Đương Thiên Cát Nhật Ngày Lành Tháng Tốt
Ngày Tốt Tháng Lành
MÙNG 2 ĐẦU THÁNG 8 NHÂM DẦN NIÊN
“Tháng 8 Giỗ Cha Tháng 3 Giỗ Mẹ” Nghĩa Là Gì?
Cũng như nhiều nơi trên đất nước ta đạo Mẫu có nguồn gốc lâu đời và đặc biệt phát triển trong giai đoạn thế kỉ XVI – XVII cũng như từ thế kỷ XX đến nay nó xuất phát từ một tín ngưỡng của cư dân nông nghiệp nhanh chóng thương nghiệp hóa, gắn với giới thương nhân và cư dân đô thị.Tại Hà Nội chưa kể thờ Mẫu ở đền thì ở hầu hết các chùa đều có điện thờ Mẫu theo mô thức “Tiền phật hậu mẫu” thì chỉ tính riêng các đền điện thờ Mẫu đã có tới 86 nơi. Nếu gộp cả các điện thờ Mẫu trong chùa thì con số lên tới hàng trăm chứng tỏ mức độ phổ biến của tín ngưỡng này.Trong số các nơi thờ Mẫu thì điện thờ Mẫu ở các nhà riêng của các bà đồng ông đồng chiếm số lượng lớn và càng ngày càng phát triển
Tại Hà Nội có những đền thờ Mẫu nổi tiếng như Phủ Tây Hồ một trong ba nơi thờ Mẫu ở nước ta gọi là Phủ đó là Phủ Dày Phủ Sòng Sơn thờ Mẫu Liễu Hạnh kỷ niệm nơi Mẫu Liễu gặp và đàm đạo thơ văn với nhà thơ Phùng Khắc Khoan và các nhà thơ họ Ngô họ Lý. Đền Ghềnh ở Bồ Đề Gia Lâm thờ Mẫu Thoải; đền Dâu ở 64 Hàng Quạt thờ vọng Mẫu Liễu hạnh
Đạo Mẫu là một tín ngưỡng bản địa duy nhất đã hình thành hệ thống điện thần bao gồm vị thần chủ cao nhất là Thánh Mẫu và các vị thần khác gồm cả nữ thần và nam thần, được xếp thành các phủ: thiên phủ, địa phủ, nhạc phủ, nhạc phủ thủy phủ và các hàng: Quan, Chầu,Ông Hoàng, Cô, Cậu…Nghi lễ điển hình của Đạo Mẫu là lên đồng và lễ hội là “Tháng tám giỗ cha, tháng ba giỗ mẹ”. Tháng ba giỗ mẹ Tháng ba là tháng hội của các đền phủ, điện thờ nữ thần nói chung và đạo Mẫu nói riêng.Vào dịp này tại tất cả các đền phủ điện đều giỗ kỵ Thánh Mẫut rong đó giỗ Mẫu ở Phủ Tây Hồ và nghi lễ lớn nhất và điển hình nhất của Hà Nội.Xưa kia vào dịp giỗ Mẫu cũng giống như ở Phủ Dầy đều có đám rước Mẫu từ phủ đền lên chùa để thỉnh mời Phật Bà Quan Âm, vị Phật Mẫu đã giải thoát và mở đường quy y cho Thánh Mẫu Liễu Hạnh
THÁNG 8 TIỆC CHA
Các Ngày Tiệc Tứ Phủ Tháng 8
VUA CHA BÁT HẢI ĐỘNG ĐÌNH
Nhang thành kính đôi lời giãi tỏ
Trước điện tiền lễ độ phục uy
Thoải đình Thánh Đế uy nghi
Quyền cai chính ngự ngọc trì bể Đông
Truyền thừa mệnh Long Cung Bát Hải
Thái Ninh từ chính đại quang minh
Ấy nơi tụ khí chung linh
Quyền cai thống lĩnh chư dinh thoải tề
Các cửa bể cửa sông Nam quốc
Một mối thông sau trước một nơi
Quy về long mạch chính ngôi
Đền Vua Bát Hải ở nơi Động Đình
Tòa thoải quốc nghê kình cai giữ
Tướng tam đầu cửu vĩ đôi bên
Long xà rẽ nước hiện lên
Thỉnh mời chư Thánh ngự đền Thủy Cung
Mở hội yến tòa trong chính điện
Ra lệnh truyền thủy tộc chư dinh
Bài sai các tướng thủy đình
Trấn an cửa bể giữ lành giúp dân
Thu bão táp ân cần tế độ
Dẹp an loài thủy quái yêu ma
Độ cho phong thuận vũ hòa
Dân an quốc thái nhà nhà an vui
Đội ơn đức muôn đời hằng nhớ
Gốc Lạc Hồng muôn thủa không phai
Hương thơm dâng trước đan đài
Vua cha ban phúc ban tài ban ân
Độ cho sở nguyện tòng tâm
Đa tài đa lộc thiên xuân thọ trường
Giỗ cha là giỗ ai?
Đền Đồng Bằng thờ vua Cha Bát Hải Đại Vương thuộc xã An Lễ huyện Quỳnh Phụ tỉnh Thái Bình.Theo truyền thuyết vua Hùng ra chiếu kêu gọi người hiền tài ra cứu nước khi có giặc xâm lăng một con rắn lớn nhất hoá thành người đem đội quân gồm rồng, rắn, thuồng luồng cá sấu đi đánh giặc.
Chiến thắng trở về, ông được vua phong là Bát Hải Đại Vương và được dân Đào Động lập đền thờ tôn thành hoàng làng.Nơi đây vào thế kỷ XIII là mảnh đất quê hương của dòng họ nhà Trần, là địa bàn hoạt động quân sự của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn chống quân Nguyên nay để lại nhiều di tích.
Vua cha Bát Hải Động Đình
Nhang thành kính đôi lời giãi tỏ
Trước điện tiền lễ độ phục uy
Thoải đình Thánh Đế uy nghi
Quyền cai chính ngự ngọc trì bể Đông
Truyền thừa mệnh Long Cung Bát Hải
Thái Ninh từ chính đại quang minh
Ấy nơi tụ khí chung linh
Quyền cai thống lĩnh chư dinh thoải tề
Các cửa bể cửa sông Nam quốc
Một mối thông sau trước một nơi
Quy về long mạch chính ngôi
Đền Vua Bát Hải ở nơi Động Đình
Tòa thoải quốc nghê kình cai giữ
Tướng tam đầu cửu vĩ đôi bên
Long xà rẽ nước hiện lên
Thỉnh mời chư Thánh ngự đền Thủy Cung
Mở hội yến tòa trong chính điện
Ra lệnh truyền thủy tộc chư dinh
Bài sai các tướng thủy đình
Trấn an cửa bể giữ lành giúp dân
Thu bão táp ân cần tế độ
Dẹp an loài thủy quái yêu ma
Độ cho phong thuận vũ hòa
Dân an quốc thái nhà nhà an vui
Đội ơn đức muôn đời hằng nhớ
Gốc Lạc Hồng muôn thủa không phai
Hương thơm dâng trước đan đài
Vua cha ban phúc ban tài ban ân
Độ cho sở nguyện tòng tâm
Đa tài đa lộc thiên xuân thọ trường
'' SỰ TÍCH VỀ VUA CHA BÁT HẢI ĐỘNG ĐÌNH''
Theo Truyền Thuyết của Việt Nam thì Ngày trước Sông Vĩnh cổ ( tức sông Đồng Bằng, thuộc xã An Lễ bây giờ ) còn rất rộng tương truyền lại còn có cả các loài thuỷ quái thuồng luồng giao long sinh sống
Dân đất Hoa Đào trang华桃莊 ( vùng An Lễ bây giờ ) cư trú dọc bên sông nghề chính là trồng dâu nuôi tằm dệt vải và khai khẩn bãi bồi canh tác nông nghiệp kết hợp chài lưới đánh bắt tôm cá trên sông …
Khi Hùng Duệ Vương 雄睿王 đã lên tuổi Kỳ lão ( tức tuổi 60 - ngày ấy, 60 tuổi chắc là đại thượng thọ ) mà vẫn chưa có con trai nối dõi. Vua rất phiền lòng …Sinh hạ nhiều, nhưng chỉ còn lại 2 Công chúa : Công chúa lớn là Tiên Dung trời se duyên cùng Chử Đồng Tử rồi cùng tu tiên biệt tích không về. ..
Công chúa em là Mỵ Nương, lấy Tản viên Sơn Thánh …
Vua đã vài lần gợi ý trao Vương miện cho Sơn Thánh 山聖, nhưng Sơn Thánh quyết không nhận, gặp những kỳ đất nước hữu sự, ngài về Triều giúp Vua Cha, yên sự lại về Tản viên tu đạo, chứ không màng quan tước. ..
Chính vì thế, có nhiều thế lực nhòm ngó Ngai Vàng còn chưa có người kế vị. Các nước láng giềng ở Bắc phương, cùng lân bang Vạn Tượng, Ai Lao …
cùng nung nấu ý đồ thôn tính Văn Lang - Lạc Việt. Lạc Long Quân樂龍君 từ ngày trao quyền cho con là Hùng Vương trị vì đất nước, trở về biển Đông, nhưng vẫn thường theo dõi rất sát thế sự Lạc Việt, trước những hiểm hoạ có thể sảy ra, Long Quân lấy làm lo lắng không yên. ..
Bấy giờ, Long Quân đang sống cùng người ái thiếp, (tương truyền bà chính là Ngọc nữ trong Cung Tây Vương Mẫu, lỡ tay đánh vỡ chén Ngọc lưu ly, nên bị đày xuống Đông hải ) bà sinh cho Long Vương 1 người con trai …
Đó là Thái Tử Giao Long 鮫龍tài đức siêu quần, khi Hà bá sông Cái ( tên sông Hồng cổ ) vì không lấy được Mỵ Nương, nên tức tối đại tác thuỷ hoạ cho dân, Long Vương sai Thái Tử giúp Sơn Thánh dẹp yên và bắt Thuỷ tinh về trị tội …
Sự lo lắng của Long Quân về nguy cơ Lạc Việt làm cho mẹ con Thái Tử cũng trăn trở không yên, nhưng sợ can thiệp trực tiếp sẽ phạm cơ Trời, nên cứ than thở bất an, sầu muộn. ..
Rồi Thái Tử cũng trình lên Vua Cha được 1 kế sách trọn vẹn, đó là cho phép chàng và hai em thác sinh thành kiếp người trần, là con dân nước Lạc Việt. ..
chỉ có thế, chàng mới giúp các bậc huynh trưởng giữ lấy giang sơn mà không phạm luật Trời. .. ( theo truyền thuyết này, đúng là quan hệ giữa Hùng Vương và Thái tử Giao Long là anh em cùng cha khác mẹ, đó cũng là 1 lý do để sau này, Đền Bát Hải Động Đình lại được dân gian gọi là Đền Đức Vua ). ..
Vì tình thế cấp bách, Lạc Long Quân đành y theo kế của con. ..
Cả Long vương và Ngọc thiếp cùng phối hợp thực hiện kế sách này. .. để Thái Tử được thác sinh chính thức thành con dân Lạc Việt. ... .. Và thế là.
..trên bờ sông Vĩnh, thuộc Đào Hoa Trang, Trấn Sơn Nam, Quận Giao Chỉ. ..xuất hiện 1 cô gái vị thành niên, không cha không mẹ, mò cua bắt ốc bên sông, ai hỏi thì xưng là người phương Bắc phiêu bạt tới đất này( tương truyền, đó chính là hoá thân của bà Thiếp Ngọc nữ của Long Quân, tạo cơ sở cho Thái tử đầu thai thành dân đất Việt ). ..
Ngày ấy, có 2 vợ chồng ( ông Phạm Túc, bà Trần thị - Sử cổ ghi rõ) là người Trang An Cố ( thuộc Thuỵ Anh - Thái Bình ngày nay ) đã lớn tuổi, sống phúc hậu mà không có con. ..
Một lần, họ ngược dòng đánh cá đến Trang Hoa Đào ( đất An Lễ, nơi toạ lạc Đền Đức Vua bây giờ ) và tình cờ gặp cô gái nhỏ bên sông Vĩnh, ông bà đón cô gái về nuôi tại An Cố, đặt tên là Quý Nương. ..
Mấy năm sau, khi tròn 18 tuổi, Quý Nương rất xinh đẹp, đoan trang. ..Nhưng không nhận lời cầu hôn của ai cả. .. Ông bà Phạm Túc bị bệnh rồi lần lượt qua đời. Quý Nương lưu lại An Cố để hương khói báo hiếu cho bố mẹ nuôi. ..
Một lần Quý Nương ra cửa sông tắm, đang trời yên biển lặng, bỗng sóng gió nổi lên dữ dội, rồi thấp thoáng bóng 1 con Hoàng Long hiện lên quấn chặt lấy nàng. ..
Một lát sau, khi sóng gió qua đi, Quý Nương thấy mình nằm trên bãi sông. ..
Một thời gian sau, bỗng thấy mình có thai, Quý Nương rời An Cố trở về quê Hoa Đào trang sinh sống. ..
Bà có thai đúng 13 tháng, vào đúng đêm ngày mồng 10 tháng giêng ( sử cổ ghi rõ) bà sinh ra 1 cái bọc, giữa ánh hào quang phát sáng rực. .
Quý Nương sợ hãi, ôm bọc thai thả xuống sông Vĩnh. ..
Cũng đêm ấy, có 1 người cất vó bên sông ( sách cổ ghi rõ tên là Nguyễn Minh ). ..
Ông thấy cái bọc đã được mình cầm vứt ra nhiều lần mà cứ cố tình trôi vào vó, cực chẳng đã ông đành rạch bọc ra. .. ánh sáng phát chói loà, ông kinh hãi thấy từ trong bọc chui ra 3 con Hoàng Xà, đầu Rồng mình rắn. ..
Con lớn nhất ( chính là Thái Tử giao Long ) vượt sông lên bờ, chui vào náu thân trong 1 giếng nước ( đó chính là giếng thiêng trong Cấm cung Đền Đồng Bằng bây giờ, truyền thuyết còn nói rằng : ông kéo vó khi rạch bọc, lưỡi dao đã vô tình làm đứt 1 thuỳ đuôi của con Hoàng Xà lớn, vì thế xưa kia các bản Hội về cúng mô hình Giao long tại Đền Đồng Bằng, bao giờ cũng làm vát 1 thuỳ đuôi là theo tích này ), còn 2 Hoàng Xà nhỏ, bơi xuôi theo dòng nước chảy dọc sông Vĩnh, 1 con giạt vào Thanh Do Trang ( thuộc Thái Ninh bây giờ ), con nhỏ nhất bơi đến tận An Cố trang ( Mai Diêm - Thuỵ Anh ). ..
Cũng đêm ấy, dân Đào Hoa trang thấy trời nổi sấm rền, rồi từ trên không trung có tiếng nói vang động :" Ta là con của Long Quân, khi có giặc sẽ giúp Vua Hùng diệt giặc "... Hôm sau, dân bản hạt đến bên giếng cạn đắp ụ đất, tạm lấy lá chuối ghi chữ đánh dấu, rồi sau lập thành Miếu thờ, từ đó hương khói cầu "phong đăng hoà cốc " thấy rất linh nghiệm. .. ( đôi câu đối chạm hình lá chuối treo trong Cấm cung cũng là từ tích này ). Lại nói : Vua Hùng ngày ấy đã già, lại không con trai nối dõi. ..
Vua thường buồn bã, hay đau yếu. .. làm lo lắng cho trăm quan triều chính. ..Có nhiều thế lực trong nội bộ Bách Việt, muốn nhòm ngó Ngai vàng Lạc Việt. .. như bộ tộc Âu Việt, do Thục Vương cai quản ( nguyên gốc xưa là người Trung Nguyên di cư xuống phía nam, từ lâu đã thành dân Bách Việt, và cũng chính là phụ thân của Thục Phán ). ..
Chuyện kể rằng : Khi Mỵ Nương đến tuổi lấy chồng, nhan sắc tuyệt vời, phong tư đoan chính. ..Thục Vương mê lắm, rất muốn cưới về làm thiếp. .. Vua Hùng cũng có ý ưng thuận, nhưng các Lạc tướng can rằng : "Thục Vương từ lâu nhòm ngó nước Văn Lang của dân Lạc Việt ta, giờ Vua lại gả Mỵ Nương cho y, khác gì đưa hổ vào tận trong nhà "...
Vì thế Vua Hùng không gả con cho, rồi lại đem gả cho Sơn Tinh. .. Thục Vương giận lắm, thề dù có phải đến đời con sau này cũng sẽ quyết thôn tính bằng được Lạc Việt. ... .. Khoảng vài năm sau. ..Thấy thời cơ đã đến, các nước lân bang như Ai lao, Vạn tượng, Chiêm thành. ..hợp sức cùng quân phương Bắc, nhân Vua Hùng già yếu đã hẹn phối hợp xâm lấn nhằm thôn tính Lạc Việt. Họ được 1 số bộ lạc trong Bách Việt như Âu Việt, Mân Việt, Nam Việt. .. nội ứng, cùng chỉnh sức "tinh binh bách vạn ", tuyển " Phì mã tam thiên ", tức là tập hợp hàng trăm vạn tinh binh, ngựa khoẻ. Quân đường bộ chia làm 5 đạo, hẹn đợi cánh quân đường thuỷ từ phương Bắc xuống, khi nào quân phương Bắc đã phong toả 8 cửa biển Lạc Việt, thì cả thuỷ, lục các đạo đều cùng 1 lúc tiến quân. ..
