Văn khấn lễ Đức Thánh Trần
Trần Triều Hưng Đạo Đại Vương
Hưng Đạo Đại Vương - Trần Quốc Tuấn được người dân Việt Nam tôn sùng như bậc Thánh nên còn được gọi là Đức Thánh Trần.Ngược dòng lịch sử hãy cùng tìm hiểu ông là ai? Công lao của ông đối với sự phát triển của nước non Đại Việt? Vì sao ông lại được nhân dân tôn thờ & phong Thánh? Gia đình của Hưng Đạo Đại Vương - Trần Quốc Tuấn gồm những ai? ..
Hưng Đạo Đại Vương là ai?
Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn (1232? - 1300) là danh tướng thời nhà Trần và cũng là danh tướng trong lịch sử Việt Nam có công lớn trong hai lần kháng chiến chống Nguyên Mông
Ông là tác giả của bộ Binh Thư Yếu Lược (Hay Binh Gia Diệu Lý Yếu Lược) và Vạn Kiếp Tông Bí Truyền Thư (Đã thất lạc).
Ông còn được người dân Việt Nam tôn sùng như bậc Thánh, nên còn được gọi là Đức Thánh Trần.
Tóm tắt cuộc đời Trần Triều Hưng Đạo Đại Vương
An Sinh Vương Trần Liễu lấy bà Lý Thị Thuận Thiên, một hôm bà mơ thấy có người mặc áo bào xanh tự xưng là người trời xuống đầu thai, giật mình tỉnh giấc, từ hôm đó bà mang thai, đủ ngày đủ tháng hạ sinh được một con trai, trong nhà ngào ngạt hương thơm và hào quang, thấy thế nên đặt tên con là Tuấn. Hôm đó vào ngày 10 tháng 12.
Sống trong một gia đình thân vương được chăm nom dạy dỗ học hành tử tế lớn lên trở thành một trang tuấn kiệt xuất sắc, văn võ kiêm toàn, tài năng cái thế, trung trinh nhất mực. Sau này Ngài giúp vua Trần 2 lần chiến thắng giặc Nguyên Mông, ngài lấy Trần Thị Anh Công chúa sinh hạ được 4 vương tử và 2 vương nữ. Các con của Ngài cùng các gia thân gia tướng đều anh dũng phi thường có công trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông.
Cuộc đời Ngài là tấm gương sáng về tinh thần trung hiếu nghĩa chí tín. Muôn đời về sau mãi mãi tôn vinh, các triều đại đều dùng những mĩ từ bậc nhất để tuyên tụng. Vua Trần phong “Quốc công Tiết chế Nhân vũ Hưng Đạo Đại vương” hay đức Thượng từ. Trần Anh Tông phong ông là “Thượng phụ Thượng Quốc công Bắc Bình Đại nguyên soái Quốc công Tiết chế Hưng Đạo Đại vương”
Những năm tháng đất nước thái bình, Ngài lại về sống cuộc sống thanh đạm ở Vạn Kiếp và qua đời ở đó. Ngài mất 20 tháng 8. Đền thờ Ngài rất nhiều nhưng có thể kể đến là Đền Kiếp Bạc (Hải Dương), Cố Trạch, Bảo Lộc (Nam Định), Trần Thương (Hà Nam)...
Đức Thánh Trần ngự đồng
Đức Thánh Trần được các Thanh đồng có căn bên Trần triều hầu, nhưng thường đồng cao đức trọng mới hầu được Ngài, hầu đức Thánh Trần không lên đai thượng (một số người hầu đai thượng là đi ngược lại lối xưa). Ngài ngự đồng mặc áo màu đỏ, thêu hổ phù, thắt nét dài trên khăn xếp, chân mang hia, Ngài có thể múa kiếm hoặc cờ, cờ có thể bằng khăn tấu. Đức Thánh Trần ngự đồng thường chứng giáng cho Thanh đồng đội lệnh, trừ tà sát quỷ, chữa bệnh vô sinh ...
Thân Thế Hưng Đạo Đại Vương:
Ông tên thật là Trần Quốc Tuấn, là con trai của An Sinh Vương Trần Liễu, cháu gọi vua Trần Thái Tông bằng chú. Sinh ra tại Kiếp Bạc, xã Hưng Đạo, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, nguyên quán ở làng Tức Mặc, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. Năm sinh của ông là năm 1231.
Ông vốn có tài quân sự, lại là tôn thất nhà Trần, do đó trong cả 3 lần quân Nguyên - Mông tấn công Đại Việt, ông đều được vua Trần cử làm tướng chống trận. Đặc biệt ở kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ 2 và thứ 3, ông được vua Trần Nhân Tông phong làm Tiết Chế các đạo quân thủy bộ. Dưới tài lãnh đạo của ông, quân dân Đại Việt chiến thắng ở Chương Dương, Hàm Tử, Vạn Kiếp, Bạch Đằng, đuổi quân Nguyên - Mông ra khỏi đất nước.
Sau khi kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ 3 thành công. Đất nước thanh bình. Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn lui về sống ở Vạn Kiếp. Ông đã dựa vào địa thế vùng Vạn Kiếp mà Kiếp Bạc là trung tâm để lập phủ đệ và quân doanh làm phòng tuyến chiến lược giữ mặt Đông Bắc của Tổ Quốc. Ông còn cho trồng các loại cây thuốc để chữa bệnh cho binh sĩ và nhân dân trong vùng.
Muà thu tháng 8, ngày 20 năm Canh Tý, Hưng Long thứ 8, tức ngày 5/9/1300 trái tim người anh hùng đã ngừng đập. Theo lời dặn, thi hài ông được hoả táng thu vào bình đồng và chôn trong vườn An Lạc, giữa cánh rừng An Sinh miền Đông Bắc, không xây lăng mộ. Sau khi ông mất triều đình phong tặng là Thái Sư Thượng Phụ Quốc Công Tiết Chế Nhân Võ Hưng Đaọ Vương.
Nhân dân vô cùng thương tiếc người anh hùng dân tộc đã có công lao to lớn trong cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên - Mông bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ và độc lập dân tộc nên lập đền thờ Ông trên nền Vương Phủ gọi là đền Kiếp Bạc. Dân ta kính trọng vinh danh Ông là Đức Thánh Hưng Đạo Đại Vương lập đền thờ Đức Thánh Trần ở nhiều nơi.
