
Duy Ma Cật ngài ban ân
Giáng đàn dạy bảo khuyên răn nhân hiền
Để cho phật tử trần miền
Hiễu rõ pháp Phật vô biên vô cùng
Phép màu sắc tức thị không
Không mà hóa sắc cho đồng phát ngôn “
Tấu xong, tôi thắp ba cây hương, trì chú khai khẩu :
Án, bộ bộ đế, lị già lị đá lị đát, đá nga đá da ( ba lượt)
Kỳ lạ thay! lời chú vừa đọc xong, Phan Trọng Thiết khoan thai nói:
“ Ta là Duy Ma Cật, mượn thân người này đã mười năm. Gia đình không hiểu nên đã đưa đi khắp các bệnh viện dương trần, chỉ tốn tiền chứ làm sao mà chữa nổi. Từ nay ta khai khẩu cũng là ngày bắt đầu làm việc giúp đời. Học sỹ ( chỉ tôi là Phùng Long Biên) phải làm văn sớ đưa đồng tử của ta về trình tại Phủ Hoàng ( đền ông Hoàng Mười ) để nó làm việc giúp đời”
Nói xong, ngài thuyết pháp cho 21 phật tử chúng tôi từ đầu giờ Ngọ đến cuối giờ Dậu ngày 10 tháng 3 năm Mậu Tý . Ai được nghe bài thuyết pháp này mới hiểu được Pháp Phật vô lượng, vô biên. Là một người chưa một lần biết niệm danh A Di Đà Phật mà Thiết biết thuyết pháp Tiểu Thừa, Trung Thừa, Thượng Thừa, Đại Thừa, còn giảng giải thế nào là hiển Kinh, mật Kinh…
Chúng tôi hết sức kinh ngạc và nhận ra rằng phải có nhân duyên và đại phúc mới được nghe buổi giảng pháp này.
Sau đó, tôi và cô Tuyết về lập điện cho Phan Trọng Thiết làm thuốc cứu người từ đấy.
Chuyện cô Trần Thị Sâm có mệnh đồng
Trần Thị Sâm sinh ngày 19 tháng 5 năm 1965 tuổi Ất Tỵ. Cư trú tại thôn 9, xã Cổ Đạm, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
Chồng là Phan Văn Trạch, sinh năm 1962 tuổi Nhâm Dần
Gia đình có 5 người con 4 trai, 1 gái là : Phan Văn Tiến, Phan Quốc Thanh, Phan Chúc Định, Phan Viết Thông, Phan Thị Hoa. Trong đó bốn cậu con trai rất ương bướng ngỗ nghịch, khó bảo.
Cô Sâm đau ốm kéo dài, đi chữa hết viện này, viện kia. Bốc đủ thuốc nam, thuốc bắc. Người ngày càng gầy mòn, trông không còn sức sống. Đã tốn kém gần 30 triệu đồng mà không khỏi bệnh. Ba, mẹ, chồng, con vô cùng lo lắng khi được bác sĩ thông báo cô mắc một căn bệnh hiểm nghèo, hiện tại không có thuốc chữa đặc trị.
Cô Sâm cũng đã tìm đến tôi để xin điều trị, song tôi tử chối bởi lý do cô có mệnh đồng thật, nhưng cô chẳng hiểu gì về tâm linh và cũng chẳng lưu tâm những điều tôi giảng giải, thực chất cô chỉ mong muốn chữa cho khỏi ngay căn bệnh mà thôi.
Tôi nói thẳng : “Đức Phật mặc dầu rất từ bi, hỷ xả, nhưng không phải là bất cứ ai cũng có thể van nài, lợi dụng. Đức Phật chỉ độ trì cho những ai có niềm tin nơi tâm linh và làm theo lời Ngài răn dạy. Cô có tin và làm theo thì tôi mới cứu chữa cho cô được”
Cô Sâm cũng dần dần ngộ ra vấn đề , tin nhờ.
Tôi dâng sớ cho cô tại đền Mỏ Hạc, xã Hưng Thịnh, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An.
Sớ viết :
Nam Mô Long Hoa Giáo Chủ Di Lặc Tôn Vương Phật!
Sớ khai căn -Trình mệnh - Luyện đồng, bốc bệnh cho Trần Thị Sâm
Trần thị Sâm sinh ngày 19 tháng 5 năm Ất Tỵ
Cung Đoài
Mạng Phúc Đăng Hỏa
Xương con Rắn , Tướng tinh con Trâu
Bà Cửu Thiên Huyền Nữ độ mạng
Tiền kiếp :
Sinh tháng 5 thụ thai tháng tám
Lĩnh Nam kiếp trước có uy quyền.
Là người ỷ thế làm nên,
Kiếp này có cả ruộng điền, bò, trâu.
Chân tay có tật mới giàu,
Về sau mới được sống lâu thọ trường.