Thanh thế của giặc chấn động cả biên thuỳ, thư cấp báo đưa tin giặc dữ truyền về Kinh đô "1 ngày đến 5 lượt". .. Hùng Duệ Vương rất lo lắng trước thế giặc quá mạnh, liền cho người đi mời Sơn Thánh về Kinh hiến kế phá giặc. Sơn Thánh lập tức từ Tản Viên hồi Triều, Hùng vương ngạc nhiên thấy Sơn Thánh ung dung thư thái. .. Vương trách : " Một ngày có đến 5 tin hoả tốc cấp báo, thế giặc như lũ bão, chẳng lẽ Khanh không lo sao ?". Sơn Thánh tâu rằng : " Trải qua 17 đời Vua Hùng, những bậc quân vương đều là Thánh hiền, việc nghĩa nhân đã dày và nhuần thấm, thương dân như con, ân tình ghi vào cốt tuỷ, đó là 1 thế mạnh. Nước Văn Lang - Lạc Việt ta hiện nay đang độ quốc phú, binh cường, bệ hạ uy đức lan xa đến hải ngoại, thấu đến trời đất, vì thế Trời đã " đa giáng anh tài" xuống làm dân đất Việt, để mà hộ quốc cứu dân đó thôi !". Vua Hùng hỏi, Sơn Thánh thưa :" Đó là Long cung Hoàng Thái Tử đã thác sinh, đang náu ở Hoa Đào Trang, thuộc Sơn Nam Hạ, họ có 3 anh em khí độ vượt nhân, kinh luân đứng đầu kim cổ, văn võ kiêm tài. .. Trời lại cho giáng trần thêm mấy anh tài hiện đang làm con dân Lạc Việt ( ý nói về các Quan lớn của Vĩnh công ), có thể đảm đương việc cự địch xâm lăng đường biển. ..
Nước Việt ta lại còn có "sơn thuỷ bách Thần" từ ngày lập nước rất linh ứng, hay hiển linh để phù trợ. .. Bởi vậy Bệ hạ chẳng phải quá lo. .. kẻ địch dấy binh vô đạo, tất sẽ " thủ bại". Bệ hạ nên cử Thái Tử Long cung trấn giữ và đánh giặc tại các " giang môn, yếu hải ", còn thần nguyện đích thân tiên phong cự địch tại các cánh đường bộ. .. Thần đồ rằng chỉ vài hôm là giặc tan ". Duệ Vương nghe nói cả mừng, lập tức lệnh lập Đàn cầu Trời ứng trợ, tuần hương vừa tàn, thì Thanh Y Tiên Ông lai giáng, mách Vua cho người về Hoa Đào trang mà triệu, sẽ có dị nhân đánh tan giặc biển ( trích dịch Văn tự Hán Nôm cổ về Đào Động, hiện lưu giữ tại Viện TT KH-XH Việt Nam ). .. Hùng Vương cả mừng, sai sứ giả về Hoa Đào trang ( tức đất An Lễ bây giờ ) để truyền chỉ dụ triệu kỳ nhân dẹp giặc. .. Khi Sứ giả về hỏi, dân thôn kể về việc Giao Long ẩn thân trong giếng cạn trước đây. .. Sứ giả đến bên giếng xướng truyền sắc chỉ thì thấy Hoàng Xà hiện ra rồi bỗng hoá thành 1 chàng trai lực lưỡng, tuấn tú hơn người. ..
Ngài nhận chỉ dụ, nhờ sứ giả báo với Vua Hùng là sẽ triệu 2 em, tuyển 10 tướng, chiêu mộ binh sĩ trong 10 ngày, rồi xuất quân đánh giặc trên cả 8 cửa biển nước Nam, hứa sau 3 ngày là giặc tan. .. từ đó, ngài có tên là Vĩnh Công ( trọng nhân phát tích trên sông Vĩnh ). .. Tương truyền : Ngay ngày tuyển mộ đầu tiên, Vĩnh công đã chọn được 3 tướng là Quan lớn Thượng ( quan lớn đệ nhất ), quan đệ Tam và Quan đệ Tứ. ..
Trai tráng duyên hải kéo đến đầu quân rất đông, nhưng đến trưa ngày thứ 10 theo hẹn, vẫn thiếu 1 tướng. .. Vĩnh công lập đàn cầu, trời điều Tam Thái Tử xuống đầu quân, ngài giáng xuống Bảo Hà ( Lào Cai), tương truyền thấy 1 tiếng sét dữ dội tại đó, rồi một luồng hào quang bay về nơi Vĩnh công tuyển tướng, tụ thành 1 chàng trai tuấn tú xin ứng tuyển, đó chính là Quan Điều Thất. Sau khi chọn được quan Điều Thất, đủ số 10 tướng, Vĩnh công còn chọn được 1 mưu sĩ tài ba, quê ở Nuồi ( Tứ Kỳ - Hải Dương ) làm quân sư ( vì thế sau này có lệ giao Trải với Nuồi ) Xếp dưới 10 vị Đại tướng và 1 vị quân sư, Vĩnh Công còn lựa được 28 vị Nội tướng tài ba ( có là Ngài xếp theo đúng số Nhị thập bát Tú của trời ). ..
Để thể hiện tình nghĩa ruột thịt cùng xả thân vì xã tắc, không câu nệ danh vọng, Vĩnh công tuỳ tuổi mà phân thứ bậc các tướng. ..
Trên 2 mũi tấn công chủ yếu bằng đường thuỷ của giặc phương Bắc là cửa sông Cái ( sông Hồng ) và cửa sông Bạch Đằng. .. Vĩnh công cùng Quan lớn Thượng chặn giặc ở cửa sông Cái, Quan lớn đệ Tam cùng Quân sư Nuồi và quan đệ Ngũ chặn giặc tại cửa sông Bạch Đằng, Quan Điều Thất phụ trách ứng chiến và phối hợp tác chiến cùng các cánh quân chặn giặc đường bộ của Sơn Thánh, các vị Quan lớn khác đều được phân công đánh giặc trên 6 cửa biển khác của Nước Nam. ..
Đúng hẹn 3 ngày, Vĩnh công cùng tướng sĩ đánh tan giặc dữ trên cả 8 cửa biển. Thấy cánh quân đường thuỷ hùng mạnh của phương Bắc bị đại bại, nhiều cánh quân xâm lược đường bộ do các bộ lạc của Bách Việt, được sự giúp sức của các nước Ai Lao, Vạn Tượng. ..đang cố quyết chiến cùng quân Lạc Việt do Sơn thánh chỉ huy, nghe tin đều hoảng sợ, vội vã rút nhanh về nước. ..
Đất nước trở lại thanh bình Hùng Duệ Vương triệu Vĩnh công về Triều phong là " Vĩnh Công Nhạc phủ thượng đẳng thần ", lại có ý muốn lưu ở Kinh đô giúp việc Triều chính. .. Vĩnh công xin được về quê để trông nom thân mẫu khai khẩn vùng duyên hải, chiêu dân lập ấp, dạy dân nghề nông tang ( tang : trồng dâu nuôi tằm dệt vải đồng thời giúp Vua Hùng giữ yên 8 cửa biển Lạc Việt. Mười tướng theo Vĩnh công về Hoa Đào Trang.
Quan Điều Thất về Trời ngay sau khi thắng giặc, Vĩnh công thương xót cho lập ban thờ ngay tại dinh Công đồng, là nơi Vĩnh công cùng chư tướng tề tựu bàn việc ( đó chính là Đền thờ quan Điều Thất ngày nay, thường gọi là Đền Công Đồng ).
Quan lớn đệ Tam được phân công giữ yên vùng duyên hải từ sông Cái lên hết biên giới biển phía bắc Lạc Việt ( từ tích quan lớn đệ Tam thắng giặc trên cửa sông Bạch Đằng, rồi lại tỵ nhậm cai quản vùng này. .. Nên các đời sau, khi đánh giặc trên sông Bạch Đằng, các quân vương đều về cầu và tạ tại đền đức Vua và Đền quan đệ Tam, vì cho rằng được âm phù mà chiến thắng )...
Quan lớn đệ Thập được tỵ nhậm tại Cửu Chân, Quan đệ Tứ được phân công khai khẩn vùng bãi bắc Sơn Nam. ..
Có 5 vị Nội tướng được Vĩnh Công giao sở nhiệm khai khẩn chăm dân lập Ấp tại Hoa Đào trang ( sau chính là 5 vị Thành Hoàng nổi tiếng linh ứng, đã có công âm phù Trưng Vương đánh thắng quân Tô Định tại Sơn Nam hạ ). ..
Vĩnh công lấy 10 hốt vàng được Vua Hùng ban thưởng để chia cho dân bản hạt làm vốn canh tác. Miền duyên hải Lạc Việt từ đó dân cư ngày càng đông đúc, phồn thịnh. ..
Vua Hùng trao Vĩnh công quản lý miền duyên hải Lạc Việt lấy tên là Tây Đô.Tương truyền : định kỳ hàng năm nhân ngày đại thắng quân phương Bắc trên 8 cửa biển Vĩnh công triệu chư tướng về tề tựu tại Hoa Đào trang ( đất An Lễ bây giờ theo ghi chép của các cụ thì ngày ấy gọi là Hoa Đào trang 1 trong các trang ở vùng bãi sông Vĩnh, trấn Sơn Nam hạ, bộ Thang Truyền, quận Giao Chỉ, thuộc Châu Giao chỉ trong Bách Việt phía tây nam nước Hoa Hạ của nhà Hán ).
Trong những kỳ hội tụ này, Vĩnh công mở tiệc khao thưởng, cùng chư tướng đàm đạo về tình hình, vạch kế sách khai khẩn, chăm dân và giữ yên miền duyên hải theo uỷ thác của Vua Hùng. Tương truyền : trong những ngày vui này, Vĩnh công thường tổ chức thi bơi thuyền, giữa đội thuyền bản hạt và thuyền của các tướng, thuyền của quân sư Nuồi, để ôn lại chiến thắng, tập dượt phòng thủ và luyện quân sẵn sàng ứng phó mọi biến cố. ..
Đường đua thuyền là 1 đoạn sông Vĩnh " thượng Đồng Đống, hạ Cống Đôi ", lệ thi bơi trải có từ đó và còn tồn tại mãi đến sau này. Trong những ngày kỷ niệm chiến thắng, ngài còn tổ chức thi Vật, thi võ. .. cùng với các trò chơi dân gian khác ( xới vật kề cạnh 1 cây cầu, nên cầu này có tên là cầu Vật, tên cầu Vật vẫn dùng cho đến bây giờ ). ..
Vĩnh công còn cho tập hợp các làn điệu dân ca trong vùng, dạy cách hát ứng vận đối đáp để thi hát trong các đêm Hội, gọi là hát Đúm ( 1 kiểu hát giao duyên sân Đình )... Công đức của Vĩnh công rất lớn, vua Hùng rất nể trọng. ..
Dân Hoa Đào trang cũng như cả vùng duyên hải coi ngài ân tình như cha mẹ. ..
Một số năm trôi qua. .. Một hôm Vĩnh công mời hương lão đến dinh thất của mình ( tương truyền là chính đất Đền Đức Vua bây giờ ) mà nói rằng :" Ta cùng các vị là dân lân hương ấp, ăn ở với nhau như tình ruột thịt, nay ta sắp phải vâng mệnh về chầu vua cha Lạc Long quân. Nếu có nhớ đến ta, thì nhà ta đây là miếu sở, ngày ta đi sẽ là ngày giỗ. ..".
Tất cả hương lão có mặt bùi ngùi, nức nở. .. Rồi bỗng thấy trời đất tối sầm, sấm chớp gió mưa đột khởi dữ dội. .. Một thoáng, trời quang mây tạnh, mọi người chỉ còn thấy xiêm áo của Vĩnh công. ..đó là ngày 25 tháng 8 âm lịch năm Bính Dần.
Dân bản hạt lập tức dâng biểu về Kinh, Vua Hùng thương xót, ban phong mỹ hiệu : "Trấn Tây An tam kỳ linh ứng Đại Vương", cấp tiền tang lễ, cho tu sửa dinh thất của Vĩnh công thành miếu điện thờ tự, cho lập "điền tự" để hương hoả cho Vĩnh công mãi mãi. ..
Vua Hùng trao cho các tướng của Vĩnh công tiếp tục sự nghiệp tại miền duyên hải Lạc Việt. Từ đó, nhân ngày giỗ Vĩnh công, các tướng lại tề tựu tại Hoa Đào trang, dâng hương cho Vĩnh công và tổ chức các hình thức kỷ niệm ngày đại thắng như trước đây. ..
Lâu dần thành lệ Hội tháng 8 âm lịch mà truyền đến ngày nay. Tương truyền, các tướng của Vĩnh công đều là những anh hùng cái thế, sinh tử vì Lạc Việt và bảo vệ Vua Hùng cho tới ngày Hùng Duệ Vương tuẫn tiết, nước Văn Lang - Lạc Việt sang trang sử mới, gọi là nước Âu Lạc. ..
Các tướng của Vĩnh công sau đó, người hoá thần, người tử trận trong chiến đấu bảo vệ đất nước Văn Lang, họ đều được lập đền thờ, được các triều đại sau sắc phong tôn vinh, kính trọng. ( xem ở sách truyền thuyết các vị quan lớn của Đức vua Bát Hải, hoặc cuốn Đất Đào Động địa linh nhân kiệt - cùng tác giả ).
Tại đất Đào Động có Đền thờ Quan lớn Thượng, Quan lớn đệ Nhị, Quan lớn đệ Tam, quan lớn Điều Thất, Quan lớn đệ Bát, tĩnh quan lớn Thượng, tĩnh quan đệ Tứ, đều được tái tạo dựng trên nền cổ tự. Quan đệ Ngũ thờ tại Đình Giới phúc,
tĩnh Quan đệ Lục ( miếu giáp Nhị ) đã bị thực dân Pháp phá huỷ.
Quan đệ Tam còn được thờ ở Đền Lảnh giang ( Hưng Yên ),
Quan đệ Tứ đền thờ chính ở Vĩnh Bảo - Hải Phòng.
Quan đệ Ngũ có đền thờ ở bến đò Chanh - Hải Dương,
Quan Điều Thất có Đền ở Bảo Hà - Lào Cai. Quan đệ Cửu xưa có Đền ở Thanh Hoá,
Quan đệ Thập có đền ở Nghệ An. ..
Đền thờ Vĩnh công Đại Vương Bát Hải Động Đình từ xa xưa đã nổi tiếng linh ứng. Các triều đại sau này như Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê, Nguyễn. .. đều tái sắc phong cho ngài.
Vĩnh công được coi là Thượng Đẳng Thần của đất Lạc Việt. Hội tháng 8 âm lịch tại Đền, hội tụ muôn phương dân Việt về chiêm bái lễ cầu.
'' Xin trích giải một số Sắc phong của các đời Vua đất Việt phong cho Vĩnh Công -tức Đức Vua Bát Hải : 1 - Hoàng Triều Vĩnh Hựu nhị niên, trọng Đông nguyệt, sơ nhật.''
(Niên hiệu Vĩnh Hựu năm thứ 2, đời vua Lê ý Tông Ngày 01/ 11 âm / 1726 ) Sắc : Gia phong : Trấn Tây an Tam kỳ linh ứng Đại Vương. Thượng đẳng Quốc tế ( Được tổ chức tế lễ theo Nghi thức dành cho những bậc Thần linh được tôn trọng bậc nhất quốc gia ) Phóng chỉ ban hồi dữ cấp tiền tứ bách quán ( Truyền Chỉ dụ về tận nơi, cùng số tiền được Triều đình ban cấp là 100 quan ).
Hứa Đào Động trang ngưỡng Thần hiệu, cập hồi trùng tu miếu điện, dĩ phụng chi lưu truyền hương hoả, dữ quốc tế vĩnh thời huân công hỹ. ( Hẹn cho Đào Động trang tổ chức lễ đón Thần hiệu, tiến hành trùng tu miếu điện thờ phụng và lưu truyền hương hoả, để cả nước về tế lễ huân công của Thần đến mãi mãi ).
Hàn lâm Viện Đông các Đại học sỹ Nguyễn Bỉnh - Phụng soạn Bát phẩm Lại bộ - thần : Nguyễn Hiền - Phụng sao. 2 - Chương Thánh tôn hiệu đệ nhị niên, trọng xuân, cát nhật.
(Năm Chương Thánh Gia Khánh thứ hai, đời Vua Lý Thánh Tông, ngày tốt, tiết xuân tháng 2 âm lịch, năm 1060 ) Sơn Nam Hạ trấn, Phụ Phượng quận, Đào Động trang Cổ điện phụng sự : Tam Kỳ linh ứng Vĩnh Công Đại Vương Bát Hải Động Đình.