Các Điển Tích về Hưng Đạo Đại Vương:
Lúc thiếu thời:
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư có chép: "Lúc mới sinh ra, có một thầy tướng xem cho và bảo: "[Người này] ngày sau có thể cứu nước giúp đời"."
Khi lớn lên, ông có dung mạo khôi ngô, thông minh hơn người, đọc thông hiểu rộng, có tài văn võ. An Sinh Vương Trần Liễu trước đây vốn có hiềm khích với Chiêu Lăng (Tức vua Trần Thái Tông - Trần Cảnh), mang lòng hậm hực, tìm khắp những người tài nghệ để dạy Trần Quốc Tuấn. Lúc sắp mất, An Sinh Vương cầm tay Trần Quốc Tuấn, trăng trối rằng: "Con không vì cha lấy được thiên hạ, thì cha chết dưới suối vàng cũng không nhắm mắt được". Do An Sinh Vương Trần Liễu lấy người chị của công chúa Lý Chiêu Hoàng là Thuận Thiên Công Chúa, còn Trần Cảnh cưới Lý Chiêu Hoàng khi bà mới 7 tuổi. Sau này Lý Chiêu Hoàng không có con nên năm 1237, Trần Thủ Độ bắt vợ của Trần Liễu lúc ấy có thai ba tháng về làm vợ Trần Cảnh (Chị thay cho em). Chính vì lẽ đó mà Trần Liễu oán giận Trần Cảnh. Trần Quốc Tuấn ghi điều đó trong lòng, nhưng không cho là phải.
Năm 4~5 tuổi, Trần Hưng Đạo theo cha là Khâm Minh Thái Vương (Tức Trần Liễu) đi Ái Châu, nơi giam cầm trọng tội. Trưởng Công Chúa Thụy Bà thương anh cả vô tội bị đầy, bèn năn nỉ anh kế là Trần Thái Tông, xin nhận Trần Hưng Đạo làm con đem về Thăng Long nuôi dạy. Để tránh sự soi mói ghẻ lạnh của triều đình, Trần Hưng Đạo được Trưởng Công Chúa Thụy Bà gửi tại chùa Phật Quang (Làng Khúc Thủy, Cự Khê, Thanh Oai, Hà Nội) nhờ trụ trì chùa dạy dỗ cho tới năm lên 10.
Cướp Ngôi Hay Không:
Đến khi vận nước lung lay, quyền quân quyền nước đều do ở mình, ông đem lời cha trăn trối để dò ý hai gia nô thân tín là Dã Tượng và Yết Kiêu. Hai người gia nô bẩm rằng: "Làm kế ấy tuy được phú quý một thời nhưng để lại tiếng xấu ngàn năm. Nay Đại Vương há chẳng đủ phú và quý hay sao? Chúng tôi thề xin chết già làm gia nô, chứ không muốn làm quan mà không có trung hiếu, chỉ xin lấy người làm thịt dê là Duyệt làm thầy mà thôi".
(Lấy từ tích cũ: Sở Chiêu Vương chạy loạn ra nước ngoài, có người làm thịt dê tên là Duyệt đi theo. Sau đó Sở Chiêu Vương trở về nước, ban thưởng cho Duyệt. Duyệt từ chối và nói: "Nhà vua mất nước, tôi không được giết dê, nay vua về nước, tôi lại được làm nghề giết dê, tước lộc thế là đủ còn thưởng gì nữa".)
Trần Quốc Tuấn cảm phục đến khóc, khen ngợi hai người. Một hôm Trần Quốc Tuấn vờ hỏi con ông là Hưng Vũ Vương Trần Quốc Hiến: "Người xưa có cả thiên hạ để truyền cho con cháu, con nghĩ thế nào...?!?".
Hưng Vũ Vương Trần Quốc Hiến thưa: "Dẫu khác họ cũng không nên, huống chi là cùng một họ!".
Trần Quốc Tuấn ngẫm cho là phải. Lại một hôm Trần Quốc Tuấn đem chuyện ấy hỏi người con thứ là Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng. Trần Quốc Tảng tiến lên thưa: "Tống Thái Tổ vốn là một ông lão làm ruộng, đã thừa cơ dấy vận nên có được thiên hạ".
Trần Quốc Tuấn rút gươm mắng: "Tên loạn thần là từ đứa con bất hiếu mà ra". Trần Quốc Tuấn định giết Trần Quốc Tảng, Hưng Vũ Vương hay tin, vội chạy tới khóc lóc xin chịu tội thay, Trần Quốc Tuấn mới tha.
Sau đó, ông dặn Hưng Vũ Vương: "Sau khi ta chết, đậy nắp quan tài đã rồi mới cho Trần Quốc Tảng vào viếng".
Năm Thiệu Bảo thứ 7, Ất Dậu, 1285, thế giặc bức bách, hai vua ngầm đi chiếc thuyền nhỏ đến Tam Trĩ Nguyên (Sông Ba Chẽ, tỉnh Quảng Ninh ngày nay), sai người đưa thuyền ngự ra Ngọc Sơn (Mũi biển thuộc Châu Vạn Ninh, gần Móng Cái, nay thuộc tỉnh Quảng Ninh) để đánh lừa giặc.
Lúc ấy, xa giá nhà vua phiêu giạt, mà Trần Quốc Tuấn vốn có kỳ tài, lại còn mối hiềm cũ của An Sinh Vương, nên có nhiều người nghi ngại. Trần Quốc Tuấn theo vua, tay cầm chiếc gậy có bịt sắt nhọn. Mọi người đều gườm mắt nhìn. Trần Quốc Tuấn liền rút đầu sắt nhọn vứt đi chỉ chống gậy không mà đi. Còn nhiều việc nữa, đại loại như thế.
Sử gia Ngô Sĩ Liên viết: "Bậc đại thần ở vào hoàn cảnh bị hiềm nghi nguy hiểm, tất phải thành thực tin nhau, sáng suốt khéo xử, như hào cửu tứ của quẻ Tùy (Xem Kinh Dịch) thì mới có thể giữ tròn danh dự, làm nên sự nghiệp. Nếu không thế thì nhất định sẽ mang tai họa. Quách Tử Nghi nhà Đường, Trần Quốc Tuấn nhà Trần đã làm được như vậy."