Cư trú : thôn 9 , xã Cổ Đạm, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh
"Trần Thị Sâm cúi tâu quỳ
Ngửa trông đại đức từ bi thương cùng
Sớ xin khai căn trình đồng
Kinh xin lượng rộng Tam cung, Tam tòa.
Luyện đồng, bốc bệnh an hòa
Mỏ Hạc : Lễ, sớ con ra trình đồng.
Phép màu “Sắc tức thị không”
Không mà hóa sắc mệnh đồng mới hay
Tam Thiên Học sỹ giảng bày
Hoài nghi mới đến nỗi này, Trời ơi!
Ốm đau chạy chữa khắp nơi,
Tật còn, tiền mất, ông Trời biết không?
Rằng không! Đó là Hóa công
Chính là “Sắc tức thị không” nhiệm màu.
Hai vai hai gánh là đâu?
Bất cân, nên để thân đau, lẽ thường
Lẽ ra theo Luật luân cương,
“ Đoạn kiến” là tội không tường pháp môn
May nhờ lượng rộng Thế tôn,
Tha cho biết lỗi, khéo khôn về Trình.
Luân hồi Sinh – Tử vòng quanh,
Trả, vay; Vay, trả xoay vần mãi thôi.
Lĩnh Nam kiếp trước nợ rồi,
Làm quan Án Sát hại người không dao,
Tưởng lời nói gió bay mau,
Ai hay nhân quả ngàn sau vẫn còn
Lời Quan Án Sát gieo oan
Đã ngàn năm lẻ, mãi còn trả, vay.
Kéo dài cho đến kiếp này
Con dùng dao chẳng chán tay chém người
Nhân Quả : Vay, Trả luật Trời!
Không giải, oan nghiệp luân hồi mãi thôi.
Cũng vì mặc cảm ở đời
Sợ làm theo Phật có người cười chê
Nên phải trả Quả nặng nề
Nay con giác ngộ tâu quỳ kêu xin
Khấn đầu lấy Đức Hoàng Thiên
Phủ khăn, bắc ghế con xin trình đồng
Ngửa xin Lục viện, Tam cung
Xóa tội oan nghiệt Lĩnh Nam – kiếp tiền
Để gia nội được bình yên
Tiến, Thanh, Thông, Định, ngoan hiền từ nay.
Khấu đầu, quỳ gối, chắp tay
Khai thông huyệt lạc con nay bệnh lành
Sớ đồng là lệnh Cao xanh
Thuộc lòng hiểu rõ ngọn ngành đắc linh
Mới hay luật của Thiên Đình
Nghiêm khắc mà lại hữu tình, từ bi
Ngẫm thực tiễn mà nghĩ suy
Mệnh đồng ta phải làm gì? Đồng ơi?
Sớ nhận lính viết thành lời
Những mong Phật tử dưới đời nghĩ suy”
Kính thượng sớ!
Mỏ Hạc, ngày 27 tháng 2 năm Kỷ Sửu
Sớ đọc xong, Trần thị Sâm được bóng về luyện đồng, múa, bốc bệnh.
Hai mươi bảy ngày sau bệnh tình thuyên giảm, hết trăm ngày bệnh khỏi hoàn toàn.
Nay đã mạnh khỏe,vui tươi, ngày một hồng hào tươi đẹp.
Cả nhà mừng vui khôn xiết, cả làng lạ lùng bàn tán xôn xao.
Nguyễn thị Bình và vong linh tên lính Mỹ người Pắc Chung Hy
Cô Nguyễn thị Bình sinh năm 1968. Nguyên quán xóm làng Cuồi, xã Thạch Mỹ, huyện Thạch Hà , tỉnh Hà Tĩnh.
Cô lấy chồng tên là Phạm Văn Mến
Cô chú Mến Bình di cư vào thôn 86 xã Eatu, huyện Crôngana, tỉnh Đắc Lắc năm 1991.
Đến năm 1999, cô Bình bị bệnh tâm thần, đã điều trị nhiều bệnh viện ở miền Nam nhưng không hiệu quả. Bác sĩ kết luận cô Bình mắc bệnh Thần Kinh giản, song không điều trị khỏi được.
Cô chú Mến Bình có người anh trai là Phạm Bá Đồng, cư trú ở khối 7, phường Đậu Liêu, thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh. Qua người quen biết giới thiệu , tìm đến tôi trình bày hoàn cảnh nhờ giúp đỡ. Tôi đồng ý nhận lời.
Từ Đắc Lắc, họ tiêm thuốc ngủ liều cao cho cô Bình để đưa về Hồng Lĩnh được thuận tiện. Sáng ngày 16 tháng 4 năm Kỷ Sửu, cô Bình đến Hồng Lĩnh trong tình trạng không nhận ra ai là người trong nhà ( kể cả chồng mình). Tối ngày 16/4, anh em nhà cô Bình theo sự chỉ dẫn của người quen, đưa Bình đến nhà tôi. Tôi phát hiện như sau:
1.Nơi đất ở của cô chú Mến Bình có nhiều vong linh tụ tập, đáng chú ý là linh hồn tên lính Mỹ người Pachunghy hợp mệnh cô Bình, đã ám nhập vào cô một thời gian dài.
2. Nhà thờ chi họ Phạm bị phá, đồ thờ mất, Tổ không có nơi ngự.
3. Sắc phong của Tổ bị mất
4. Cô chú Mến Bình có lần nạo thai, linh hồn oán giận.
Tôi đề nghị họ kiểm chứng bốn điều phát hiện trên xem sai, đúng thế nào?
Ba điều họ trả lời ngay được, đó là: Một lần nạo thai. Một thời gian không có nhà thờ Tổ. Sắc phong của Tổ đã bị mất cùng đồ thờ. Duy tên lính Mỹ thì chẳng biết thực hư ra sao?
Tôi đề nghị gia đình làm lễ cầu siêu, mời Tổ Đức họ Phạm và các hương linh về nói chuyện. Sáng ngày 17 tháng 4 năm Kỷ Sửu, sáu anh em họ Phạm cùng tôi về Chùa Đại Hùng ở khối 7, phường Đậu Liêu, thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh để làm lễ cầu siêu, độ cho 21 hương linh họ Phạm, gốc tổ ở làng Cuồi, xã Thạch Mỹ, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh , và các vong linh trên trạch đất ở của Phạm Văn Mến, Nguyễn Thị Bình ở thôn 86, xã Đattu, huyện Crongana tỉnh Đắc Lắc.
Trong khóa lễ tôi đề nghị 21 hương hồn họ Phạm tha tội cho con cháu hậu sinh về việc để mất đồ thờ, sắc phong và một thời gian không có từ đường thờ Tổ.
Ba kiến nghị trên đều được chấp nhận, khi :
- Quy tu cho 21 hương linh họ Phạm về tu tiến tại chùa Đại Hùng. Phong Phật hiệu và cấp Phó chức vãng sanh tây phương tịnh độ.
- Quy tu cho vong linh trên đất ở về tu tiến tại chùa Đại Hùng, trong đó có linh hồn tên lính người Pachunghy.
- Kính dâng Tổ đức họ Phạm một số lễ phẩm tạ tội việc con cháu hậu thế để mất đồ thờ và sắc phong.
Tổ họ Phạm và 21 hương linh họ Phạm cùng vong linh trên đất ở, đều thống nhất cởi mệnh, rút bệnh cho Nguyễn Thị Bình.
Tôi xin chin thang thuốc lá rừng Hồng Lĩnh và nước giếng tại chùa Đại Hùng cho về sắc uống. Mới ba thang mà sáng ngày 20 tháng 4 năm Kỷ Sửu, vợ chồng cô Bình và chú Mến tìm đường đến nhà tôi báo cáo kết quả : “Vợ tôi đã có nhiều tiến triển tốt, bệnh trạng đã rút nhiều, tinh thần minh mẫn, tỉnh táo, nói chuyện bình thường. Xin thầy cho về Đắc Lắc tiếp tục điều trị tại nhà”.
Tôi trả lời : Phải uống hết chin thang thuốc đầu để trục xuất hết tất cả tà khí mà 10 năm qua tên lính Mỹ đã cướp hồn, mượn thân. Nó nhiễm sâu trong huyết lạc, đường gân, thớ thịt cô Bình.
Tôi hẹn : Ngày 24 tháng 4 này sẽ cấp thêm 9 thang thuốc bệnh và 9 thang thuốc bổ đưa về Đắc Lắc tự uống.
Vợ chồng Mến Bình vui vẻ nghe lời.
6 giờ chiểu ngày 25 tháng 4 năm Kỷ Sửu, chú Mến và cô Bình lên xe ô tô về Đắc Lắc trước sự chứng kiến hoan hỷ của bà con họ Phạm.
Một thời gian ngắn sau đó, cô Bình đã khỏi bệnh hoàn toàn.
Bài học kinh nghiệm :
Bệnh âm phải chữa bằng phương pháp tâm linh mới có hiệu quả.
Có nhiều trường hợp tương tự như cô Bình, người nhà đưa đi điều trị tại Bệnh viện Tâm thần không có kết quả. Sau cùng linh hồn của người sống đành phải bỏ thân mặc cho vong lạ cướp đoạt thân xác.
HẾT CUỐN "LẦN THEO NHỮNG GIẤC MƠ TIÊN"
 

 

 
 

ĐẠO MẪU VIỆT NAM

Liên hệ

Trang Chia Sẻ Tâm Linh Cho Người Việt

 

XEM BÓI MIỄN PHÍ ONLINE 0966662332

 

  

XEM BÓI MIỄN PHÍ ONLINE 0966662332

XEM BÓI MIỄN PHÍ ONLINE 0966662332

 

zalo