Thị thượng tôn cổ Thần hộ Quốc tý dân, thập phương ngưỡng vọng ( Là vị Thần từ đời cổ được tôn trọng bậc nhất, đã có công Hộ quốc, che chở cho dân, mà mọi miền đất Việt đều ngưỡng vọng ) Vạn cổ chí kim thế truyền linh ứng, đa Triều tái phong mỹ tự ( Từ cổ đến nay, được đời truyền tụng là linh ứng, nhiều Triều đại đã có Sắc gia phong với những lời ca ngợi đẹp đẽ ) Tứ kim gia phong ( Nay ban chiếu gia phong là ) Thượng đẳng Tôn Thần Hộ quốc tí dân, vạn đại linh ứng ( Vị Thần được tôn trọng bậc nhất, đã có công hộ Quốc, che chở cho dân, vạn năm linh ứng )
Chuẩn phụng sự chính lệ ( cho phép phụng sự, tế lễ theo chính lệ ) Trợ Thần tồn linh bảo ngã lê dân chí vĩnh. Khâm thử ! ( Để Thần tiếp tục linh ứng bảo vệ cho dân ta mãi mãi. Y lệnh !) 3 - Thiên Đức tôn hiệu đệ ngũ niên, trung thu, vọng nhật ( Năm Thiên Đức thứ hai, đời Vua Lý Nam đế,
(Ngày 15 tháng 8 âm năm 548 ) Lạc Việt quốc, Hùng Triều đệ thập bát diệp, sắc phong thuỷ Thần phát tích Hoa Đào trang, sơn Nam Hạ trấn. (Thời vua Hùng đời thứ 18, nước Lạc Việt, đã sắc phong cho vị Thuỷ Thần phát tích tại Hoa Đào trang, Trấn Sơn Nam Hạ ) Sắc phong ( Vua Hùng sắc phong là ) Đệ nhất lương thần Vĩnh Công hộ quốc tí dân ( Vị Thần có đức lớn bậc nhất là Vĩnh Công, đã có công hộ quốc, che chở cho dân ta ) Hoá Thần Bính Dần niên, bát nguyệt, nhị thập ngũ nhật, sở tại Hoa Đào trang, Sơn Nam Hạ trấn, bộ Thang Truyền.
Niệm đại công sinh thời hùng lược quảng đức phù Quốc an dân. Gia phong : Trấn Tây an Tam kỳ linh ứng đại vương, thượng đẳng quốc tế. Phóng chỉ ban hồi dữ. Hứa Hoa Đào trang ngưỡng Thần hiệu, trùng tu miếu điện, dĩ cẩn phụng sự chi lưu truyền hương hoả vạn thế, đắc Thần sở tiếp linh ứng phù hộ dân Việt bất hoại. Khâm dĩ !
(Vị thuỷ Thần hoá Thần ngày 25 tháng tám năm Bính Dần, tịch tại Hoa Đào trang, Sơn Nam Hạ trấn, bộ Thang Truyền. Nhớ đến đại công khi sinh thời của Vĩnh Công hùng lược quảng đức, hộ quốc an dân, Vua Hùng gia phong : Trấn Tây an Tam kỳ linh ứng Đại Vương, cho tổ chức tế lễ theo quốc lễ.
Vua Hùng phóng chỉ ban, hẹn cho Hoa Đào trang tổ chức đón rước Thần hiệu, trùng tu miếu điện, phụng sự Thần nghiêm cẩn và lưu truyền hương hoả vạn đời, để Vĩnh công mãi linh ứng phù hộ cho dân )
Thư lại Lễ bộ Lý triều Chương thánh Gia Khánh nhị niên phụng soạn ( 15tháng 8 năm 548). Tú tài Giáo học Đinh Đăng Quát cẩn sao. Cấm cung Bát Hải động Đình linh từ, chính nguyệt, sơ thập nhật, Quý Dậu niên ( chép lại ngày mồng 10 tháng giêng năm 1933). 4 - Khải Định cửu niên, thất nguyệt, nhị thập ngũ nhật. ( ngày 25/7/1924 ) Sắc ! Thái Bình tỉnh, Phụ Dực huyện, Vọng lỗ tổng, Đào Động xã. Phụng sự Trấn tây an nam, tam kỳ linh ứng tôn thần. Nẫm trứ linh ứng, tứ kim phi thừa. Cảnh mệnh miễn niệm thần hưu, trứ phong vi dực bảo Trung hưng linh phù chi thần, chuẩn kỳ phụng sự, thứ cơ thần kỳ, tương hữu bảo ngã lê dân. Khâm tai !. ..
Câu thành ngữ dân gian : Tháng 8 giỗ Cha, tháng 3 giỗ Mẹ chính là để chỉ Hội tháng 8 ở Đền Đồng Bằng và Hội tháng 3 ở Đền Mẫu Phủ Dày. Đền đồng Bằng là nơi "đi trình về tạ" của các bản Hội tín ngưỡng trong toàn quốc từ xa xưa. Vì sao Đền Đồng Bằng thờ Vĩnh công Đại Vương lại có tên là Đền Đức Vua, hay còn gọi là Đền Đức Vua Bát Hải ? Tên này có từ bao giờ ? Theo các cụ thì : dựa vào truyền thuyết Vĩnh công chính là Thái Tử Giao Long ( như đã thuật ở phần trên, ngài là con vợ thứ của Lạc Long Quân ).
Vì thế khi Hùng Vương 18 cáo chung, Vua An Dương Vương Thục Phán lên ngôi, tuy cũng là dân Bách Việt nhưng thuộc dòng ngoại tộc, trong khi Vĩnh công đã hoá thần nhưng cực kỳ linh hiển phù trợ cho dân đất Việt, vì thế mà dân tôn sùng gọi ngài là Đức Vua. Lại có thuyết rằng :
''Sau khi đánh thắng giặc phương Bắc trên 8 cửa biển, Vua Hùng giao cho Vĩnh công cai quản vùng duyên hải Lạc Việt - Văn Lang, đặt tên là Tây Đô, vì thế dân gian gọi ngài là Đức Vua là từ ý này. .. Đã có 1 thời gian, chúng tôi trăn trở rằng : vùng duyên hải ở phía đông Văn Lang - Lạc Việt, sao lại gọi là Tây Đô ? Mãi sau mới hiểu ra là : so với địa thế Bách Việt ( dưới nước Hoa Hạ cổ ), thì Lạc Việt ở hướng Tây. Chứng cứ còn lại là vùng đất của Bách Việt ở sát ngay trên nước ta bây giờ, gọi là tỉnh Quảng Tây ( TQ), cho nên ngày ấy vùng duyên hải Lạc Việt có tên Tây Đô vì thế''
Vua Cha Bát Hải Động Đình được thờ ở đâu
Vua Cha Bát Động Đình được thờ chính tại Đền Đồng Bằng – Khu Du lịch tâm linh Đền Đồng Bằng
Ngoài ra; tại khu Quần thể du lịch Tâm Linh Phủ Dầy cũng có đền Vua Cha Bát Hải
Tại Đền Vân Cát – Phủ Dầy cũng có một đền nhỏ thờ Vua Cha Bát Hải
Một số ngôi đền khác Vua Cha Bát Hải Động Đình cũng được phối thờ.
Dù ai buôn xa bán xa
22 tháng 8 giỗ Cha thì về
Dù ai buôn bán trăm nghề
22 tháng 8 nhớ về Đào Thôn
Giỗ cha là giỗ ai?
Đền Đồng Bằng thờ vua Cha Bát Hải Đại Vương thuộc xã An Lễ, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình. Theo truyền thuyết, vua Hùng ra chiếu kêu gọi người hiền tài ra cứu nước khi có giặc xâm lăng, một con rắn lớn nhất hoá thành người đem đội quân gồm rồng, rắn, thuồng luồng cá sấu đi đánh giặc.
Chiến thắng trở về, ông được vua phong là Bát Hải Đại Vương, và được dân Đào Động lập đền thờ, tôn thành hoàng làng. Nơi đây, vào thế kỷ XIII là mảnh đất quê hương của dòng họ nhà Trần, là địa bàn hoạt động quân sự của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn chống quân Nguyên nay để lại nhiều di tích.
Tương truyền, Trần Hưng Đạo cùng tướng lĩnh của mình như Phạm Ngũ Lão đã từng đến ngôi đền thờ vị Thuỷ thần này cầu xin phù trợ diệt giặc. Khi Trần Hưng Đạo mất, ngôi đền này cùng thờ Đức Thánh Trần và hàng năm mở hội giỗ Cha vào ngày 20 tháng 8 ÂL. Dân coi Đức Thánh Trần như vua cha, còn bên kia là Thánh Mẫu Liễu Hạnh.
Trong lịch sử ông là vị tướng tài còn trong tâm thức dân gian ông được hình dung là một vị thánh do Thanh tiên Đồng tử (em bé áo xanh) đầu thai có Kim đồng ngọc nữ hộ vệ xuống phương Nam trừ hoạ giúp dân.Dòng dõi nhà Trần vốn là cư dân sông nước vạn chài, từng lập chiến công thuỷ chiến lẫy lừng với quân Nguyên Mông ở vùng sông nước, vì thế khi được phong Thánh ông đã được quy về dòng Thuỷ thần có cội nguồn xa xưa là Long Vương - đó là điều hợp quy luật với tâm thức dân gian vùng đồng bằng sông nước.
Ở đền Đồng Bằng, trong hậu cung thờ vua Cha Bát Hải Đại Vương, còn hai bên tả hữu là điện thờ tam toà Thánh Mẫu và Đức Thánh Trần cùng 10 vị hoàng tử con Long Vương. Trong những ngày hội "giỗ Cha" ở các đền Đồng Bằng, Bảo Lộc và Kiếp Bạc có các nghi thức lễ rước trên sông, mở hội đua thuyền, hát chầu văn kèm theo các nghi thức lên đồng của dòng thanh đồng để trừ tà ma.
20 tháng 8 Âm lịch: Ngày giỗ Đức Thánh Trần
Bên cạnh đó cũng có quan điểm cho rằng: Tháng tám tiệc Cha là Đức ông Trần Triều chứ không phải Vua Cha Bát Hải Động Đình. Câu cổ:
Tháng tám tiệc Cha
Tháng ba tiệc Mẹ
Là câu tục ngữ cổ của người dân vùng Sơn Nam Hạ để muốn tôn danh Nam Thần Thượng Thượng Đẳng tối linh là Đức Đại Vương Trần Triều
Và nữ Thần là Mẫu Liễu Hạnh để hai bên Thanh Đồng và Tứ Phủ tương xứng nhau
Đức Trần Triều Hoá năm 1300 đến năm 1443 thì Mẫu Liễu Hạnh mới giáng thế và thịnh nhất là thời Lê Trung Hưng.
Ngày 20 tháng 8 năm Canh Tý đức Đại Vương mất tại Vạn Kiếp, khắp xa gần đều khóc thương như mất cha mất mẹ, báo tin về triều bấy giờ Vua đang ngự trong phòng mới khóc lớn rằng :" Thượng Phụ vì muốn đất nước ta được kiên cố vững chắc, binh quyền hùng mạnh mà quét sạch giặc Hồ không còn dấu vết, khắc phục Thần Kinh vỗ về an lòng trăm họ thương Vua yêu nước " Triều thần nghe vậy tất cả đều rơi nước mắt, thôi việc triều chính 10 ngày
Thượng Hoàng Nhân Tông và vua Anh Tông truyền chỉ bách quan mặc đồ tang phục màu trắng, cưỡi ngựa trắng về Vạn Kiếp chịu tang, thu góp các vật bằng đồng chôn trong vườn An Lạc.
Xưa vua Thánh Tông đã ngự chế văn bia tại Sinh Từ để thờ sống đức Đại Vương như nhà Chu có ông Thái Công Thượng Phụ, nay Đại Vương mất lại ngự chế văn bia ban sắc làm Thái Sư Thượng Phụ Thượng Thượng Quốc Công Bình Bắc Đại Nguyên Súy Long Công Thịnh Đức Vỹ Liệt Hồng Huân Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương, sắc cho các nơi thuộc Thiên Trường và Vạn Kiếp muôn đời được thờ cúng, sắc ban cho Đại Vương được tòng tự tại Vũ Thành Vương Miếu, nghi lệ thờ ngang hàng cùng với thờ đức Khổng Tử.
Truyền cho lấy gỗ bạch đàn hương làm tượng truyền thần ngày đêm sớm tối phụng sự, nếu khi có việc quốc gia đại sự thì làm lễ cầu đảo, chư vị Công Hầu phụng chỉ xuất chinh đánh trận thời trước đó về ngôi đền tại 2 xã Vạn An - Dược Sơn bái yết cầu đảo chẳng bao giờ là không linh ứng.
Các triều đại nếu có giặc thời mệnh quan về đền cầu đảo nếu thấy trong tráp đựng kiếm phát ra âm thanh thời sẽ đại thắng, các châu huyện xa gần nếu bị hạn hán bệnh dịch thời về cầu đảo sẽ qua khỏi, nếu ai bị tà ma hoặc bệnh tật thời xin rước kiếm về thờ ở nhà hoặc xin chiếu ở đền Kiếp Bạc về tà ma gặp phải sẽ tự tiêu tán, hoặc thỉnh tàn hương và đất tại đền hòa vào nước thanh thủy rồi uống bệnh sẽ giảm, hoặc có người khó khăn về đường tử tức con cái thời về cửa Đại Vương cầu đảo chẳng gì là không linh ứng tùy theo sở cầu sở nguyện...
Các triều đại phong tặng Thượng Thượng Đẳng Tối Linh Phúc Thần được vinh danh trong điển lệ thờ cúng của quốc gia muôn đời hương hỏa chẳng dứt !
Tháng 8 hầu Tứ Phủ tại Kiếp Bạc là rất phạm ?
Theo lính ghế nhà Trần thì những người hiểu Đạo và hiểu Sử bên hàng Tứ Phủ hầu Mẫu Liễu Hạnh tháng 8 không được phép về Kiếp Bạc để Hầu Tứ Phủ. Bởi vì như thế là rất "phạm" - bên phủ Nhà Trần (Thanh Đồng) và bên Tứ Phủ Tam Toà kỵ nhau. Nôm na ngày giỗ của cụ Trần Triều mà lại làm Lễ thần chủ Liễu Hạnh tại đó thì khác nào chọc tức cụ.
Nếu hầu Nhà Trần thì về Kiếp Bạc hoặc Mỹ Lộc Trần Thương... còn Hầu Mẫu mà về đó là phải tội.
Nếu muốn hầu Mẫu Tam Toà thì về phủ Mẫu như Phủ Giầy
Phủ Bóng Sòng Sơn...
Để đúng đạo và tâm linh thì chỉ được phép về lễ Đức Ông Trần Triều hoặc hầu Nhà Trần còn tuyệt đối không được hầu Mẫu và bên hàng Tứ Phủ tại đến Kiếp Bạc!
Giỗ một người mà đi dâng lễ và kính một người khác ngay tại nhà người ta thì chưa đúng.
Truyền Thuyết: Đức ông Trần Triều Hưng Đạo Đại Vương
Trần Hưng Đạo là một danh tướng đời nhà Trần
Ông lập chiến công hiển hách qua hai lần tiêu diệt quân Mông Nguyên
Xâm lược Đại Việt "tiếng vang đến phương Bắc khiến chúng thường gọi ông là An Nam Hưng Đạo Vương mà không dám gọi thẳng tên".
Ông mất vào năm 1300 dân kính ngưỡng tôn thờ gọi là Đức Thánh Trần.
Truyền tích về ông được kể lại như sau:
Bà Trần Liễu phu nhân (Lý Thị Nguyệt) vốn là người hiền lương thục đức kính trọng Tam GiáoMột hôm bà nằm mơ thấy chính sự có việc đại loạn
Từ trên trời cao có vị tiên nhân khoác bạch y hiện ra tay cầm hốt ngọc đề hai chữ "sắc giáng" vị này xưng là Thái Bạch Kim Tinh thừa lệnh Ngọc Hoàng Đại Đế cho Thanh y Đồng tử thác thai làm con bà lĩnh việc cứu dân giúp nước.
Thế rồi bà mang thai một hài nhi thời gian thai sản lâu hơn người thường và rồi sinh ra cậu con trai khôi ngô tuấn tú bà đặt tên con là Quốc Tuấn
Mới một tuổi Quốc Tuấn đã biết nói, sáu tuổi học hết kinh thư biết nghĩ ra thế trận khôn lường
Cha ông là Trần Liễu biết con có tài thiên bẩm nên luôn rèn đúc để sau này con hay văn, giỏi võ.
Về sau, nhiều lần bọn Mông Nguyên man di mọi rợ kéo sang hòng chiếm nước ta Quốc Tuấn nói với vua rằng: " Nếu bệ hạ muốn hàng xin hãy chém đầu thần trước!".Sau khi quốc gia thanh bình ông lui về Vạn Kiếp Trần Thánh Tông hoàng đế cho xây Sinh từ để thờ sống ông dân xem ông là bậc thượng phụ.
Còn có truyền thuyết kể lại rằng, nguyên xưa kia Đức Thánh Tản Viên thấy luồng khói trắng bay từ núi Tây hóa thành tinh thuồng luồng, xuống nhà người đàn bà kia tư thông, ngài nghĩ ắt hẳn đó sẽ đầu thai thành kẻ gây hậu họa cho nhân gian (tên đó sau này chính là Phạm Nhan Nguyễn Bá Linh, cha là người Tàu Phúc Kiến, mẹ là người Đông Triều, nằm mơ thấy tinh thuồng luồng mà sinh ra hắn), vậy nên Đức Thánh Tản liền đem tâu chuyện đó với Ngọc Hoàng
Ngọc Hoàng hỏi rằng ai có thể xuống hạ phàm để trừ diệt mối hậu họa đó thì có Thanh Tiên Đồng Tử tình nguyện xin xuống phàm để giúp dân. Ngọc Đế ưng thuận sai ban thần kiếm, cờ ấn, tam tài của Lão Tử, ngũ bảo của Thái Công rồi truyền Kim Đồng Ngọc Nữ hộ giá xe mây xuống nước Nam hạ phàm.