Quan Hệ Với Trần Quang Khải:
Trước kia Trần Thánh Tông thân đi đánh giặc, Trần Quang Khải theo hầu, ghế Tể Tướng bỏ không, vừa lúc có sứ phương Bắc đến. Trần Thái Tông gọi Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn tới bảo: "Thượng Tướng đi theo hầu vắng, trẫm định lấy khanh làm Tư Đồ để tiếp sứ phương Bắc".
Trần Quốc Tuấn thưa: "Việc tiếp sứ giả, thần không dám từ chối, còn như phong thần làm Tư Đồ thì thần không dám vâng chiếu. Huống chi Quan gia đi đánh giặc xa, Thái Sư theo hầu mà bệ hạ lại tự ý phong chức, thì tình nghĩa trên dưới, e có chỗ chưa ổn, sẽ không làm vui lòng Quan gia và Thượng Tướng. Đợi khi xa giá trở về, sẽ xin vâng mệnh cũng chưa muộn".
Một hôm, Trần Quốc Tuấn từ Vạn Kiếp tới, Trần Quang Khải xuống thuyền chơi suốt ngày mới trở về. Trần Quang Khải vốn sợ tắm gội, Trần Quốc Tuấn thì thích tắm thơm, từng đùa bảo Trần Quang Khải: "Mình mẩy cáu bẩn, xin tắm giùm". Rồi ông cởi áo Trần Quang Khải ra, dùng nước thơm tắm cho Trần Quang Khải và nói: "Hôm nay được tắm cho Thượng Tướng". Trần Quang Khải cũng nói: "Hôm nay được Quốc Công tắm rửa cho".
Trước đây, hai ông tuy một là Quốc Công Tiết Chế, một là Thượng Tướng Thái Sư nhưng do lo lắng về mối thù của Trần Liễu để lại mà có mối hiềm nghi xa cách. Sau khi được Trần Quốc Tuấn tắm cho, hai ông trở nên thân tình, tin tưởng nhau, tình nghĩa qua lại giữa hai ông ngày càng thêm mặn mà. Trong việc giúp đỡ nhà vua, hai ông đều đứng hàng đầu.
Quyền Phong Tước:
Vì có công lao lớn trong cả 3 lần chống quân Nguyên - Mông nên vua gia phong ông là Thượng Quốc Công. Cho phép ông được quyền phong tước cho người khác, từ Minh Tự trở xuống, chỉ có Tước Hầu thì phong tước rồi tâu sau. Nhưng Trần Quốc Tuấn chưa bao giờ phong tước cho một người nào. Khi quân Nguyên - Mông vào cướp, Quốc Tuấn lệnh cho nhà giàu bỏ thóc ra cấp lương quân, mà cũng chỉ cho họ làm Lang Tướng giả chứ không cho họ tước Lang Tướng thực, ông rất kính cẩn giữ tiết làm tôi.
Ông lại khéo tiến cử người tài giỏi cho đất nước, như Dã Tượng, Yết Kiêu là gia thần của ông, có dự công dẹp Ô Mã Nhi, Toa Đô. Các người nổi tiếng khác như Phạm Ngũ Lão, Trần Thì Kiến, Trương Hán Siêu, Phạm Lãm, Trịnh Dũ, Ngô Sĩ Thường, Nguyễn Thế Trực vốn là môn khách của ông, đều nổi tiếng thời đó về văn chương và chính sự.
Bởi vì ông có tài mưu lược, anh hùng, lại một lòng giữ gìn trung nghĩa vậy. Xem như khi Trần Thánh Tông vờ bảo Trần Quốc Tuấn rằng: "Thế giặc như vậy, ta phải hàng thôi". Trần Quốc Tuấn trả lời: "Bệ hạ chém đầu tôi trước rồi hãy hàng". Vì thế, đời Trùng Hưng, Trần Quốc Tuấn lập nên công nghiệp hiếm có. Tiếng vang đến phương bắc, chúng thường gọi ông là An Nam Hưng Đạo Vương mà không dám gọi thẳng tên.
Sau khi mất rồi, các Châu Huyện ở Lạng Giang hễ có tai nạn bệnh dịch, nhiều người cầu đảo ông. Còn có lời đồn rằng, mỗi khi đất nước có giặc vào cướp, đến lễ ở đền ông, hễ tráp đựng kiếm có tiếng kêu thì thế nào cũng thắng lớn.
Trần Quốc Tuấn từng soạn các sách như Binh Gia Diệu Lý Yếu Lược (Quen gọi là Binh Thư Yếu Lược) và Vạn Kiếp Tông Bí Truyền Thư để dạy các Tỳ Tướng, chiêu dụ họ bằng bài Hịch Tướng Sĩ. Trần Quốc Tuấn từng soạn sách để khích lệ Tướng Sĩ dưới quyền, dẫn chuyện Kỷ Tín chết thay để cứu thoát Hán Cao Tổ, Do-Vu-Thát-Đát (Mông Cổ).
Dưới vó ngựa của Mông Cổ, các nước Hồi Giáo hiếu chiến ở Trung Á, các công quốc Moskva, Novogrod (Nước Nga ngày nay) cũng không thể nào bảo vệ được nền độc lập của mình. Lãnh thổ của Đế Quốc Mông Cổ, theo chiều ngang, kéo dài từ Viễn Đông (Gồm cả Triều Tiên) đến tận Moskva, Muhi (Hungary), Tehran, Damascus. Chiều dọc từ Bắc Á xuống tới cả biên giới Ấn Độ, Miến Điện. Trong cơn lốc chinh phục của họ, chỉ có Thái Lan (Giơ lưng chịu giáo để cứu Sở Tử).
Trần Quốc Tuấn dạy đạo trung như vậy. Nhân dân Việt Nam vô cùng kính trọng ông do công lao hai lần lãnh đạo đất nước chống lại được họa Sukhothai, thoát khỏi họa diệt vong nhờ sách lược cầu hòa.
Nhật Bản may mắn nhờ một trận bão biển làm thiệt hại bớt tàu của Mông Cổ & Đại Việt nhờ khả năng lãnh đạo của Hưng Đạo Đại Vương mà giữ được bờ cõi. Mông Cổ không xâm chiếm được Ấn Độ, họ chỉ tiến được đến biên giới miền Bắc Ấn Độ ngày nay và bị chặn lại. Họ cũng chỉ vào được miền Bắc Miến Điện trong một thời gian ngắn rồi phải rút lui. Ngoài Đại Việt đánh bại được đế chế Mông Cổ còn có Java (Indonesia), Ai Cập, Ấn Độ.