Liền đó Vương Mẫu nằm mơ thấy có người áo xanh tự xưng là người của Thiên Đình xuống đầu thai phù đời, từ ấy bà hoài thai, đủ ngày đủ tháng thì hạ sinh được ông, trong nhà ngào ngạt hương thơm và ánh sáng. Vậy nên, trong bản văn cũng có đoạn:
Vương Phụ là Đức An Sinh
Cùng Đức Thánh Mẫu cầm lành hợp duyên
Điềm lành vốn tự thiên nhiên
Thanh Tiên Đồng Tử phút liền đầu thai Chí kì sinh đặng con trai Tài kiêm văn võ ít ai sánh bằng"
Sau này ông giúp vua Trần hai lần chống giặc Nguyên Mông, ông sinh được bốn người con trai (thường gọi là tứ vị vương tử) và hai người con gái (thường gọi là nhị vương cô hay nhị vị vương bà) đều có công lao giúp vua Trần chống giặc Nguyên, ngoài ra trong công cuộc “Sát Thát” còn có rất nhiều đóng góp của vương tế của ông là Phạm Ngũ Lão Điện Súy (thường gọi là Đức Thánh Phạm Điện Súy hay Phù Ủng Đại Vương) cùng các tướng tài của ông như: Dã Tượng, Yết Kiêu (thường gọi là đôi bên Đức Ông Tả Hữu)…
Có thể nói trong công cuộc bảo vệ đất nước dưới thời Trần, có công đóng góp không nhỏ của gia đình ông. Hơn nữa ông còn là người một lòng vì nước vì dân, vì nghĩa lớn mà quên đi mối thù nhà: ông không nghe lời cha giành lại ngai vàng từ tay vua Trần, vậy nên được vua Trần nể trọng, tin tưởng, thường hỏi ý kiến ông về những việc đại sự quốc gia. Ông mất vào ngày 20/8 âm lịch.
Sinh thời, do công lao lớn của mình ông được vua Trần phong là Quốc Công Tiết Chế Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương hay là Đức Thượng Từ. Vua Trần Anh Tông ( xét về thứ bậc thì vừa là cháu lại là cháu rể của ông, vì vua lấy Cô Bé Cửa Suốt_Tĩnh Huệ Công Chúa tức là cháu gái của ông) phong ông là Đức Thượng Phụ Thượng Quốc Công Bình Bắc đại nguyên soái Quốc công Tiết chế Hưng Đạo Đại Vương (tước hiệu này nếu xét theo thời đại của chúng ta thì sẽ là: Ủy viên bộ chính trị, bí thư quân ủy trung ương, Nguyên Súy, Bộ trưởng Bộ quốc phòng. Sau này , khi mất đi tên tuổi ông vẫn vang lừng không chỉ trong Việt Nam mà còn lan ra toàn thế giới (ông là một trong số 10 vị tướng tài ba nhất trên thế giới, cùng với các vị như Nã Phá Luân (Napoleon), Thành Cát Tư Hãn... là những người có ý nghĩa to lớn với lịch sử thế giới ), người ta tôn làm Đức Thánh Trần. Còn trong tín ngưỡng dân gian, người ta thường tôn danh ông là Đức Thánh Ông Trần Triều hay ngắn gọn hơn là Đức Ông Trần Triều.
Hầu Giá Đức Ông Trừ Tà Sát Quỷ
Nếu một người có căn số hầu các giá nhà Trần thì giá Đức Ông có thể là giá mở khăn đầu tiên
(Vì Tam Tòa Thánh Mẫu không tung khăn) tuy nhiên cũng khá hiếm khi có người hầu về Đức Ông mà chỉ khi đại sự cần thỉnh ông về để trừ tà sát quỷ thì mới hầu ông (vì theo quan niệm cổ: “Bóng” Đức Ông khá nặng nên không phải đồng cựu đã đội lệnh nhà Trần thì không thể hầu được) hoặc khi đại tiệc mở phủ thường thỉnh ông về chứng đàn Trần Triều (gồm voi, ngựa, thuyền rồng, tráp áo...) hoặc đồng mới tạ phủ và làm lễ đội lệnh nhà Trần. Khi ngự đồng, ông mặc áo đỏ, thêu rồng và hổ phù (có một số nơi hầu ông, chân đi hia, đầu đội mũ trụ), có thể mặc áo choàng bên ngoài, một số vùng hầu ông thường múa thanh đao.
Khi về đồng, Đức Thánh Ông thường làm phép để sát quỷ trừ tinh (điều này chỉ có đúng đồng nhà Trần, có đội lệnh mới có thể làm như thế khi hầu ông) đó là: “lên đai thượng”nghĩa là cầm dải lụa đỏ thắt cổ (khi thắt vào cổ, mặt người hầu thường bạnh ra, đỏ,thì thế mới là thật đồng), lúc này người hầu dâng phải khéo léo móc một ngón tay vào dây thắt cổ để cho dãn bớt (vì dù là thật đồng nhưng Đức Thánh Ông chỉ giáng li giáng lai trên đầu đồng);“rạch lưỡi” nghĩa là dùng con dao hay vật nhọn rạch vào lưỡi người hầu để lấy máu (gọi là Đức Ông ban “dấu mặn”) sau đó phun ra tờ giấy phù hoặc rượu, có người xin giấy phù mang về để hộ thân trừ tà, có người bị tà mà quấy nhiễu lại xin rượu có máu, uống để trục tà; ngoài ra còn có uống dầu sôi, nung nóng bàn cuốc rồi đặt chân lên…
Tuy nhiên, hiện nay, các lối hầu cổ như vậy đã ít dần, chỉ còn một số người khi hầu Đức Đại Vương Trần Triều là có thể làm như vậy. Làm như thế người ta gọi là làm phép nhà Trần ra uy, vậy nên văn hát giá Đức Thánh Ông Trần Triều có một số đoạn như:
“Thánh Ông có lệnh truyền ra
Các quan thủy bộ cùng là chư dinh
Hô vang trấn động Nam thành
Đánh Đông dẹp Bắc tung hoành mọi nơi”
Hay khi Đức Ông về ra uy tróc tà (lên đai thượng hay rạch lưỡi ban dấu mặn) người ta cũng hát rằng:
“Phép ông đôi má thu phình
Lưỡi thời lấy huyết quyết linh thần phù”
Do quan niệm dân gian nên khi có tà mà dịch bệnh người ta thường cầu đảo Đức Thánh Trần để sát quỷ trừ tà, nhất là phụ nữ bị bệnh về sản khoa (theo dân gian, phụ nữ bị bệnh sản khoa là do quỷ Phạm Nhan gây ra, mà Đức Ông lại là người đã chém đầu quỷ Phạm Nhan); ngoài ra có câu chuyện còn kể rằng nếu có giặc dã, vào đền xin Đức Ông mà thấy tráp kiếm có tiếng kêu bên trong thì nhất định là thắng lớn.
Đền thờ Đức Thánh Ông Trần Triều cùng với gia đình và tướng lĩnh của ông được nhân dân lập lên ở khắp nơi nhưng uy nghiêm và nổi tiếng nhất phải kể đến: Đền Kiếp Bạc ở Chí Linh, Hải Dương, được lập lên trên nền dấu tích ở nơi mà năm xưa ngài cho đóng quân doanh Vạn Kiếp, sau đó phải kể đến hai ngôi đền ở đất Nam Định, nguyên quán của ngài, đó là Đền Cố Trạch (Đền Trần) và Đền Bảo Lộc, đều thuộc Thiên Trường, Nam Định. Ngoài ra còn có Đền Phú Xá ở Hải Phòng (tương truyền là nơi đóng quân nghỉ chân năm xưa)
Ngày tiệc Đức Thánh Trần thường được tôn là ngày “giỗ Cha” của toàn thể dân tộc Việt Nam vào ngày 20/8 âm lịch (là ngày Đức Ông hóa) và được tổ chức long trọng nhất tại đến Kiếp Bạc. Ngoài ra vào giữa đêm ngày 14/1 âm lịch còn có tổ chức ban ấn của Đức Thánh Trần tại Đền Bảo Lộc.
Hai vị tướng phò trợ ông là Dã Tượng và Yết Kiêu cũng được suy tôn là Nam Tào và Bắc Đẩu. Đền thờ ông xây trên nền ngôi biệt phủ ngày xưa, gọi là đền Kiếp Bạc, hai bên có đền Nam Tào, Bắc Đẩu chầu vào.
Trong bài chầu văn có câu:
"Dung nghi tướng mạo đường đường,
Khuê trương vĩ vọng đống lương đại tài.
Võ thao lược hùng oai quán cố,
Văn kinh luân khí độ Việt nhân
[...]
Bạch Đằng nhất trận thủy công,
Tặc Nguyên đại phá huyết hồng mãn giang."
Từ đó, tín ngưỡng tôn thờ Đức Thánh Trần lan truyền khắp dân gian Việt Nam và ảnh hưởng đến văn hóa hát văn, hầu đồng Bắc Bộ. Mỗi năm đến ngày 20 tháng 8 âm lịch, người Việt gọi là ngày "tháng Tám giỗ Cha", bá tánh dâng hương cung kính cầu nguyện Ngài phù hộ quốc thái dân an, an cư lạc nghiệp.
"Nghi ngút khói hương không dứt,
Đền thiêng Vạn Kiếp trang nghiêm.
Thiêng liêng thờ phụng tôn sùng,
Sánh với thập phương Bồ tát." _Nguyễn Bỉnh Khiêm
Đức Thánh Trần tên thật là Trần Quốc Tuấn mất ngày 20/8 ông là con trai thứ của Trần Liễu anh trai vua Trần Thái Tông ( Trần Cảnh) về gốc tích ra đời của ông dân gian truyền lại, ông chính là Thanh tiên đồng từ trên Thiên Đình phụng lệnh Ngọc Hoàng đầu thai xuống hạ giới mang theo phi thân kiếm cờ ấn tam bảo của Lão Tử Ngũ Tài của Thái Công.Như vậy xét về nguồn gốc nhà Trần cũng xuất phát từ dòng tu tiên Đạo giáo, gốc của pháp Tứ Phủ (Đạo Mẫu) chính là Tam Phủ (Đạo Tiên). Nhà Trần không thuộc Tứ Phủ có lối thờ phụng riêng và phép tắc khác bên Tứ Phủ - nhưng Thần Chủ của Tứ Phủ và của bên Nhà Trần đều thuộc dòng Thiên Tiên - tuân chỉ Ngọc Hoàng Thượng Đế mà giáng phàm để cứu dân độ thế, khuyến Thiện phạt Ác - tuy xuất xứ khác nhau nhưng nhiệm vụ thì là một, vì vậy hiện nay có sự phối thờ Trần triều và tứ phủ.
Tương truyền khi Đức Thánh Trần mất, để tránh sự trả thù của quân Nguyên ông truyền lệnh lập mộ giả ở vườn An Lạc, Bảo Lộc ( Hiện nay tại Bảo Lộc có 1 lăng mộ ghi tên Hưng Đạo Đại Vương nhưng thực chất đó là mộ của 1 viên bộ tướng).
Khi hóa Đức thánh đã về thiên đình nhận chỉ của Ngọc Hoàng phong là Cửu Thiên Vũ Đế, với sứ mệnh diệt trừ yêu ma ở cả 3 cõi thiên đình, trần gian, âm phủ.Theo như vị hiệu thì Đức Thánh ngài Cửu Thiên Vũ Đế - Là Thiên Tinh nên tả Nam Tào, hữu Bắc Đẩu phù cho Thiên Tinh. Dân gian đã gắn hình ảnh hai vị tướng tâm phúc nhất của Đức Thánh Trần là ông Yết Kiêu và ông Dã Tượng vào vị trí phò tà của Đức Thánh Trần , khi sang thế giới bên kia họ sẽ trở thành quan Nam Tào, Bắc Đẩu tiếp tục giúp việc Đức Thánh Trần trong việc cứu dân giúp đời.
Trong hàng thánh nhà Trần có thầy dậy Văn và thầy dậy Võ thể hiện Triều đình nhà Trần trọng tài nên có phối Tự chứ từ thời đức Khổng Tử truyền Đạo Nho cho tới triều Trần thì biết bao nhiêu triều đại Vương Hầu Công Tử đều phải có Thầy dạy mới nên bậc hiền tài chứ không chỉ có triều Trần.
Nét đặc sắc khi hầu nhà Trần là phép lên đai thượng, xiên lình, lấy dấu mặn, Đức ông khi thượng đồng xiên lình hai tai và hai lình quân, Tứ vị vương tử ngự đồng lên đai thượng, xiên lình, Vương cô đệ nhị về đồng mang theo cờ kiếm,lấy dấu mặn, Đức ông về chứng. Dấu mặn dùng để chữa bệnh, trị tà, chữa điên, trấn yểm....thường là trấn yểm cho Đền to phủ lớn, trấn những vùng long mạch lớn, nếu dùng máu Thánh để trấn thì khó mà phá được. Phép lên đai thượng, xiên lình, lấy dấu mặn thường chỉ những người căn cao nặng mới hầu được vì khi lên đai thượng hai người đứng hai bên kéo dây thít chặt vào cổ, mắt ngầu đỏ lộn tròng, mặt hổ phù, nhiều người không phải căn cao mà lên đai thượng chết ngay trên sập hầu. Hiện nay có nhiều quan điểm cho rằng chỉ Đức ông đệ tam mới lên đai thượng vì giống gông xiềng khi bị oan, tuy vậy ý nghĩa thực sự của lên đai thượng là khi lên đai thượng mặt của người hầu sẽ thành mặt hổ phù thể hiện sư uy linh, thần oai của Thánh, vì vậy không chỉ đức ông đệ tam mà tứ vị vương tử khi ngự đồng làm việc đều lên đai thượng, xiên lình.
Xiên lình là hình thức của Sa man giáo, ở Việt Nam xiên lình tượng trưng cho những hiện tượng siêu nhiên, thần thông của bề trên, một số người cho rằng xiên lình do đâm vào huyệt đạo nên không chảy máu, nhưng sự thực khi hầu là xiên lung tung trên má, miệng, tai, không cứ vào huyệt đạo mà không chảy một giọt máu, tương tự như vậy, việc lấy dấu mặn, sau khi đạp vỡ, lấy mảnh sành rạch lưỡi phun máu vào bùa, nhưng khi thư hương vào chén rượu ngậm vào máu lập tức ngừng chảy.
Các vị thánh nhà Trần bao gồm:
1.Vương phụ - vương mẫu (Vương phụ Khải thánh An Sinh, tặng phong Hiển Hoàng Khâm Minh - Đại vương. Vương mẫu An Sinh phu nhân Thiện Đạo Quốc mẫu )
2. Đức đại vương chính cung (Cửu thiên vũ đế Trần Triều hiển thánh Thái Sư Thượng Phụ Quốc Công bình bắc đại nguyên suý Nhân Vũ Hưng Đạo đại vương thượng thượng thượng đẳng thần ): Khi ngự đồng ông mặc áo đỏ thêu rồng, hổ phù, ông làm phép sát quỷ trừ tinh, bóng đức ông khá nặng không phải đồng cựu đội lệnh nhà Trần thì không hầu được.
3. Vương phi phu nhân (Vương Phi Thiên Thành công chúa Nguyên Từ Quốc Mẫu ).Bà mất ngày 28/9
8. Đức Thánh Cả (Trần triều thượng tướng. Khai quốc công Hưng Vũ đại vương Trần Quốc Nghiễn,ngài ngự áo đỏ khăn đỏ, lưng đeo cờ kiếm, ngài ngự đồng lấy dấu máu làm bùa trừ tà sát quỷ chữa bệnh).
9. Đức Phó Tằng (Trần triều thượng tướng. Tiết độ sứ Hưng Hiến đại vương Trần Quốc Uất, ngài ngự áo đỏ khăn đỏ, lưng đeo cờ kiếm, ngài chuyên bắt tà ma, cắm đất tìm cốt và trị trùng)
10. Đức Thánh Tam (Trần triều thượng tướng. Khai quốc công Hưng Hiến đại vương, Đệ tam Ông cửa suốt Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng, ngài ngự áo đỏ khăn đỏ, lưng đeo cờ kiếm, ngài ngự đồng sát quỷ trừ tà, chữa bệnh)
11. Đức Thánh Đệ Tứ (Trần triều thượng tướng. Khai quốc công Hưng Trí đại vương Trần Quốc Hiện, ngài ngự áo đỏ khăn đỏ, lưng đeo cờ kiếm )
12. Đức Tiên cô Đệ nhất Quốc Mẫu (Trần triều Vương nữ đệ nhất Quyên Thanh công chúa Trần Thị Trinh, là vợ Vua Trần Nhân Tông, sau này cô theo vua Trần Nhân Tông tu tại Chùa Yên Tử, khi ngự đồng cô mặc áo màu đỏ, đầu đội khăn đóng, dùng khăn đỏ thắt dải buộc lên)
13. Đức Tiên cô Đệ nhị Đại Hoàng (Trần triều Vương nữ đệ nhị Đại Hoàng công chúa Điện Súy phu nhân Trần Thị Tĩnh, khi ngự đồng cô mặc áo màu vàng, một số nơi hầu cô mặc áo màu xanh, cô làm phép trừ linh tróc tà )
14. Lục Bộ Đức Thánh Ông ( đây là các danh tướng không mang họ Trần nhưng thuộc về công đồng Trần triều, và luôn được phối tự ở các Đền Trần Triều, các hàng lục bộ đều mặc áo đỏ, về bắt tà, đi trên than lửa, lười cày nung nóng) Gồm :
- Điện Tiền Phò Mã Phạm Tướng Quân (Trần Triều vương tế điện suý thượng tướng quân quan nội hầu Phạm sắc phong Chiêu Cảm Hùng Văn đại vương, ngài ngự đồng khăn áo đỏ, ngài về tiễn đàn nhà Trần )
- Tả Yết Kiêu tướng quân ( Tên thật là Phạm Hữu Thế, là tùy tướng của Hưng đạo vương Trần Quốc Tuấn, ông có tài bơi lội như loài thủy tộc, Trần Hưng Đạo trọng dụng và đặt tên là Yết Kiêu, ông được vua Trần phong tước Trần triều Hữu tướng đệ nhất bộ đô soái thủy quân tước hầu, lễ hội của ông ngày 15/1)
- Hữu Dã Tượng tướng quân ( ông rất giỏi huấn luyện voi, là tướng giỏi lục quân
- Hùng Thắng tướng quân (Vi Hùng Thắng, được sắc phong tước Quận Công)
- Huyền Do tướng quân ( Đặng Huyền Quang, tài ba võ nghệ hơn người, được vua Trần thăng tướng quân Thái úy, ông mất ngày 10/10)
15 - Trần Triều Vương nữ tôn Thuận Thánh Bảo Từ Hoàng Hậu (Bà là con gái trưởng của Hưng Nhượng vương Trần Quốc Tảng. Là vợ vua Trần Anh Tông. Mẹ đích của vua Trần Minh Tông)
16 - Trần Triều Khống Bắc tướng quân An Nghĩa đại vương ( Nguyễn Chế Nghĩa, ngài văn võ song toàn, đứng đầu ban võ, ngài mất ngày 28/8).
17. Đức Thái Bình công chúa ( Cô là con nuôi của Đức Thánh Trần, có công phục vụ nhà Trần ở vùng Thái Bình, khi ngự đồng cô mặc áo màu xanh)
19. Cô bé cửa suốt (Trần triều Vương ngoại nữ tôn Tịnh Huệ công chúa, là con gái của Phạm Ngũ Lão và là thứ phi của vua Trần Anh Tông, Anh Tông hoàng đế thứ phi. Cô cùng Đức ông Đệ Tam trấn thống lĩnh ba quân thủy binh trấn giữ ngoài Cửa suốt nên gọi là cô bé cửa suốt. Khi ngự đồng cô mặc trang phục màu trắng, múa kiếm và cờ lệnh, ngày tiệc của cô là ngày 2/3 âm lịch)
20. Cậu bé cửa đông ( Hiển thánh vương tôn chủ bộ tướng): Trong hệ thống thờ các vị thánh Trần triều cổ không hề có Cậu bé cửa Đông, khoảng những năm 1990 một số đồng thầy hầu giá cậu bé cửa đông theo lối hầu mới, ghép Tứ phủ với Trần triều trong một buổi ( trước đây Tú phủ và Trần Triều hầu tách các buổi khác nhau), 1 số tài liệu nói cậu là Thánh cậu trấn giữ Cửa đông, 1 số tài liệu nói Cậu là Cậu bé Quận bản Đền trong Đền cửa ông được Đức ông Đệ Tam trao quyền trấn giữ Cửa Đông, cậu được thờ ở 1 ngôi đền Mẫu gần đền cửa ông. 1 số sách cho là cậu là cháu trai của Hưng Đạo Đại Vương, bằng Cô bé Cửa Suốt, tuy vậy tài liệu không nói rõ đó là vị cháu nào của Hưng Đạo Đại Vương.Có giả thiết cho rằng cậu là Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản ( là cháu nội vua Trần Thái Tông). Khi ngự đồng cậu mặc áo vàng hoặc trắng, đầu vấn khăn ngang, múa cờ và kiếm.
- Ngoài ra còn các vị tướng khác như Trần Sầm, Đỗ Hựu, Đỗ Vỹ, Đỗ Hưng, Nguyễn An, Trần Bách, Đoàn Thại, Nông Thị Tâm, Lâm Văn Cường, Trần Nhật Duật….
- Cùng chư quan tướng hạ ban Ngũ hổ tướng quân, gồm:
+ Đông phương lưu diện Đại tướng thanh hổ đại thần
+ Nam phương lưu chỉ Đại tướng xích hổ đại thần
+ Tây phương lưu tất Đại tướng bạch hổ đại thần
+ Bắc phương lưu thị Đại tướng khắc hổ đại thần
+ Trung phương lưu phòng Đại tướng hoàng hổ đại thần
Ngài ngự đồng hiến hương hiến tửu hiến đĩa sành đập đĩa gầm rú khám sét bản đền từ trong ra ngoài thường được hầu bắt tà và tạ bản đền đóng cửa phong ấn
Văn Khấn Đức Thánh Trần
Con kính lạy Đức Trần Triều hiển thánh Nhân vũ Hưng Đạo Đại Vương Đại Nguyên soái
Bài Văn cúng khấn lễ Đức Thánh Trần
Văn khấn lễ Đức Thánh Trần
– Con kính lạy giòng tộc Công Đồng Trần Triều
– Con kính lạy Nguyên Từ Quốc Mẫu Thiên Thành Thái Trưởng Công.
– Con kính lạy Đức Trần Triều hiển thánh Nhân vũ Hưng Đạo Đại Vương Đại Nguyên soái, Tổng quốc chính, Thái sư Hương phụ Thượng quốc công tiết chế
Lịch triều tấn tặng khai quốc an chính hồng đồ tá trị hiện linh trác vĩ, Minh đức trĩ nhân, Phong huân hiên liệt, Chí trung đại nghĩa, Dực bảo trung hưng, Thượng đẳng tôn thần, Ngọc bệ tiền.
– Con kính lạy tứ vị Thánh tử đại vương, Nhị vụ vương cô Hoàng Thánh.
– Con kính lạy Đức ông phạm điệu suý tôn thần, tả quan Nam Tào, Hữu quan Bắc Đẩu, Lục bộ thượng từ, chư vị bách quan.
Hương tử con là:…………………………………………………………………….
Ngụ tại:…………………………………………………………………………………
Hôm nay ngày…. tháng….. năm…….. Hương tử chúng Chấp bái kỳ lễ bái xin các vị phù hộ độ trì cho hương tử con cùng toàn gia quyến được luôn mạnh khoẻ.
Đầu năm chí giữa, nửa năm chí cuối, chín tháng đông, ba tháng hè được tai quan nạn khỏi, điều lành mang đến, điều giữ giải đi, cầu tài đắc tài, cầu lộc đắc lốc,
Cầu bình an đắc bình an. Xin cho con được có người có cửa, được nhân an vật thịnh đi đến nơi về đến chốn, làm ăn được thuận buồn xuôi gió, vạn sự như ý.
Hương tử con lễ bạc tâm thành, trước án kính lễ, cúi xin được phù hộ độ trì.
Trần Triều Hưng Đạo Đại Vương
Và Những Điều Cần Biết
Hưng Đạo Đại Vương - Trần Quốc Tuấn được người dân Việt Nam tôn sùng như bậc Thánh nên còn được gọi là Đức Thánh Trần.Ngược dòng lịch sử hãy cùng tìm hiểu ông là ai? Công lao của ông đối với sự phát triển của nước non Đại Việt? Vì sao ông lại được nhân dân tôn thờ & phong Thánh? Gia đình của Hưng Đạo Đại Vương - Trần Quốc Tuấn gồm những ai? ..
Hưng Đạo Đại Vương là ai?
Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn (1232? - 1300) là danh tướng thời nhà Trần và cũng là danh tướng trong lịch sử Việt Nam có công lớn trong hai lần kháng chiến chống Nguyên Mông
Ông là tác giả của bộ Binh Thư Yếu Lược (Hay Binh Gia Diệu Lý Yếu Lược) và Vạn Kiếp Tông Bí Truyền Thư (Đã thất lạc).
Ông còn được người dân Việt Nam tôn sùng như bậc Thánh, nên còn được gọi là Đức Thánh Trần.
Tóm tắt cuộc đời Trần Triều Hưng Đạo Đại Vương
An Sinh Vương Trần Liễu lấy bà Lý Thị Thuận Thiên, một hôm bà mơ thấy có người mặc áo bào xanh tự xưng là người trời xuống đầu thai, giật mình tỉnh giấc, từ hôm đó bà mang thai, đủ ngày đủ tháng hạ sinh được một con trai, trong nhà ngào ngạt hương thơm và hào quang, thấy thế nên đặt tên con là Tuấn. Hôm đó vào ngày 10 tháng 12.
Sống trong một gia đình thân vương được chăm nom dạy dỗ học hành tử tế lớn lên trở thành một trang tuấn kiệt xuất sắc, văn võ kiêm toàn, tài năng cái thế, trung trinh nhất mực. Sau này Ngài giúp vua Trần 2 lần chiến thắng giặc Nguyên Mông, ngài lấy Trần Thị Anh Công chúa sinh hạ được 4 vương tử và 2 vương nữ. Các con của Ngài cùng các gia thân gia tướng đều anh dũng phi thường có công trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông.
Cuộc đời Ngài là tấm gương sáng về tinh thần trung hiếu nghĩa chí tín. Muôn đời về sau mãi mãi tôn vinh, các triều đại đều dùng những mĩ từ bậc nhất để tuyên tụng. Vua Trần phong “Quốc công Tiết chế Nhân vũ Hưng Đạo Đại vương” hay đức Thượng từ. Trần Anh Tông phong ông là “Thượng phụ Thượng Quốc công Bắc Bình Đại nguyên soái Quốc công Tiết chế Hưng Đạo Đại vương”
Những năm tháng đất nước thái bình, Ngài lại về sống cuộc sống thanh đạm ở Vạn Kiếp và qua đời ở đó. Ngài mất 20 tháng 8. Đền thờ Ngài rất nhiều nhưng có thể kể đến là Đền Kiếp Bạc (Hải Dương), Cố Trạch, Bảo Lộc (Nam Định), Trần Thương (Hà Nam)...
Đức Thánh Trần ngự đồng
Đức Thánh Trần được các Thanh đồng có căn bên Trần triều hầu, nhưng thường đồng cao đức trọng mới hầu được Ngài, hầu đức Thánh Trần không lên đai thượng (một số người hầu đai thượng là đi ngược lại lối xưa). Ngài ngự đồng mặc áo màu đỏ, thêu hổ phù, thắt nét dài trên khăn xếp, chân mang hia, Ngài có thể múa kiếm hoặc cờ, cờ có thể bằng khăn tấu. Đức Thánh Trần ngự đồng thường chứng giáng cho Thanh đồng đội lệnh, trừ tà sát quỷ, chữa bệnh vô sinh ...
Thân Thế Hưng Đạo Đại Vương:
Ông tên thật là Trần Quốc Tuấn, là con trai của An Sinh Vương Trần Liễu, cháu gọi vua Trần Thái Tông bằng chú. Sinh ra tại Kiếp Bạc, xã Hưng Đạo, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, nguyên quán ở làng Tức Mặc, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. Năm sinh của ông là năm 1231.
Ông vốn có tài quân sự, lại là tôn thất nhà Trần, do đó trong cả 3 lần quân Nguyên - Mông tấn công Đại Việt, ông đều được vua Trần cử làm tướng chống trận. Đặc biệt ở kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ 2 và thứ 3, ông được vua Trần Nhân Tông phong làm Tiết Chế các đạo quân thủy bộ. Dưới tài lãnh đạo của ông, quân dân Đại Việt chiến thắng ở Chương Dương, Hàm Tử, Vạn Kiếp, Bạch Đằng, đuổi quân Nguyên - Mông ra khỏi đất nước.
Sau khi kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ 3 thành công. Đất nước thanh bình. Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn lui về sống ở Vạn Kiếp. Ông đã dựa vào địa thế vùng Vạn Kiếp mà Kiếp Bạc là trung tâm để lập phủ đệ và quân doanh làm phòng tuyến chiến lược giữ mặt Đông Bắc của Tổ Quốc. Ông còn cho trồng các loại cây thuốc để chữa bệnh cho binh sĩ và nhân dân trong vùng.
Muà thu tháng 8, ngày 20 năm Canh Tý, Hưng Long thứ 8, tức ngày 5/9/1300 trái tim người anh hùng đã ngừng đập. Theo lời dặn, thi hài ông được hoả táng thu vào bình đồng và chôn trong vườn An Lạc, giữa cánh rừng An Sinh miền Đông Bắc, không xây lăng mộ. Sau khi ông mất triều đình phong tặng là Thái Sư Thượng Phụ Quốc Công Tiết Chế Nhân Võ Hưng Đaọ Vương.
Nhân dân vô cùng thương tiếc người anh hùng dân tộc đã có công lao to lớn trong cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên - Mông bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ và độc lập dân tộc nên lập đền thờ Ông trên nền Vương Phủ gọi là đền Kiếp Bạc. Dân ta kính trọng vinh danh Ông là Đức Thánh Hưng Đạo Đại Vương lập đền thờ Đức Thánh Trần ở nhiều nơi.
Các Điển Tích về Hưng Đạo Đại Vương:
Lúc thiếu thời:
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư có chép: "Lúc mới sinh ra, có một thầy tướng xem cho và bảo: "[Người này] ngày sau có thể cứu nước giúp đời"."
Khi lớn lên, ông có dung mạo khôi ngô, thông minh hơn người, đọc thông hiểu rộng, có tài văn võ. An Sinh Vương Trần Liễu trước đây vốn có hiềm khích với Chiêu Lăng (Tức vua Trần Thái Tông - Trần Cảnh), mang lòng hậm hực, tìm khắp những người tài nghệ để dạy Trần Quốc Tuấn. Lúc sắp mất, An Sinh Vương cầm tay Trần Quốc Tuấn, trăng trối rằng: "Con không vì cha lấy được thiên hạ, thì cha chết dưới suối vàng cũng không nhắm mắt được". Do An Sinh Vương Trần Liễu lấy người chị của công chúa Lý Chiêu Hoàng là Thuận Thiên Công Chúa, còn Trần Cảnh cưới Lý Chiêu Hoàng khi bà mới 7 tuổi. Sau này Lý Chiêu Hoàng không có con nên năm 1237, Trần Thủ Độ bắt vợ của Trần Liễu lúc ấy có thai ba tháng về làm vợ Trần Cảnh (Chị thay cho em). Chính vì lẽ đó mà Trần Liễu oán giận Trần Cảnh. Trần Quốc Tuấn ghi điều đó trong lòng, nhưng không cho là phải.
Năm 4~5 tuổi, Trần Hưng Đạo theo cha là Khâm Minh Thái Vương (Tức Trần Liễu) đi Ái Châu, nơi giam cầm trọng tội. Trưởng Công Chúa Thụy Bà thương anh cả vô tội bị đầy, bèn năn nỉ anh kế là Trần Thái Tông, xin nhận Trần Hưng Đạo làm con đem về Thăng Long nuôi dạy. Để tránh sự soi mói ghẻ lạnh của triều đình, Trần Hưng Đạo được Trưởng Công Chúa Thụy Bà gửi tại chùa Phật Quang (Làng Khúc Thủy, Cự Khê, Thanh Oai, Hà Nội) nhờ trụ trì chùa dạy dỗ cho tới năm lên 10.
Cướp Ngôi Hay Không:
Đến khi vận nước lung lay, quyền quân quyền nước đều do ở mình, ông đem lời cha trăn trối để dò ý hai gia nô thân tín là Dã Tượng và Yết Kiêu. Hai người gia nô bẩm rằng: "Làm kế ấy tuy được phú quý một thời nhưng để lại tiếng xấu ngàn năm. Nay Đại Vương há chẳng đủ phú và quý hay sao? Chúng tôi thề xin chết già làm gia nô, chứ không muốn làm quan mà không có trung hiếu, chỉ xin lấy người làm thịt dê là Duyệt làm thầy mà thôi".
(Lấy từ tích cũ: Sở Chiêu Vương chạy loạn ra nước ngoài, có người làm thịt dê tên là Duyệt đi theo. Sau đó Sở Chiêu Vương trở về nước, ban thưởng cho Duyệt. Duyệt từ chối và nói: "Nhà vua mất nước, tôi không được giết dê, nay vua về nước, tôi lại được làm nghề giết dê, tước lộc thế là đủ còn thưởng gì nữa".)
Trần Quốc Tuấn cảm phục đến khóc, khen ngợi hai người. Một hôm Trần Quốc Tuấn vờ hỏi con ông là Hưng Vũ Vương Trần Quốc Hiến: "Người xưa có cả thiên hạ để truyền cho con cháu, con nghĩ thế nào...?!?".
Hưng Vũ Vương Trần Quốc Hiến thưa: "Dẫu khác họ cũng không nên, huống chi là cùng một họ!".