*** Năm Thuộc Hạ Tài Giỏi & Trung Thành Của Trần Hưng Đạo ***
Yết Kiêu.
Dã Tượng.
Cao Mang.
Đại Hành.
Nguyễn Địa Lô.
Lấy Dân Làm Gốc:
Tháng 6 năm 1300, Hưng Đạo Vương ốm. Vua ngự tới nhà thăm, hỏi rằng: "Nếu có điều chẳng may, mà giặc phương Bắc lại sang xâm lược thì kế sách như thế nào?". Hưng Đạo Vương trả lời: "Ngày xưa Triệu Vũ Đế (Tức Triệu Đà) dựng nước, vua nhà Hán cho quân đánh, nhân dân làm kế thanh dã, đại quân ra Khâm Châu, Liêm Châu đánh vào Trường Sa, Hồ Nam, còn đoản binh thì đánh úp phía sau. Đó là một thời. Đời nhà Đinh, nhà Tiền Lê dùng người tài giỏi, đất phương Nam mới mạnh mà phương Bắc thì mệt mỏi suy yếu, trên dưới một dạ, lòng dân không lìa, xây thành Bình Lỗ mà phá được quân Tống.
Đó lại là một thời.
Vua nhà Lý mở nền, nhà Tống xâm phạm địa giới, dùng Lý Thường Kiệt đánh Khâm, Liêm, đến tận Mai Lĩnh là vì có thế. Vừa rồi Toa Đô, Ô Mã Nhi bốn mặt bao vây. Vì vua tôi đồng tâm, anh em hòa mục, cả nước góp sức, giặc phải bị bắt. Đó là trời xui nên vậy. Đại khái, nó cậy trường trận, ta dựa vào đoản binh. Dùng đoản binh chế trường trận là sự thường của binh pháp. Nếu chỉ thấy quân nó kéo đến như lửa, như gió thì thế dễ chế ngự. Nếu nó tiến chậm như các tằm ăn, không cầu thắng chóng, thì phải chọn dùng tướng giỏi, xem xét quyền biến, như đánh cờ vậy, tùy thời tạo thế, có được đội quân một lòng như cha con thì mới dùng được. Vả lại, khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước vậy".
Khi sắp mất, ông dặn con rằng: "Ta chết thì phải hỏa táng, lấy vật tròn đựng xương, bí mật chôn trong vườn An Lạc, rồi san đất và trồng cây như cũ, để người đời không biết chỗ nào, lại phải làm sao cho mau phục".
Trần Quốc Tuấn giữ Lạng Giang, quân Nguyên hai lần vào cướp, ông liên tiếp đánh bại chúng, sợ sau này có thể xảy ra tai họa đào mả chăng. Ông lo nghĩ tới việc sau khi mất lại là vì vậy.
Mùa thu, tháng 8, ngày 20, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn mất ở phủ đệ Vạn Kiếp Đạo Đại Vương. Vua Trần Thánh Tông có soạn bài văn bia ở sinh từ của Trần Quốc Tuấn, ví ông với Thượng Phụ (Lã Vọng ngày xưa bên Trung Quốc).
Nhân Dân Sùng Kính Phong Thánh:
Sau khi mất, Trần Hưng Đạo được thờ phụng ở nhiều nơi, trong đó lễ hội lớn nhất ở đền Kiếp Bạc thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương ngày nay, nơi ngày xưa là phủ đệ của ông.
Ông được người dân nhiều đời sùng kính phong Thánh tức là Đức Thánh Trần, đây là điều hiếm hoi trong lịch sử chỉ dành riêng cho vị danh tướng nhà Trần. Ngày lễ chính thức được tổ chức vào ngày ông mất (20 tháng 8 Âm Lịch hàng năm). Nhân dân không gọi trực tiếp tên của ông mà gọi là Hưng Đạo Vương, Hưng Đạo Đại Vương, Đức Thánh Trần, hoặc gọi là Cha (Tháng Tám giỗ Cha, tháng Ba giỗ Mẹ).
Cách gọi danh hiệu của ông cũng khác các vị Vương. Các Vương đều được gọi theo Tước và Tên, như Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải, Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật, còn riêng ông được gọi bằng Họ và Tước là Trần Hưng Đạo. Đây là cách gọi vốn chỉ dành riêng cho các vị vua là Họ và Miếu hiệu (Như Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông). Qua đó có thể thấy dân gian coi ông ngang với các vua Trần.
Các đền thờ Hưng Đạo Đại Vương có thể thấy ở khắp nước Việt Nam.
Tác Phẩm:
- Hịch Tướng Sĩ.
- Binh Gia Diệu Lý Yếu Lược (Hoặc gọi là Binh Thư Yếu Lược).
- Vạn Kiếp Tông Bí Truyền Thư.
Sơ lược về Gia Đình:
Cha Mẹ
- An Sinh Vương Trần Liễu.
- Mẹ: Thiện Đạo Quốc Mẫu Húy Nguyệt.
Anh Em
- Tuệ Trung Thượng Sĩ Trần Tung (Anh trai).
- Vũ Thành Vương Trần Doãn (Anh trai).
- Trần Quốc Khang (Em trai). Năm 1237, khi công chúa Thuận Thiên - vợ Trần Liễu - có mang Quốc Khang 3 tháng thì bị Trần Thủ Độ ép lấy Trần Thái Tông.
- Trần Thị Thiều (Em gái) làm hoàng hậu của Trần Thánh Tông. Mẹ đẻ của Trần Nhân Tông, được phong là Nguyên Thánh Thiên Cảm Hoàng Thái Hậu.
Vợ
Công Chúa Thiên Thành tức Nguyên Từ Quốc Mẫu (? - 1288). Lấy tháng 2 năm 1251.
- Con
Trần Hưng Đạo có 4 người con trai và 1 người con gái. Ngoài ra còn 1 người con gái nuôi.
- Hưng Vũ Vương Trần Quốc Nghiễn (Hiến, Nghiện): Võ Tướng.
- Minh Hiến Vương Trần Quốc Uất: Võ Tướng.
- Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng: Võ Tướng, cha vợ của Trần Anh Tông, ông nội của Tư Đồ Văn Huệ Vương Trần Quốc Triều (Trọng thần của Trần Minh Tông).
- Hưng Trí Vương Trần Quốc Hiện (Nghiễn): Võ Tướng, nhà khai khẩn đất đai.
- Khâm Từ Hoàng Hậu: Vợ vua Trần Nhân Tông.
- Anh Nguyên Quận Chúa: Con nuôi của Trần Hưng Đạo, vợ của Phạm Ngũ Lão.
Câu Nói Nổi Tiếng:
"Bệ hạ chém đầu tôi trước rồi hãy hàng"
"Vua tôi đồng lòng, anh em đoàn kết, cả nước góp sức, nên bọn giặc phải chịu bị bắt"
--- Trần Hưng Đạo ---
"Ta thường tới bữa quên ăn nửa đêm vỗ gối ruột đau như cắt nước mắt đầm đìa.Chỉ giận chưa thể xả thịt lột da ăn gan uống máu quân thù.Dẫu cho trăm thân ta phơi ngoài nội cỏ, nghìn thây ta bọc trong da ngựa cũng nguyện xin làm"
Lời văn thỉnh đức Thánh ông Trần Triều
THẦN TIÊN NGƯỠNG KHẢI TẤU THÁNH TÔN
TỌA THƯỢNG DƯƠNG DƯƠNG NGHIỄM NHƯỢC TỒN
NGUYỆN THỈNH PHÁP ÂM THI HUỆ LỰC
TÙY CƠ PHÒ CẢM NẠP TRẦN NGÔN
QUỐC SỬ KÍ VIỆT NAM TRẦN THỊ
LỊCH ĐẾ VƯƠNG KẾ THẾ TRỊ BÌNH
THIÊN TRƯỜNG, BẢO LÔC ĐỊA DANH
SƠN HÀ DỤC TÚ TRUNG LINH KHAM KỲ
NGOAỊ MAN DI ÚY UY CUNG PHỤC
NỘI TRUNG HOA MỘ ĐỨC TÔN THÂN
THƯƠNG MINH QUÂN HẠ LƯƠNG THẦN
NHẤT ĐƯỜNG NGƯ THỦY LONG VÂN TAO PHÙNG
HỘI NIÊN PHONG HÀ THANH HẢI YẾN
THỜI PHÚC TINH XUẤT HIỆN NAM BANG
TƯỜNG VÂN ÁI ĐÃI LƯU QUANG
HOÀNG THIÊN TÍCH MỆNH NAM BANG GIÁNG TRẦN
ỨNG MỘNG LÝ MÃN TUẦN XUẤT THẾ
THÁC ĐỊNH SINH TRẦN THỊ TÔN VƯƠNG
DUNG NGHI TƯỚNG MẠO ĐƯỜNG ĐƯỜNG
KHUÊ TRƯƠNG VĨ VỌNG ĐỒNG LƯƠNG ĐẠI TÀI
VÕ THAO LƯỢC HÙNG OAI QUÁN CỔ
VĂN KINH LUÂN KHÍ ĐỘ VIỆT NHÂN
TRIỀU BAN BỈ CỰC HOÀNG THÂN
NỘI SAN BINH CHÍNH NGOẠI CẦU ĐỒNG BINH
MƯU QUYẾT THỦY KHỔNG MINH THỨC TRÍ
PHÉP HÀNH SƯ BẠCH KHÍ CHI DOANH
THIÊN CƯƠNG THÁI ẤT TUNG HOÀNH
TỨ KỲ BÁT CHÍNH QUAN TINH TRẬN ĐỒ
TÁC MIẾU ĐƯỜNG QUY MÔ SANG CHẾ
LẬP TRIỀU ĐÌNH CƯƠNG KỈ HƯNG LONG
UY DANH CÁI THẾ ANH HÙNG
BẮC NAM VIẾT THÁNH TÂY ĐÔNG XƯNG THẦN
NIÊN BÍNH TUẤT TRÙNG HƯNG CHI NHỊ
VĂN NGUYÊN TÀO CHÚ ĐẾ ĐẰNG GIANG
VẠN BINH HẢI ĐỘNG BA DƯƠNG
MÃ NHI CỜ HIỆU TƯỚNG CƯỜNG NAN ĐƯƠNG
BÁ LINH KHẤT NGÔ VƯƠNG ĐỚI TỘI
QUÁ NAM THÀNH PHÓ HỘI LẬP CÔNG
NHẤT PHƯƠNG NỖ LỰC KHỞI PHONG
NAM QUAN CAÓ CẤP CỬU TRÙNG KIẾN VĂN
PHÁN TRIỀU THẦN THÙY NĂNG ĐĂNG ĐỊNH
CỨU LƯƠNG DÂN TỤ TẶC GIAN NAN
BÁCH QUAN THƯỢNG TẤU THIÊN NHAN
CỬ TRẦN ĐẠI TƯỚNG TIỄU AN TẶC ĐỒ
ANH TÔN HẠ LONG CHU BÚT TỨ
CHIẾU ĐẶC SAI ĐẠI CỬ TIÊN PHONG
PHỤNG SAI CHIẾU MỆNH CỬU TRÙNG
LĨNH BAN KIẾM ẤN TIÊN PHONG KHỞI HÀNH
THÔNG VẠN BINH TỔNG KIÊM TIẾT CHẾ
QUẢN CHƯ QUÂN NGHỆ CHÍ ĐẰNG GIANG
BÀI SAN THỦY TRÂN QUANG MANG
CỔ MINH LỤC ĐIỀM KỲ CHƯƠNG NGŨ HÀNH
BÁ LINH HỮU KỲ BINH NGŨ CHÍ
THỊ HÙNG TÀI BÁT ÚY VƯƠNG SƯ
MỘC NIÊN THÁNH XUẤT MƯU KỲ
LỆNH SAI TIỀM PHỤC THUỶ TÊ XUYÊN TÀO
TIỀN QUÂN VĨNH LÂM HẦU ĐẠI TƯỚNG
TẢ QUÂN SAI DÃ TƯỢNG GIÁP CÔNG
HỮU QUÂN ÔNG YẾT KIÊU HÙNG