Trần Quốc Tuấn ngẫm cho là phải. Lại một hôm Trần Quốc Tuấn đem chuyện ấy hỏi người con thứ là Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng. Trần Quốc Tảng tiến lên thưa: "Tống Thái Tổ vốn là một ông lão làm ruộng, đã thừa cơ dấy vận nên có được thiên hạ".
Trần Quốc Tuấn rút gươm mắng: "Tên loạn thần là từ đứa con bất hiếu mà ra". Trần Quốc Tuấn định giết Trần Quốc Tảng, Hưng Vũ Vương hay tin, vội chạy tới khóc lóc xin chịu tội thay, Trần Quốc Tuấn mới tha.
Sau đó, ông dặn Hưng Vũ Vương: "Sau khi ta chết, đậy nắp quan tài đã rồi mới cho Trần Quốc Tảng vào viếng".
Năm Thiệu Bảo thứ 7, Ất Dậu, 1285, thế giặc bức bách, hai vua ngầm đi chiếc thuyền nhỏ đến Tam Trĩ Nguyên (Sông Ba Chẽ, tỉnh Quảng Ninh ngày nay), sai người đưa thuyền ngự ra Ngọc Sơn (Mũi biển thuộc Châu Vạn Ninh, gần Móng Cái, nay thuộc tỉnh Quảng Ninh) để đánh lừa giặc.
Lúc ấy, xa giá nhà vua phiêu giạt, mà Trần Quốc Tuấn vốn có kỳ tài, lại còn mối hiềm cũ của An Sinh Vương, nên có nhiều người nghi ngại. Trần Quốc Tuấn theo vua, tay cầm chiếc gậy có bịt sắt nhọn. Mọi người đều gườm mắt nhìn. Trần Quốc Tuấn liền rút đầu sắt nhọn vứt đi chỉ chống gậy không mà đi. Còn nhiều việc nữa, đại loại như thế.
Sử gia Ngô Sĩ Liên viết: "Bậc đại thần ở vào hoàn cảnh bị hiềm nghi nguy hiểm, tất phải thành thực tin nhau, sáng suốt khéo xử, như hào cửu tứ của quẻ Tùy (Xem Kinh Dịch) thì mới có thể giữ tròn danh dự, làm nên sự nghiệp. Nếu không thế thì nhất định sẽ mang tai họa. Quách Tử Nghi nhà Đường, Trần Quốc Tuấn nhà Trần đã làm được như vậy."
Quan Hệ Với Trần Quang Khải:
Trước kia, Trần Thánh Tông thân đi đánh giặc, Trần Quang Khải theo hầu, ghế Tể Tướng bỏ không, vừa lúc có sứ phương Bắc đến. Trần Thái Tông gọi Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn tới bảo: "Thượng Tướng đi theo hầu vắng, trẫm định lấy khanh làm Tư Đồ để tiếp sứ phương Bắc".
Trần Quốc Tuấn thưa: "Việc tiếp sứ giả, thần không dám từ chối, còn như phong thần làm Tư Đồ thì thần không dám vâng chiếu. Huống chi Quan gia đi đánh giặc xa, Thái Sư theo hầu mà bệ hạ lại tự ý phong chức, thì tình nghĩa trên dưới, e có chỗ chưa ổn, sẽ không làm vui lòng Quan gia và Thượng Tướng. Đợi khi xa giá trở về, sẽ xin vâng mệnh cũng chưa muộn".
Một hôm, Trần Quốc Tuấn từ Vạn Kiếp tới, Trần Quang Khải xuống thuyền chơi suốt ngày mới trở về. Trần Quang Khải vốn sợ tắm gội, Trần Quốc Tuấn thì thích tắm thơm, từng đùa bảo Trần Quang Khải: "Mình mẩy cáu bẩn, xin tắm giùm". Rồi ông cởi áo Trần Quang Khải ra, dùng nước thơm tắm cho Trần Quang Khải và nói: "Hôm nay được tắm cho Thượng Tướng". Trần Quang Khải cũng nói: "Hôm nay được Quốc Công tắm rửa cho".
Trước đây, hai ông tuy một là Quốc Công Tiết Chế, một là Thượng Tướng Thái Sư nhưng do lo lắng về mối thù của Trần Liễu để lại mà có mối hiềm nghi xa cách. Sau khi được Trần Quốc Tuấn tắm cho, hai ông trở nên thân tình, tin tưởng nhau, tình nghĩa qua lại giữa hai ông ngày càng thêm mặn mà. Trong việc giúp đỡ nhà vua, hai ông đều đứng hàng đầu.
Quyền Phong Tước:
Vì có công lao lớn trong cả 3 lần chống quân Nguyên - Mông nên vua gia phong ông là Thượng Quốc Công. Cho phép ông được quyền phong tước cho người khác, từ Minh Tự trở xuống, chỉ có Tước Hầu thì phong tước rồi tâu sau. Nhưng Trần Quốc Tuấn chưa bao giờ phong tước cho một người nào. Khi quân Nguyên - Mông vào cướp, Quốc Tuấn lệnh cho nhà giàu bỏ thóc ra cấp lương quân, mà cũng chỉ cho họ làm Lang Tướng giả chứ không cho họ tước Lang Tướng thực, ông rất kính cẩn giữ tiết làm tôi.
Ông lại khéo tiến cử người tài giỏi cho đất nước, như Dã Tượng, Yết Kiêu là gia thần của ông, có dự công dẹp Ô Mã Nhi, Toa Đô. Các người nổi tiếng khác như Phạm Ngũ Lão, Trần Thì Kiến, Trương Hán Siêu, Phạm Lãm, Trịnh Dũ, Ngô Sĩ Thường, Nguyễn Thế Trực vốn là môn khách của ông, đều nổi tiếng thời đó về văn chương và chính sự.
Bởi vì ông có tài mưu lược, anh hùng, lại một lòng giữ gìn trung nghĩa vậy. Xem như khi Trần Thánh Tông vờ bảo Trần Quốc Tuấn rằng: "Thế giặc như vậy, ta phải hàng thôi". Trần Quốc Tuấn trả lời: "Bệ hạ chém đầu tôi trước rồi hãy hàng". Vì thế, đời Trùng Hưng, Trần Quốc Tuấn lập nên công nghiệp hiếm có. Tiếng vang đến phương bắc, chúng thường gọi ông là An Nam Hưng Đạo Vương mà không dám gọi thẳng tên.
Sau khi mất rồi, các Châu Huyện ở Lạng Giang hễ có tai nạn bệnh dịch, nhiều người cầu đảo ông. Còn có lời đồn rằng, mỗi khi đất nước có giặc vào cướp, đến lễ ở đền ông, hễ tráp đựng kiếm có tiếng kêu thì thế nào cũng thắng lớn.
Trần Quốc Tuấn từng soạn các sách như Binh Gia Diệu Lý Yếu Lược (Quen gọi là Binh Thư Yếu Lược) và Vạn Kiếp Tông Bí Truyền Thư để dạy các Tỳ Tướng, chiêu dụ họ bằng bài Hịch Tướng Sĩ. Trần Quốc Tuấn từng soạn sách để khích lệ Tướng Sĩ dưới quyền, dẫn chuyện Kỷ Tín chết thay để cứu thoát Hán Cao Tổ, Do-Vu-Thát-Đát (Mông Cổ).
Dưới vó ngựa của Mông Cổ, các nước Hồi Giáo hiếu chiến ở Trung Á, các công quốc Moskva, Novogrod (Nước Nga ngày nay) cũng không thể nào bảo vệ được nền độc lập của mình. Lãnh thổ của Đế Quốc Mông Cổ, theo chiều ngang, kéo dài từ Viễn Đông (Gồm cả Triều Tiên) đến tận Moskva, Muhi (Hungary), Tehran, Damascus. Chiều dọc từ Bắc Á xuống tới cả biên giới Ấn Độ, Miến Điện. Trong cơn lốc chinh phục của họ, chỉ có Thái Lan (Giơ lưng chịu giáo để cứu Sở Tử).
Trần Quốc Tuấn dạy đạo trung như vậy. Nhân dân Việt Nam vô cùng kính trọng ông do công lao hai lần lãnh đạo đất nước chống lại được họa Sukhothai, thoát khỏi họa diệt vong nhờ sách lược cầu hòa.
Nhật Bản may mắn nhờ một trận bão biển làm thiệt hại bớt tàu của Mông Cổ & Đại Việt nhờ khả năng lãnh đạo của Hưng Đạo Đại Vương mà giữ được bờ cõi. Mông Cổ không xâm chiếm được Ấn Độ, họ chỉ tiến được đến biên giới miền Bắc Ấn Độ ngày nay và bị chặn lại. Họ cũng chỉ vào được miền Bắc Miến Điện trong một thời gian ngắn rồi phải rút lui. Ngoài Đại Việt đánh bại được đế chế Mông Cổ còn có Java (Indonesia), Ai Cập, Ấn Độ.
*** Năm Thuộc Hạ Tài Giỏi & Trung Thành Của Trần Hưng Đạo ***
Yết Kiêu.
Dã Tượng.
Cao Mang.
Đại Hành.
Nguyễn Địa Lô.
Lấy Dân Làm Gốc:
Tháng 6 năm 1300, Hưng Đạo Vương ốm. Vua ngự tới nhà thăm, hỏi rằng: "Nếu có điều chẳng may, mà giặc phương Bắc lại sang xâm lược thì kế sách như thế nào?". Hưng Đạo Vương trả lời: "Ngày xưa Triệu Vũ Đế (Tức Triệu Đà) dựng nước, vua nhà Hán cho quân đánh, nhân dân làm kế thanh dã, đại quân ra Khâm Châu, Liêm Châu đánh vào Trường Sa, Hồ Nam, còn đoản binh thì đánh úp phía sau. Đó là một thời. Đời nhà Đinh, nhà Tiền Lê dùng người tài giỏi, đất phương Nam mới mạnh mà phương Bắc thì mệt mỏi suy yếu, trên dưới một dạ, lòng dân không lìa, xây thành Bình Lỗ mà phá được quân Tống.
Đó lại là một thời.
Vua nhà Lý mở nền, nhà Tống xâm phạm địa giới, dùng Lý Thường Kiệt đánh Khâm, Liêm, đến tận Mai Lĩnh là vì có thế. Vừa rồi Toa Đô, Ô Mã Nhi bốn mặt bao vây. Vì vua tôi đồng tâm, anh em hòa mục, cả nước góp sức, giặc phải bị bắt. Đó là trời xui nên vậy. Đại khái, nó cậy trường trận, ta dựa vào đoản binh. Dùng đoản binh chế trường trận là sự thường của binh pháp. Nếu chỉ thấy quân nó kéo đến như lửa, như gió thì thế dễ chế ngự. Nếu nó tiến chậm như các tằm ăn, không cầu thắng chóng, thì phải chọn dùng tướng giỏi, xem xét quyền biến, như đánh cờ vậy, tùy thời tạo thế, có được đội quân một lòng như cha con thì mới dùng được. Vả lại, khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước vậy".
Khi sắp mất, ông dặn con rằng: "Ta chết thì phải hỏa táng, lấy vật tròn đựng xương, bí mật chôn trong vườn An Lạc, rồi san đất và trồng cây như cũ, để người đời không biết chỗ nào, lại phải làm sao cho mau phục".
Trần Quốc Tuấn giữ Lạng Giang, quân Nguyên hai lần vào cướp, ông liên tiếp đánh bại chúng, sợ sau này có thể xảy ra tai họa đào mả chăng. Ông lo nghĩ tới việc sau khi mất lại là vì vậy.
Mùa thu, tháng 8, ngày 20, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn mất ở phủ đệ Vạn Kiếp Đạo Đại Vương. Vua Trần Thánh Tông có soạn bài văn bia ở sinh từ của Trần Quốc Tuấn, ví ông với Thượng Phụ (Lã Vọng ngày xưa bên Trung Quốc).
Nhân Dân Sùng Kính Phong Thánh:
Sau khi mất, Trần Hưng Đạo được thờ phụng ở nhiều nơi, trong đó lễ hội lớn nhất ở đền Kiếp Bạc thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương ngày nay, nơi ngày xưa là phủ đệ của ông.
Ông được người dân nhiều đời sùng kính phong Thánh tức là Đức Thánh Trần, đây là điều hiếm hoi trong lịch sử chỉ dành riêng cho vị danh tướng nhà Trần. Ngày lễ chính thức được tổ chức vào ngày ông mất (20 tháng 8 Âm Lịch hàng năm). Nhân dân không gọi trực tiếp tên của ông mà gọi là Hưng Đạo Vương, Hưng Đạo Đại Vương, Đức Thánh Trần, hoặc gọi là Cha (Tháng Tám giỗ Cha, tháng Ba giỗ Mẹ).
Cách gọi danh hiệu của ông cũng khác các vị Vương. Các Vương đều được gọi theo Tước và Tên, như Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải, Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật, còn riêng ông được gọi bằng Họ và Tước là Trần Hưng Đạo. Đây là cách gọi vốn chỉ dành riêng cho các vị vua là Họ và Miếu hiệu (Như Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông). Qua đó có thể thấy dân gian coi ông ngang với các vua Trần.
Các đền thờ Hưng Đạo Đại Vương có thể thấy ở khắp nước Việt Nam.
Tác Phẩm:
- Hịch Tướng Sĩ.
- Binh Gia Diệu Lý Yếu Lược (Hoặc gọi là Binh Thư Yếu Lược).
- Vạn Kiếp Tông Bí Truyền Thư.
Sơ lược về Gia Đình:
Cha Mẹ
- An Sinh Vương Trần Liễu.
- Mẹ: Thiện Đạo Quốc Mẫu Húy Nguyệt.
Anh Em
- Tuệ Trung Thượng Sĩ Trần Tung (Anh trai).
- Vũ Thành Vương Trần Doãn (Anh trai).
- Trần Quốc Khang (Em trai). Năm 1237, khi công chúa Thuận Thiên - vợ Trần Liễu - có mang Quốc Khang 3 tháng thì bị Trần Thủ Độ ép lấy Trần Thái Tông.
- Trần Thị Thiều (Em gái) làm hoàng hậu của Trần Thánh Tông. Mẹ đẻ của Trần Nhân Tông, được phong là Nguyên Thánh Thiên Cảm Hoàng Thái Hậu.
Vợ
Công Chúa Thiên Thành tức Nguyên Từ Quốc Mẫu (? - 1288). Lấy tháng 2 năm 1251.
- Con
Trần Hưng Đạo có 4 người con trai và 1 người con gái. Ngoài ra còn 1 người con gái nuôi.
- Hưng Vũ Vương Trần Quốc Nghiễn (Hiến, Nghiện): Võ Tướng.
- Minh Hiến Vương Trần Quốc Uất: Võ Tướng.
- Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng: Võ Tướng, cha vợ của Trần Anh Tông, ông nội của Tư Đồ Văn Huệ Vương Trần Quốc Triều (Trọng thần của Trần Minh Tông).
- Hưng Trí Vương Trần Quốc Hiện (Nghiễn): Võ Tướng, nhà khai khẩn đất đai.
- Khâm Từ Hoàng Hậu: Vợ vua Trần Nhân Tông.
- Anh Nguyên Quận Chúa: Con nuôi của Trần Hưng Đạo, vợ của Phạm Ngũ Lão.