HẬU QUÂN PHÒ MÃ THƯƠNG CÔNG TIẾP TÙY
TÁNH CƯ TRUNG HOÀNG KỲ DIỆU PHÁT
LỆNH CHỈ HUY ĐIỀU BÁC NGŨ QUÂN
UY PHONG LẪM LIỆT NHƯ THẦN
SƠN ĐỒI,THẠCH CHỤY HẢI TẦN BA DƯƠNG
KIẾM NHẤT CHỈ TINH DI VẬT HOÁN
PHÁO LIÊN THANH THIÊN ÁM ĐỊA RUNG
BẠCH ĐẰNG NHẤT TRẬN THỦY CÔNG
TẶC ĐỒ ĐẠI PHÁ HUYẾT HỒNG MÃN GIANG
THÁNH HẠ LỆNH CHIÊU AN DÂN THỨ
THƯỞNG QUAN QUÂN BAN SỨ HỮU SAI
TRUNG QUÂN VÔ TRẬN HOÀN TÀI
NGÂN HÀ TỔNG GIÁP KIÊM BÀI THU BINH
DẪN ĐẠI NGHỊCH BÁ LINH HÀNH KIẾM
GIA TRỌNG HÌNH TRÀM TIỄN PHÂN TAM
KHÍ LỘ KHÍ THỊNH KHÍ GIANG
QUÁCH DI MẪU TÁN, KHÍ TÀN THỊ UY
KHẢI HỒI TÂÚ ĐAN TRÌ NGỰ CHỈ
CHIẾU LỆNH TRUYỀN TƯỚNG SỸ LAI KINH
THÁNH HỒI BÁI TẠ ĐẾ ĐÌNH
CỬU TRÙNG KHAI TIỆC YẾN QUỲNH NGỌC GIAO
TÀI HỘ QUỐC CÔNG CAO ĐỆ NHẤT
SẮC TẶNG PHONG LỘC TRẬT THIÊN TRUNG
NHẤT THIÊN HÒA KHÍ XUÂN PHONG
KÌNH NGHÊ THẤT CHÍ GIẢO LONG ĐẮC THÌ
KÍ NIÊN HỘI TÍNH DI VẬT HOÁN
HỘI TRÍ KỲ MÃN HẠN QUY TIÊN
CỬU TRÙNG CHIẾU TRIỆU HỒI THIÊN
CHÂN KHÔNG THOÁT LÁNH NGHIỆP DUYÊN PHONG TRẦN
PHÉP THĂNG ĐẰNG XA LUÂN BỈNH BỈNH
ÁNH HÀO QUANG HIỂN THÁNH LINH THÔNG
QUANG THIÊN DUỆ NGUYỆT THU TRUNG
NHỊ THẬP NHẬT THÁNH HỒI CUNG THĂNG ĐÀNG
MỘC QUỐC ÂN GIA PHONG THƯỢNG ĐẲNG
TƯỚC ĐẠI VƯƠNG GIA TẶNG THÁI SƯ
TÔN TINH ẨN HIỆN NAM QUY
SINH VI LINH TƯỚNG TỬ VI LINH THẦN
PHÙ NAM QUỐC PHONG THẦN KHẢI TĨNH
BẢO LÊ DÂN CƯỜNG THỊNH KHANG NINH
DƯỢC SƠN CẢNH TRÍ HỮU TÌNH
ĐỊA LINH TỤ KHÍ TRUNG ANH DỊ THƯỜNG
VẠN KIẾP KHỞI DƯỢC SƠN CHÍNH VỊ
TIỀN MINH ĐƯỜNG LỤC THỦY HỢP GIAO
SONG SONG BẮC ĐẨU NAM TÀO
HỒI HÌNH BÁ TƯỚNG HUÂN CAO HÀ THÙ
TRƯỜNG SINH THỦY THẬP THIÊN THU ĐÁO
THỦY KHẤU THÔNG CHÍNH ĐẠO QUANG KHAI
NGHỊ BAN KIẾN LẬP LÂU DÀI
TỨ THỜI PHỤNG SỰ NGƯỠNG BÀI VẠN NIÊN
NGUY NGA CHẤN NAM THIÊN QUỐC TẾ
HIỂN ỨNG NĂNG TẾ THẾ ĐỘ DÂN
BÁ LINH TỨ HIỆN DÂM THẦN
DẠ THƯỜNG QUYẾN LUYẾN PHU NHÂN THAI BÀO
BIẾN NAM NỮ LƯỠNG YÊU TÁC QUÁI
NHÂN DÂN THƯỜNG BỊ HẠI OAN KHIÊN
HỮU SINH VÔ DƯỠNG MỘNG CHIỀN
BỆNH HÀNH KHINH TRỌNG LIÊN MIÊN TIỆT SÀNG
QUY KHÁNH TIỀN PHẦN HƯƠNG BÁI KHẤN
NGUYỆN THÙY TÌNH LÂN MẪN TRẦN GIAN
BÀI SAI HỘ BỘ CÁC QUAN
TỈNH KỲ TRÓC NHÃ PHẠM NHAN GIA HÌNH
TRẤN UY THANH TÀ TINH THẤT SẮC
VẠN DÂN ĐỒNG CẢM ĐỨC MỘC ÂN
HỮU THÙY SINH DỤC GIAN TRUÂN
LINH KỲ THỌ TỊCH NHÂN DÂN THỌ TRƯỜNG
DANH DƯƠNG DƯƠNG TỐI LINH THIÊN CỔ
THẬP TAM TUYÊN KHUÊ THỦ QUY TÂM
NGƯỠ NG CHIÊM THÁNH ĐỨC HOANG THÂM
SỞ CẦU TẤT ỨNG GIÁNG LÂM ĐIỆN ĐƯỜNG
KIM ĐỆ TỬ PHẦN HƯƠNG VỌNG TƯỞNG
DỐC LÒNG THÀNH TÂM TÍN NGƯỠNG ĐẠO CAO
TUÂN Ư QUỐC SỬ TRẦN TRIỀU
SỌAN THÀNH ỨC TẬP LƯU TRUYỀN ỨC DÂN.
VĂN ĐỨC THÁNH ÔNG TRẦN TRIỀU
Truyền Thuyết: Đức Ông Trần triều Hưng Đạo Đại Vương
Trần Hưng Đạo là một danh tướng đời nhà Trần Ông lập chiến công hiển hách qua hai lần tiêu diệt quân Mông Nguyên
Xâm lược Đại Việt "tiếng vang đến phương Bắc khiến chúng thường gọi ông là An Nam Hưng Đạo Vương mà không dám gọi thẳng tên".
Ông mất vào năm 1300 dân kính ngưỡng tôn thờ gọi là Đức Thánh Trần.
Truyền tích về ông được kể lại như sau:
Bà Trần Liễu phu nhân (Lý Thị Nguyệt) vốn là người hiền lương thục đức kính trọng Tam Giáo.Một hôm bà nằm mơ thấy chính sự có việc đại loạn
Từ trên trời cao có vị tiên nhân khoác bạch y hiện ra tay cầm hốt ngọc đề hai chữ "sắc giáng" vị này xưng là Thái Bạch Kim Tinh thừa lệnh Ngọc Hoàng Đại Đế cho Thanh y Đồng tử thác thai làm con bà lĩnh việc cứu dân giúp nước.
Thế rồi bà mang thai một hài nhi, thời gian thai sản lâu hơn người thường và rồi sinh ra cậu con trai khôi ngô tuấn tú bà đặt tên con là Quốc Tuấn
Mới một tuổi Quốc Tuấn đã biết nói, sáu tuổi học hết kinh thư biết nghĩ ra thế trận khôn lường.Cha ông là Trần Liễu biết con có tài thiên bẩm nên luôn rèn đúc để sau này con hay văn, giỏi võ.
Về sau, nhiều lần bọn Mông Nguyên man di mọi rợ kéo sang hòng chiếm nước ta, Quốc Tuấn nói với vua rằng: " Nếu bệ hạ muốn hàng, xin hãy chém đầu thần trước!".Sau khi quốc gia thanh bình ông lui về Vạn Kiếp Trần Thánh Tông hoàng đế cho xây Sinh từ để thờ sống ông, dân xem ông là bậc thượng phụ.
Còn có truyền thuyết kể lại rằng, nguyên xưa kia Đức Thánh Tản Viên thấy luồng khói trắng bay từ núi Tây hóa thành tinh thuồng luồng, xuống nhà người đàn bà kia tư thông, ngài nghĩ ắt hẳn đó sẽ đầu thai thành kẻ gây hậu họa cho nhân gian (tên đó sau này chính là Phạm Nhan Nguyễn Bá Linh, cha là người Tàu Phúc Kiến, mẹ là người Đông Triều, nằm mơ thấy tinh thuồng luồng mà sinh ra hắn), vậy nên Đức Thánh Tản liền đem tâu chuyện đó với Ngọc Hoàng
Ngọc Hoàng hỏi rằng ai có thể xuống hạ phàm để trừ diệt mối hậu họa đó thì có Thanh Tiên Đồng Tử tình nguyện xin xuống phàm để giúp dân. Ngọc Đế ưng thuận sai ban thần kiếm, cờ ấn, tam tài của Lão Tử, ngũ bảo của Thái Công rồi truyền Kim Đồng Ngọc Nữ hộ giá xe mây xuống nước Nam hạ phàm.
Liền đó Vương Mẫu nằm mơ thấy có người áo xanh tự xưng là người của Thiên Đình xuống đầu thai phù đời, từ ấy bà hoài thai, đủ ngày đủ tháng thì hạ sinh được ông, trong nhà ngào ngạt hương thơm và ánh sáng. Vậy nên, trong bản văn cũng có đoạn:
Vương Phụ là Đức An Sinh
Cùng Đức Thánh Mẫu cầm lành hợp duyên
Điềm lành vốn tự thiên nhiên
Thanh Tiên Đồng Tử phút liền đầu thai Chí kì sinh đặng con trai Tài kiêm văn võ ít ai sánh bằng"
Sau này ông giúp vua Trần hai lần chống giặc Nguyên Mông, ông sinh được bốn người con trai (thường gọi là tứ vị vương tử) và hai người con gái (thường gọi là nhị vương cô hay nhị vị vương bà) đều có công lao giúp vua Trần chống giặc Nguyên, ngoài ra trong công cuộc “Sát Thát” còn có rất nhiều đóng góp của vương tế của ông là Phạm Ngũ Lão Điện Súy (thường gọi là Đức Thánh Phạm Điện Súy hay Phù Ủng Đại Vương) cùng các tướng tài của ông như: Dã Tượng, Yết Kiêu (thường gọi là đôi bên Đức Ông Tả Hữu)…
Có thể nói trong công cuộc bảo vệ đất nước dưới thời Trần, có công đóng góp không nhỏ của gia đình ông. Hơn nữa ông còn là người một lòng vì nước vì dân, vì nghĩa lớn mà quên đi mối thù nhà: ông không nghe lời cha giành lại ngai vàng từ tay vua Trần, vậy nên được vua Trần nể trọng, tin tưởng, thường hỏi ý kiến ông về những việc đại sự quốc gia. Ông mất vào ngày 20/8 âm lịch.
Sinh thời, do công lao lớn của mình ông được vua Trần phong là Quốc Công Tiết Chế Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương hay là Đức Thượng Từ. Vua Trần Anh Tông ( xét về thứ bậc thì vừa là cháu lại là cháu rể của ông, vì vua lấy Cô Bé Cửa Suốt_Tĩnh Huệ Công Chúa tức là cháu gái của ông) phong ông là Đức Thượng Phụ Thượng Quốc Công Bình Bắc đại nguyên soái Quốc công Tiết chế Hưng Đạo Đại Vương (tước hiệu này nếu xét theo thời đại của chúng ta thì sẽ là: Ủy viên bộ chính trị, bí thư quân ủy trung ương, Nguyên Súy, Bộ trưởng Bộ quốc phòng. Sau này , khi mất đi tên tuổi ông vẫn vang lừng không chỉ trong Việt Nam mà còn lan ra toàn thế giới (ông là một trong số 10 vị tướng tài ba nhất trên thế giới, cùng với các vị như Nã Phá Luân (Napoleon), Thành Cát Tư Hãn... là những người có ý nghĩa to lớn với lịch sử thế giới ), người ta tôn làm Đức Thánh Trần. Còn trong tín ngưỡng dân gian, người ta thường tôn danh ông là Đức Thánh Ông Trần Triều hay ngắn gọn hơn là Đức Ông Trần Triều.