Câu Nói Nổi Tiếng:
"Bệ hạ chém đầu tôi trước rồi hãy hàng"
"Vua tôi đồng lòng, anh em đoàn kết, cả nước góp sức, nên bọn giặc phải chịu bị bắt"
--- Trần Hưng Đạo ---
"Ta thường tới bữa quên ăn nửa đêm vỗ gối ruột đau như cắt nước mắt đầm đìa.Chỉ giận chưa thể xả thịt lột da ăn gan uống máu quân thù.Dẫu cho trăm thân ta phơi ngoài nội cỏ, nghìn thây ta bọc trong da ngựa cũng nguyện xin làm"
Lời văn thỉnh đức Thánh ông Trần Triều
THẦN TIÊN NGƯỠNG KHẢI TẤU THÁNH TÔN
TỌA THƯỢNG DƯƠNG DƯƠNG NGHIỄM NHƯỢC TỒN
NGUYỆN THỈNH PHÁP ÂM THI HUỆ LỰC
TÙY CƠ PHÒ CẢM NẠP TRẦN NGÔN
QUỐC SỬ KÍ VIỆT NAM TRẦN THỊ
LỊCH ĐẾ VƯƠNG KẾ THẾ TRỊ BÌNH
THIÊN TRƯỜNG, BẢO LÔC ĐỊA DANH
SƠN HÀ DỤC TÚ TRUNG LINH KHAM KỲ
NGOAỊ MAN DI ÚY UY CUNG PHỤC
NỘI TRUNG HOA MỘ ĐỨC TÔN THÂN
THƯƠNG MINH QUÂN HẠ LƯƠNG THẦN
NHẤT ĐƯỜNG NGƯ THỦY LONG VÂN TAO PHÙNG
HỘI NIÊN PHONG HÀ THANH HẢI YẾN
THỜI PHÚC TINH XUẤT HIỆN NAM BANG
TƯỜNG VÂN ÁI ĐÃI LƯU QUANG
HOÀNG THIÊN TÍCH MỆNH NAM BANG GIÁNG TRẦN
ỨNG MỘNG LÝ MÃN TUẦN XUẤT THẾ
THÁC ĐỊNH SINH TRẦN THỊ TÔN VƯƠNG
DUNG NGHI TƯỚNG MẠO ĐƯỜNG ĐƯỜNG
KHUÊ TRƯƠNG VĨ VỌNG ĐỒNG LƯƠNG ĐẠI TÀI
VÕ THAO LƯỢC HÙNG OAI QUÁN CỔ
VĂN KINH LUÂN KHÍ ĐỘ VIỆT NHÂN
TRIỀU BAN BỈ CỰC HOÀNG THÂN
NỘI SAN BINH CHÍNH NGOẠI CẦU ĐỒNG BINH
MƯU QUYẾT THỦY KHỔNG MINH THỨC TRÍ
PHÉP HÀNH SƯ BẠCH KHÍ CHI DOANH
THIÊN CƯƠNG THÁI ẤT TUNG HOÀNH
TỨ KỲ BÁT CHÍNH QUAN TINH TRẬN ĐỒ
TÁC MIẾU ĐƯỜNG QUY MÔ SANG CHẾ
LẬP TRIỀU ĐÌNH CƯƠNG KỈ HƯNG LONG
UY DANH CÁI THẾ ANH HÙNG
BẮC NAM VIẾT THÁNH TÂY ĐÔNG XƯNG THẦN
NIÊN BÍNH TUẤT TRÙNG HƯNG CHI NHỊ
VĂN NGUYÊN TÀO CHÚ ĐẾ ĐẰNG GIANG
VẠN BINH HẢI ĐỘNG BA DƯƠNG
MÃ NHI CỜ HIỆU TƯỚNG CƯỜNG NAN ĐƯƠNG
BÁ LINH KHẤT NGÔ VƯƠNG ĐỚI TỘI
QUÁ NAM THÀNH PHÓ HỘI LẬP CÔNG
NHẤT PHƯƠNG NỖ LỰC KHỞI PHONG
NAM QUAN CAÓ CẤP CỬU TRÙNG KIẾN VĂN
PHÁN TRIỀU THẦN THÙY NĂNG ĐĂNG ĐỊNH
CỨU LƯƠNG DÂN TỤ TẶC GIAN NAN
BÁCH QUAN THƯỢNG TẤU THIÊN NHAN
CỬ TRẦN ĐẠI TƯỚNG TIỄU AN TẶC ĐỒ
ANH TÔN HẠ LONG CHU BÚT TỨ
CHIẾU ĐẶC SAI ĐẠI CỬ TIÊN PHONG
PHỤNG SAI CHIẾU MỆNH CỬU TRÙNG
LĨNH BAN KIẾM ẤN TIÊN PHONG KHỞI HÀNH
THÔNG VẠN BINH TỔNG KIÊM TIẾT CHẾ
QUẢN CHƯ QUÂN NGHỆ CHÍ ĐẰNG GIANG
BÀI SAN THỦY TRÂN QUANG MANG
CỔ MINH LỤC ĐIỀM KỲ CHƯƠNG NGŨ HÀNH
BÁ LINH HỮU KỲ BINH NGŨ CHÍ
THỊ HÙNG TÀI BÁT ÚY VƯƠNG SƯ
MỘC NIÊN THÁNH XUẤT MƯU KỲ
LỆNH SAI TIỀM PHỤC THUỶ TÊ XUYÊN TÀO
TIỀN QUÂN VĨNH LÂM HẦU ĐẠI TƯỚNG
TẢ QUÂN SAI DÃ TƯỢNG GIÁP CÔNG
HỮU QUÂN ÔNG YẾT KIÊU HÙNG
HẬU QUÂN PHÒ MÃ THƯƠNG CÔNG TIẾP TÙY
TÁNH CƯ TRUNG HOÀNG KỲ DIỆU PHÁT
LỆNH CHỈ HUY ĐIỀU BÁC NGŨ QUÂN
UY PHONG LẪM LIỆT NHƯ THẦN
SƠN ĐỒI,THẠCH CHỤY HẢI TẦN BA DƯƠNG
KIẾM NHẤT CHỈ TINH DI VẬT HOÁN
PHÁO LIÊN THANH THIÊN ÁM ĐỊA RUNG
BẠCH ĐẰNG NHẤT TRẬN THỦY CÔNG
TẶC ĐỒ ĐẠI PHÁ HUYẾT HỒNG MÃN GIANG
THÁNH HẠ LỆNH CHIÊU AN DÂN THỨ
THƯỞNG QUAN QUÂN BAN SỨ HỮU SAI
TRUNG QUÂN VÔ TRẬN HOÀN TÀI
NGÂN HÀ TỔNG GIÁP KIÊM BÀI THU BINH
DẪN ĐẠI NGHỊCH BÁ LINH HÀNH KIẾM
GIA TRỌNG HÌNH TRÀM TIỄN PHÂN TAM
KHÍ LỘ KHÍ THỊNH KHÍ GIANG
QUÁCH DI MẪU TÁN, KHÍ TÀN THỊ UY
KHẢI HỒI TÂÚ ĐAN TRÌ NGỰ CHỈ
CHIẾU LỆNH TRUYỀN TƯỚNG SỸ LAI KINH
THÁNH HỒI BÁI TẠ ĐẾ ĐÌNH
CỬU TRÙNG KHAI TIỆC YẾN QUỲNH NGỌC GIAO
TÀI HỘ QUỐC CÔNG CAO ĐỆ NHẤT
SẮC TẶNG PHONG LỘC TRẬT THIÊN TRUNG
NHẤT THIÊN HÒA KHÍ XUÂN PHONG
KÌNH NGHÊ THẤT CHÍ GIẢO LONG ĐẮC THÌ
KÍ NIÊN HỘI TÍNH DI VẬT HOÁN
HỘI TRÍ KỲ MÃN HẠN QUY TIÊN
CỬU TRÙNG CHIẾU TRIỆU HỒI THIÊN
CHÂN KHÔNG THOÁT LÁNH NGHIỆP DUYÊN PHONG TRẦN
PHÉP THĂNG ĐẰNG XA LUÂN BỈNH BỈNH
ÁNH HÀO QUANG HIỂN THÁNH LINH THÔNG
QUANG THIÊN DUỆ NGUYỆT THU TRUNG
NHỊ THẬP NHẬT THÁNH HỒI CUNG THĂNG ĐÀNG
MỘC QUỐC ÂN GIA PHONG THƯỢNG ĐẲNG
TƯỚC ĐẠI VƯƠNG GIA TẶNG THÁI SƯ
TÔN TINH ẨN HIỆN NAM QUY
SINH VI LINH TƯỚNG TỬ VI LINH THẦN
PHÙ NAM QUỐC PHONG THẦN KHẢI TĨNH
BẢO LÊ DÂN CƯỜNG THỊNH KHANG NINH
DƯỢC SƠN CẢNH TRÍ HỮU TÌNH
ĐỊA LINH TỤ KHÍ TRUNG ANH DỊ THƯỜNG
VẠN KIẾP KHỞI DƯỢC SƠN CHÍNH VỊ
TIỀN MINH ĐƯỜNG LỤC THỦY HỢP GIAO
SONG SONG BẮC ĐẨU NAM TÀO
HỒI HÌNH BÁ TƯỚNG HUÂN CAO HÀ THÙ
TRƯỜNG SINH THỦY THẬP THIÊN THU ĐÁO
THỦY KHẤU THÔNG CHÍNH ĐẠO QUANG KHAI
NGHỊ BAN KIẾN LẬP LÂU DÀI
TỨ THỜI PHỤNG SỰ NGƯỠNG BÀI VẠN NIÊN
NGUY NGA CHẤN NAM THIÊN QUỐC TẾ
HIỂN ỨNG NĂNG TẾ THẾ ĐỘ DÂN
BÁ LINH TỨ HIỆN DÂM THẦN
DẠ THƯỜNG QUYẾN LUYẾN PHU NHÂN THAI BÀO
BIẾN NAM NỮ LƯỠNG YÊU TÁC QUÁI
NHÂN DÂN THƯỜNG BỊ HẠI OAN KHIÊN
HỮU SINH VÔ DƯỠNG MỘNG CHIỀN
BỆNH HÀNH KHINH TRỌNG LIÊN MIÊN TIỆT SÀNG
QUY KHÁNH TIỀN PHẦN HƯƠNG BÁI KHẤN
NGUYỆN THÙY TÌNH LÂN MẪN TRẦN GIAN
BÀI SAI HỘ BỘ CÁC QUAN
TỈNH KỲ TRÓC NHÃ PHẠM NHAN GIA HÌNH
TRẤN UY THANH TÀ TINH THẤT SẮC
VẠN DÂN ĐỒNG CẢM ĐỨC MỘC ÂN
HỮU THÙY SINH DỤC GIAN TRUÂN
LINH KỲ THỌ TỊCH NHÂN DÂN THỌ TRƯỜNG
DANH DƯƠNG DƯƠNG TỐI LINH THIÊN CỔ
THẬP TAM TUYÊN KHUÊ THỦ QUY TÂM
NGƯỠ NG CHIÊM THÁNH ĐỨC HOANG THÂM
SỞ CẦU TẤT ỨNG GIÁNG LÂM ĐIỆN ĐƯỜNG
KIM ĐỆ TỬ PHẦN HƯƠNG VỌNG TƯỞNG
DỐC LÒNG THÀNH TÂM TÍN NGƯỠNG ĐẠO CAO
TUÂN Ư QUỐC SỬ TRẦN TRIỀU
SỌAN THÀNH ỨC TẬP LƯU TRUYỀN ỨC DÂN.
VĂN ĐỨC THÁNH ÔNG TRẦN TRIỀU
Đức Thánh Trần Giáng Đàn TRỪ TÀ
Năm 1920 Hiệp hội Thông linh gia Pháp quốc có cử hai đại diện là ông Camille Flammarion và bà Josette d’Estamines sang khảo sát về phù thủy tại Đông Dương.Tại Việt Nam hai nhà thông linh Pháp đã tiếp xúc với nhiều nhân vật trong số đó có một viên tri huyện ở Hải Dương con nuôi của một vị pháp sư lừng danh Nhờ sự hướng dẫn của ông quan trẻ này mà hai nhà thông linh Pháp được chứng kiến nhiều sự việc kì bí, lạ lùng và viết hồi ký phóng sự về giới phù thủy Việt Nam đăng trên tạp chí “La Revue des Deux Mondes
Trích lục dưới đây là bài tường thuật về việc triệu thỉnh Đức Thánh Trần giáng đàn trừ tà
Đoàn quan khách về tới điện thờ, tắm rửa ăn cơm xong thì gần tối. Có một bà lão cùng con trai đến yêu cầu pháp sư bắt tà trị bệnh cho người con dâu bị “ma làm”, đau đã nửa tháng không dứt, lúc tỉnh khi mê. Bà lão đặt một khoản tiền lên đĩa đưa thày “sửa lễ” cúng Thánh, rồi ra về. Viên tri huyện nói với hai nhà thông linh Pháp:
- Bốn ngày nữa nhị vị sẽ xem nghĩa phụ tôi thỉnh âm binh thần tướng về trừ tà chữa bệnh cho một nữ tín chủ bị “quỷ ám”
Mấy ngày sau, y hẹn, bà cụ và con trai dẫn tới bằng cáng (võng), một thiếu phụ ốm xanh xao.
Vừa đến trước nhà, thiếu phụ nằm trên cáng bỗng thét lên, bắt phu cáng quay trở về. Ánh mắt quắc lên đanh ác, thị giãy nảy, nhất định không vào trong điện.
Hai nhà thông linh ngoại quốc chạy ra coi, không hiểu gì cả. Viên tri huyện giải thích đó là do con tà ám thiếu phụ sợ không dám vào điện.
Lão pháp sư, tiếp đó, cũng chạy ra, rồi vỗ tay lên đầu đòn cáng, nạt bảo hai phu khiêng cáng vào trong điện…
Thiếu phụ biến sắc, dáo dác sợ nằm im thin thít trên cáng
Vào đến trong, lão pháp sư cầm tay đỡ thị đứng lên, dẫn đến ngồi bên mẹ và chồng.
Bà đầm hỏi viên tri huyện:
- Tôi thấy con tà sợ pháp sư, nên đã hết làm dữ như lúc mới đến.
Viên tri huyện giải thích:
- Con tà đã xuất rồi.
- Vậy là thiếu phụ hết đau? Và con tà chạy đi đâu?
- Nó chưa trả hồn vía, giải bệnh cho thiếu phụ thì trốn đâu thoát? Hiện nó ở ngoài cửa, vì sợ không dám vào, pháp sư phải đánh quyết trục tà khỏi nạn nhân và vỗ tay lên gọng cáng cột nó vào đó.
- Như vậy, pháp sư trông thấy ma quỷ?
- Nghĩa phụ tôi niệm chú thì mắt thấy nơi ma quỷ trốn lánh.
- Nếu vậy, ai đọc được chú này đều thấy ma quỷ?
Viên tri huyện lắc đầu:
- Không phải ai cũng biết chú “kiến âm”. Chú này cùng một số bí chú khác chỉ được mật truyền sau khi luyện xong các phép. Sau đó pháp sư, dù cao tay, cũng không dám truyền ẩu cho ai dù là thân nhân, thân hữu, vì nếu không phải là chính tông pháp sư, người thường đọc chú này, chỉ một lần, mắt sẽ bị thong manh và á thanh nói không ra tiếng.
- Mấy hôm trước, lão pháp sư đã làm phép cho chúng tôi thấy âm binh, cô hồn ở chợ, vậy cũng dùng chú này?
- Không nghĩa phụ tôi dùng ấn quyết và thư phù lên mắt giúp nhị vị trông thấy âm giới trong chốc lát mà thôi
Bỗng, chuông trống bắt đầu gióng lên, tất cả đã sẵn sàng chờ lão phù thủy vào đàn lễ. Hai tầng ban điện đèn nến sáng choang, khói nhang nghi ngút, giữa sập rộng đặt một ghế tựa sơn son, lão pháp sư ngồi cầm túm nhang im lặng mật khấn…
Phía sau, trên chiếu, thiếu phụ bị tà ám bơ phờ, thờ thẫn. Dưới sànm chiếc chiếu của toán ba cung văn “chập cheng” vào khóa cung.
Tiếng trống hành sai mỗi lúc thêm dồn dập, lão phù thủy trao túm nhang cho viên hầu đồng, nhấc mảnh khăn nhiễu vắt vai, phủ lên đầu, ngồi im một lát rồi giơ cao hai ngón tay trong khi chiếc khăn trùm rớt xuống.
Thấy hiệu tay, viên hầu đồng biết là vía Phạm phò mã tức là Phạm Ngũ Lão giáng đàn, bèn lấy trên mắc chiếc áo nhiễu điều, mặc phủ lên áo thâm pháp sư và chít vành khăn đỏ lên đầu. Viên hầu đồng thứ hai trùm lá cờ lục xanh lên đầu thiếu phụ ngồi phía sau. Tiếng trống hành sai vẫn đổ hồi, thiếu phụ giao đảo mỗi lúc càng mau… đến khi lá cờ rớt xuống thì mở bừng mắt, láo liên ngó quanh, nhưng vẫn đảo đồng chầm chậm.
Flammarion hỏi viên tri huyện về ý nghĩa việc trùm khăn, cờ lên đầu pháp sư và thiếu phụ?
Ông huyện đáp:
- Có lần tôi đã hỏi vấn đề này, nghĩa phụ tôi giải thích rằng việc trùm khăn phủ có tác dụng che giấu, không để lộ liễu hiện tượng xuất hồn của con đồng và nhập cốt của vía thần, mặc dù các hiện tượng này người trần không thể thấy bằng mắt. Nói chung, các phép biến hóa thần thông ít khi phơi trần, bộc lộ trước mắt người sống, tỉ như hôm qua, pháp sư đã biến đầu heo thành đầu người và ngược lại. Để tạo ảo giác, pháp sư phải cắt đứt, dù chớp nhoáng, sự trố mắt theo dõi của đối tượng bằng cách đột ngột biểu “nhắm mắt ! ” hoặc trỏ tay lên không trung, biểu “coi kìa ! ” để đánh lạc hướng sự chú ý trong khi làm phép biến hóa.
CON TÀ QUÁ DỮ, VÍA PHẠM PHÒ MÃ TRỊ KHÔNG XUỂ.
Nói đến đây, bỗng có tiếng bước nện mạnh trên sập. Ngó lên Flammarion thấy lão phù thủy vừa “lên đai” xong, nghĩa là hai gã hầu đồng đã siết chặt cần cổ pháp sư bằng vải khăn nhiễu, siết chặt đến nỗi máu ứ, mặt sưng phù bầm đỏ dễ sợ. Hai cây lình lá hình mũi dao dài hơn hai tấc xiên qua mép, dựng đứng hai bên má.
Vía Phạm phò mã giáng đàn, cầm thanh kiếm gỗ sơn son, ra hiệu cho gã hầu đồng lấy roi và vồ linh - một thứ trống gỗ tí hon có cán, cầm để khảo tà.
Lớn tiếng thét sai âm binh, gã hầu đồng đánh roi đen đét trên chiếu vào hai bên chỗ ngồi thiếu phụ. Con tà không nao núng, vẫn giao đảo như con lật đật, Nó đặt hai tay lên đầu gối, có lúc co lên chống nạnh, mắt láo liên ngạo nghễ…
Bà d’Estamines thắc mắc hỏi:
- Sao không đánh roi trúng con tà ám thiếu phụ, lại đánh ra ngoài trên chiếu?