Hầu giá Đức Ông, trừ tà sát quỷ
Nếu một người có căn số hầu các giá nhà Trần thì giá Đức Ông có thể là giá mở khăn đầu tiên (vì Tam Tòa Thánh Mẫu không tung khăn), tuy nhiên cũng khá hiếm khi có người hầu về Đức Ông mà chỉ khi đại sự cần thỉnh ông về để trừ tà sát quỷ thì mới hầu ông (vì theo quan niệm cổ: “bóng” Đức Ông khá nặng nên không phải đồng cựu đã đội lệnh nhà Trần thì không thể hầu được) hoặc khi đại tiệc mở phủ thường thỉnh ông về chứng đàn Trần Triều (gồm voi, ngựa, thuyền rồng, tráp áo...) hoặc đồng mới tạ phủ và làm lễ đội lệnh nhà Trần. Khi ngự đồng, ông mặc áo đỏ, thêu rồng và hổ phù (có một số nơi hầu ông, chân đi hia, đầu đội mũ trụ), có thể mặc áo choàng bên ngoài, một số vùng hầu ông thường múa thanh đao.
Khi về đồng, Đức Thánh Ông thường làm phép để sát quỷ trừ tinh (điều này chỉ có đúng đồng nhà Trần, có đội lệnh mới có thể làm như thế khi hầu ông) đó là: “lên đai thượng”nghĩa là cầm dải lụa đỏ thắt cổ (khi thắt vào cổ, mặt người hầu thường bạnh ra, đỏ,thì thế mới là thật đồng), lúc này người hầu dâng phải khéo léo móc một ngón tay vào dây thắt cổ để cho dãn bớt (vì dù là thật đồng nhưng Đức Thánh Ông chỉ giáng li giáng lai trên đầu đồng);“rạch lưỡi” nghĩa là dùng con dao hay vật nhọn rạch vào lưỡi người hầu để lấy máu (gọi là Đức Ông ban “dấu mặn”) sau đó phun ra tờ giấy phù hoặc rượu, có người xin giấy phù mang về để hộ thân trừ tà, có người bị tà mà quấy nhiễu lại xin rượu có máu, uống để trục tà; ngoài ra còn có uống dầu sôi, nung nóng bàn cuốc rồi đặt chân lên…
Tuy nhiên, hiện nay, các lối hầu cổ như vậy đã ít dần, chỉ còn một số người khi hầu Đức Đại Vương Trần Triều là có thể làm như vậy. Làm như thế người ta gọi là làm phép nhà Trần ra uy, vậy nên văn hát giá Đức Thánh Ông Trần Triều có một số đoạn như:
“Thánh Ông có lệnh truyền ra
Các quan thủy bộ cùng là chư dinh
Hô vang trấn động Nam thành
Đánh Đông dẹp Bắc tung hoành mọi nơi”
Hay khi Đức Ông về ra uy tróc tà (lên đai thượng hay rạch lưỡi ban dấu mặn) người ta cũng hát rằng:
“Phép ông đôi má thu phình
Lưỡi thời lấy huyết quyết linh thần phù”
Do quan niệm dân gian nên khi có tà mà dịch bệnh người ta thường cầu đảo Đức Thánh Trần để sát quỷ trừ tà, nhất là phụ nữ bị bệnh về sản khoa (theo dân gian, phụ nữ bị bệnh sản khoa là do quỷ Phạm Nhan gây ra, mà Đức Ông lại là người đã chém đầu quỷ Phạm Nhan); ngoài ra có câu chuyện còn kể rằng nếu có giặc dã, vào đền xin Đức Ông mà thấy tráp kiếm có tiếng kêu bên trong thì nhất định là thắng lớn.
Đền thờ Đức Thánh Ông Trần Triều cùng với gia đình và tướng lĩnh của ông được nhân dân lập lên ở khắp nơi nhưng uy nghiêm và nổi tiếng nhất phải kể đến: Đền Kiếp Bạc ở Chí Linh, Hải Dương, được lập lên trên nền dấu tích ở nơi mà năm xưa ngài cho đóng quân doanh Vạn Kiếp, sau đó phải kể đến hai ngôi đền ở đất Nam Định, nguyên quán của ngài, đó là Đền Cố Trạch (Đền Trần) và Đền Bảo Lộc, đều thuộc Thiên Trường, Nam Định. Ngoài ra còn có Đền Phú Xá ở Hải Phòng (tương truyền là nơi đóng quân nghỉ chân năm xưa)
Ngày tiệc Đức Thánh Trần thường được tôn là ngày “giỗ Cha” của toàn thể dân tộc Việt Nam vào ngày 20/8 âm lịch (là ngày Đức Ông hóa) và được tổ chức long trọng nhất tại đến Kiếp Bạc. Ngoài ra vào giữa đêm ngày 14/1 âm lịch còn có tổ chức ban ấn của Đức Thánh Trần tại Đền Bảo Lộc.
Hai vị tướng phò trợ ông là Dã Tượng và Yết Kiêu cũng được suy tôn là Nam Tào và Bắc Đẩu. Đền thờ ông xây trên nền ngôi biệt phủ ngày xưa, gọi là đền Kiếp Bạc, hai bên có đền Nam Tào, Bắc Đẩu chầu vào.
Trong bài chầu văn có câu:
"Dung nghi tướng mạo đường đường,
Khuê trương vĩ vọng đống lương đại tài.
Võ thao lược hùng oai quán cố,
Văn kinh luân khí độ Việt nhân
[...]
Bạch Đằng nhất trận thủy công,
Tặc Nguyên đại phá huyết hồng mãn giang."
Từ đó, tín ngưỡng tôn thờ Đức Thánh Trần lan truyền khắp dân gian Việt Nam và ảnh hưởng đến văn hóa hát văn, hầu đồng Bắc Bộ. Mỗi năm đến ngày 20 tháng 8 âm lịch, người Việt gọi là ngày "tháng Tám giỗ Cha", bá tánh dâng hương cung kính cầu nguyện Ngài phù hộ quốc thái dân an, an cư lạc nghiệp.
"Nghi ngút khói hương không dứt,
Đền thiêng Vạn Kiếp trang nghiêm.
Thiêng liêng thờ phụng tôn sùng,
Sánh với thập phương Bồ tát." _Nguyễn Bỉnh Khiêm