- Đánh vào thân mình thiếu phụ không ích gì, lại để dấu vết thêm buồn lòng thân nhân.
- Nếu vậy là con tà không còn ám hãm nạn nhân?
- Nó vẫn ở trong người thiếu phụ. Âm binh thần tướng đã nắm đầu nó vật sang tả, sang hữu để hầu đồng đánh bằng roi, vồ: do đó, khỏi đánh mình thiếu phụ mà chỉ đánh bên chiếu là đủ.
Thình lình con tà chụp lấy tay gã hầu đồng, giật cặp vồ linh rồi dang tay tự đánh vào vai, lưng, ngực, từng chập…
Bà đầm ngạc nhiên hỏi:
- Tại sao con tà tự đánh nó như vậy?
- Đó là nó tự ra oai để tỏ ra nó không ngán sợ đòn các thần tướng giáng đàn.
Lát sau, bỗng thiếu phụ buông tay liệng cặp vồ lăn lóc trên sập rồi tiếp tục lại giao đảo, hai mắt sắc như dao, thỉnh thoảng nhếch môi cười thách thức…
Bà đầm hỏi:
- Sao con tà liệng vồ linh, không tự đánh nữa?
- Con tà này thuộc loại khó trị, chống cự phép Thánh.
Trong khi vía Phạm phò mã trừng mắt chế ngự con tà, hai viên hầu đồng đốt thêm nhang, thỉnh chuông, quỳ khấn trước bàn thờ quan “Năm dinh” (Ngũ hổ). Tiếng trống thanh la hành sai dồn dập thêm. Hai chiếc ghế đẩu do gia nhân bưng đến vừa đặt bên ghê phò mã thì cả hai hầu đồng đang quỳ bỗng mặt đỏ phừng, gầm lên một tiếng rồi nhảy tót ngồi chồm hỗm trên hai chiếc đẩu, nhe nanh hầm hang ngó con tà như muốn ăn sống nuốt tươi…
Gã hầu đồng thứ ba lấy hai áo nhiễu, vàng và trắng mặc cho hai đồng nghiệp vừa ốp đồng. Nhà thông linh Pháp hỏi… viên tri huyện giải thích rằng đó là hai Hổ thần Hoàng và Bạch, hai trong năm vị Ngũ Hổ thần, giáng đàn để áp đảo con tà khai khẩu, đã cưỡng lệnh phò mã, không chịu nói.
- Như vậy, phải chăng ngài phò mã kém oai linh hơn hai vị thần?
- Không, đã hai năm nay theo tu với Đức Chử Đồng Tử ngoài Đông Hải, ngài phò mã ít về giáng đàn, ngoại trừ một số điện lớn như điện nghĩa phụ tôi đây. Vì tiến tu nên Ngài nay không hiển lộng thần oai như ngày trước. Trong mười vụ trừ tà giải bệnh, Ngài đã giáng trị đến tám, chín; họa hoằn mới triệu thỉnh Đức Thánh Kiếp Bạc.
Vẫn gầm gừ hầm hang, hai cọp thần cầm cờ lệnh phất lia lịa trên đầu thiếu phụ, trong khi gã hầu đồng ngồi dưới chiếu, đánh roi chí chát, quát nạt:
- Xin các quan đánh đuổi… căng thẳng hai tay nó ! Trói nó lại !
Con tà vẫn ngạo nghễ quắc mắt, không ngán hai thân hổ… tiếp tục giao đảo, hai tay năm cứng đầu gối. Bỗng nó giật thót lên run rẩy từng cơn như mắc động kinh, khiến khăn tóc thiếu phụ rũ rượi. Hai cánh tay như bị một sức mạnh vô hình kéo giật từ gối xuống chiếu không nhấc lên nổi. Chỉ một thoáng, nó lại ráng co tay lên. Và co lên kéo xuống vùng vẫy hơn khắc đồng hồ… cuối cùng nó phải thẳng tay chống xuống chiếu như bị dính cứng vào mặt sập.
Bà d’Estamines muốn hiểu nguyên do các động tác trên, viên tri huyện giải thích:
- Những động tác co kéo, vật vã của thiếu phụ là do con ta cố chống cưỡng áp lực hai vị Hổ thần căng tay trên chiếu, không cho cục cựa. Có làm như vậy, con tà mới chịu khai khẩu…
- Để làm gì?
- Có ba giai đoạn trong tiến trình chế ngự con tà. Thoạt đầu phải áp đảo bắt nó khai sự thật về tung tích hoạt động tác quái của nó, lý do tại sao nó hãm hại nạn nhân? Cũng như trần gian bắt phạm nhân cung khai lý lịch, tình trạng, hành tung v. v… Lắm con tà rắn mặt, khăng khăng không nói thực về danh tánh, quá khứ, nói lẩn quất trên trần v. v… Giai đoạn 2, ép nó phải trả lại hồn phách tinh thần nạn nhân, giải trừ bệnh tật. Giai đoạn 3, bắt làm cam đoan không tái phạm trở lại hại nạn nhân lần nữa.
- Sao không cầm nhốt nó như trên trần bỏ tù một tội nhân?
- Nghĩa phụ tôi có lần cho biết là dưới âm, chỉ có Thập điện Diêm đài xét xử nghị tội các vong hồn, ngoài ra, không ai có quyền làm như vậy, kể cả với các hồn còn vất vưởng lẩn trốn trên trần. Những hồn chết oan kiện kẻ hại mình còn sống trên dương gian thường được Diêm Vương sai quỷ sứ lên bắt xuống làm tội. Nếu kẻ đó chưa tới số, oan hồn được phép lên trần trả oán, nhưng không được làm chết, chỉ có thể làm đau ốm, điên loạn, ngộ nạn điêu đứng mà thôi.
TẠI SAO CON TÀ RẰN MẶT
Bỗng, thiếu phụ tru lên vì hai vía thần hổ, từ trên đầu nhào xuống, bàn chân mỗi vị chận một bên tay thị. Con tà giãy giụa một hồi rồi chống hai tay chịu trân, cúi gầm đầu… Tuy bị chế ngự thúc thủ nó từng chập mắt vẫn quắc lên dáo dác trong khi hai thần hổ hầm hè ngó nó…Gã hầu đồng thì nện roi chát chúa mỗi lúc thêm mạnh:
- Xin các quan áo đảo kéo lưỡi nó ra ! Bắt nó khai khẩu !
Con tà nhấp nhổm bàn tọa mà không nhúc nhích được nửa thân, hai bàn tay vẫn như đóng đinh vào mặt sập. Bỗng, nó mím chặt hai môi, lắc đầu lia lịa, vùng vẫy như muốn tránh nó không để âm binh thần tướng kéo lưỡi nó… Cuối cùng, chống cưỡng không nổi, nó thét lớn:
- Ta bị chết oan. Diêm đế cho ta lên trần trả oán. Không ai bắt được ta !
Căn điện bỗng trở nên nhộn nhịp vì lời con tà vừa thốt. Viên hầu đồng ra hiệu cho người bưng tới tách trà bốc khói và chậu nước mưa đặt trước thiếu phụ rồi ôn tồn dụ dỗ:
- Hồn oan ức làm sao? Hãy tống khẩu, tẩy thủ, tẩy diện (xúc miệng, rửa mặt, tay) rồi giãi bày trước cửa. Phò mã giải quyết cho !
Nhưng con tà đâu chịu khai ngay. Sau gần nửa giờ phủ dụ, lúc dọa nạt, nó mới chịu thú thực nó là vợ cả chồng thiếu phụ và đã bị đầu độc chết. Bằng giọng lảnh lót, nó nói:
- Bảy tám năm trước con dâm phụ này dan díu với chồng ta, ả ta bí mật mưu mô sai đứa cháu gái gọi bằng dì ở Hưng Yên, xin vào làm con ở cho ta. Một hôm, đứa cháu này thừa cơ, bỏ thuơcs độc kim câu vào trầu, ta chỉ nhá ba miếng trước sau thì bị á khẩu, chết không kịp trối. Lúc tẩm liệm, mẹ ta thấy máu ứa cửa miệng, biết ta chết oan, liền đầu đơn cáo. Nhưng quan sở tại ăn của đút, lại cho đó không phải máu vì ta nghiện trầu nặng, trúng phong cứng lưỡi chết bất ngờ, cốt trầu còn trong họng lúc khâm liệm mới ọc ra. Ai cãi nổi miệng quan có gang có thép? Thế là con dâm phụ trắng án.
Sau ma chay ba ngày, gian phu đã mở cửa đón dâm phụ vào hú hí trên giường ta. Trước cảnh gai mắt, hồn ta phải bay lên ngọn cau cuối sân. Rồi hết tuần tứ cửu, chúng công khai làm vợ chồng; ta đã “hóa” bình nhang, ba giờ trưa giữa ban ngày cháy ngùn ngụt cho chúng sợ phép. Hàm oan như vậy, ta được Diêm Vương cho lên trần trả oán; song vận số dâm phụ hồi đó còn vượng, ta chưa thể làm nó ốm đau mắc nạn. Cuối cùng, ta đành đầu thai để rửa hận. Không ngờ, nó có bà tổ cô thiêng phù hộ nên thai không đậu. Nó bị sảy thai. Ngậm hờn, ta làm cho dâm phụ hữu sinh vô dưỡng, đẻ thông ba đứa con không nuôi được. Nay, nó gặp vận kiển Kế Đô, ta bắt hồn vía cho nó thập tử nhất sinh đến ngày tận số.
Bỗng, vía Phạm phò mã quắc mắt nạt lớn:
- Không được ! Ngươi không được phép hại người, làm đau bệnh triền miên đến ngày đáo số. Đây là xưa ngươi gieo nhân thì nay lãnh quả; kiếp trước đã giết người cướp chồng thì kiếp này, người ta đoạt chồng, hại lại là oan oan tương báo, luật vay trả rõ ràng. Hãy nể phép ta, tha cho nó ! Oán nên gỡ, chớ nên thắt ! Oán cởi, oán tiêu, oán kết, oán còn. Nếu không, bao giờ hồn ngươi siêu sinh tịnh độ?
Con tà lắc đầu quầy quậy giọng gay gắt:
- Không ! Diêm Vương đã cho lên trần trả oán, không ai cấm cản được ta.
Con tà giọng lảnh lót vừa dứt, hai vía hổ thần liền “rã đồng”. Tiếp đến vía Phạm phò mã cũng giơ tay ra hiệu thăng đồng… Hai viên hầu điện vội vã “thôi đai”, mở mau gút thắt siết cổ, vừa xong thì vía phò mã cũng ngã mình trên ghế… thăng. Lão pháp sư mặt vừa to bạnh đỏ gay vì máu ứ, đã trở lại bình thường như không có gì xảy ra, sau khi tháo nút khăn thắt họng. Rồi, đến thiếu phụ cũng “xả đồng” theo.
Bà đầm thắc mắc hỏi… Viên tri huyện giải thích là các thần tướng vì oai linh không đủ chế ngự con tà dữ, bắt nó phải tuân theo. Ngài phò mã trước khia oai linh sấm sét, hiếm có tà ma dám chống cưỡng. Nay đã tu hành nên ngài thuần nhu, không muốn hiển lộng thần thông. Còn hai vị hổ thần là quan hạ dinh không đủ thần uy khắc phục tà dữ.
Flammarion hỏi:
- Vậy con tà ám thiếu phụ đã thắng?
- Không. Mai mốt phải triệu thỉnh Đức Thánh Kiếp Bạc giáng đàn mới trị nổi con tà này. Chỉ có Đức Thánh Trần – vị Thánh tổ phù thủy An Nam, mới hàng phục được chúng. Mai mốt, nghĩa phụ tôi phải triệu thỉnh Ngài về giáng điện mới xong.
Bà d’Estamines hỏi:
- Sao không triệu thỉnh Ngài bây giờ mới có hơn 10 giờ đêm, lại để mai mốt?
- Không phải bạ lúc nào cũng thỉnh được Đức Thánh như các thần tướng khác. Ngài chỉ giáng đồng khi pháp sư thủ điện đủ trai giới ba ngày và Ngài giáng đền khai điện trước các thần tướng âm binh khác.
ĐỨC THÁNH TRẦN RA OAI, CON TÀ SỢ, TRỐN KHÔNG THOÁT.
Trời bắt đầu tối. Trong điện thờ, đèn đuốc sáng choang, tất cả đã sẵn sàng, chỉ còn chờ thiếu phụ tà ám đến là khai đàn. Đang ngồi tiếp quan khách, lão pháp sư bỗng mặt đỏ bừng, lim dim hai mắt rồi đứng vùng lên, lùi lùi xuống thang… bước ra đến cổng thì chỉ gặp mẹ và chồng thiếu phụ hơ hải chạy đến. Làm như không thấy họ, pháp sư cứ rảo cẳng đi về phía chợ, đến nơi, thấy đòn cáng chình ình bên lộ, hai phi khiên ngồi bó gối ủ rũ. Lão pháp sư tức thì giậm chân đánh quyết, nạt lớn một tiếng, đập mạnh hai tay lần vào đầu cáng, quát hai phu khiêng thiếu phụ đến điện thờ.
Toán quan khách theo pháp sư cùng đến chợ coi, trên đường về, được pháp sư kể cho nghe (qua lời quan huyện thông ngôn) rằng hồi nãy tại điện mặt ông tự nhiên đỏ bừng rồi nhắm mắt, đó là lúc âm binh giải tà về cấp báo ông hay con tà cầu cứu cô hồn các đảng chợ Thị Cầu cản cáng không cho đi. Đám quỷ hồn nhảy lên đầy võng, bám vít hai đầu đòn, ôm cứng tay chân, kéo cổ phu cáng làm cho cả hai ngột ngạt, xây xẩm không thể cất bước, loạng choạng và phải hạ cáng, ngồi xệp xuống dưới. Thấy khó áp đảo lũ cô hồn, âm binh hành sai giải tà vội bay về điện cấp báo pháp sư trước khi thân nhân thiếu phụ đến.
Sau khi pháp sư ra oai đánh đuổi bọn cô hồn các đảng, xúm lại cản đường, phu cáng võng lại tiếp tục tiến bước. Về đến điện thờ, thiếu phụ được đặt ngồi trên chiếu như lần trước. Trên điện, đèn nến chói lòa, khói nhang nghi ngút. Lão pháp sư cũng đã ngồi trên chiếc ghế tựa sơn son kê trên sập, chiếc khăn nhiễu điều phủ trùm đầu, tay cầm bó nhang, khấn vái thầm trong im lặng…
Giữa những tiếng thanh la não bạt… “chập cheng”… và tiếng trống hành sai đổ hồi dồn dập, toán cung văn ba người ngồi dưới sàn nhà cũng đã bắt đầu đàn hát bài chầu văn Đức Thánh Trần:
Công cứu quốc cao dầy đã rõ,
Ơn chúng sinh tế độ còn dài
Đại Vương từ ngự thiên đài
Ngọc Hoàng giáng chỉ cứu người dương gian
Ngôi Vạn Kiếp bốn phương chầu lại,
Đức uy linh bát hải lan ra,
Nam Tào, Bắc Đẩu hai tòa.
Xạ ba thiên tướng, hằng hà thiên binh.
Việc nội ngoại ngũ dinh tuần thú,
Khắp thiên đình, địa phủ, dương gian.
Bên ngai tả hữu hai ban,
Kiếm thần cờ lệnh, ấn vàng trong tay.
Trên ngọc bệ tàn mây năm sắc,
Trước long đình hổ phục rồng chầu.
Thần thông biến hóa phép màu,
Nghìn tai nghìn mắt đâu đâu tỏ tường.
Đạo đức cao bốn phương bái phục,
Phép uy linh quỷ khốc thần kinh.
Triệt địch lệ, giải đao binh
Phò nguy cứu khổ tà tinh tiễu trừ
Suốt nam bắc phụng thờ thành kính
Cả muôn dân cửa Thánh đội ân
Tâm thành cầu khẩn phép thần
Phút đâu hiển ứng mười phân vẹn mười
Non nước nhược, ngự chơi ngày tháng
Chốn non bồng thăng giáng hôm mai
Trần gian bao cửa đền đài,
Đằng vân giá vũ khắp nơi đi về
Từ sơn cước suốt khe rừng nội,
Đến phồn hoa cát bụi chẳng nề
Một tay che chở phù trì,
Công ơn tế thế sánh bì trời cao…
Sau khi đưa bó nhang cho viên hầu đồng, và ngồi im lặng một lát, pháp sư đầu đảo lia lịa, quát lên một tiếng rồi bỏ khăn trùm đầu ra. Biết là vía Đức Thánh đã giáng đàn, những người hầu đồng bèn xúm lại phục dịch. Cũng y như lần trước, họ phủ áo nhiễu điều lên mình pháp sư và chít khăn đỏ lên đầu, một người khác cũng phủ lá cờ xanh lên đầu thiếu phụ. Giữa những tiếng trống dồn dập, thiếu phụ lại giao đảo, lá cờ rớt xuống, y vừa đảo đầu vừa ngó dáo dác chung quanh… Một bên sập, có đặt một hỏa lò nấu một chảo dầu đang sôi sục.
Đức Thánh Trần giáng đàn có vẻ oai nghi lẫm liệt khác hẳn lần trước, khiến cho con tà đã có vẻ nao núng, khiếp sợ. Cũng như lần trước, Ngài truyền cho thuộc hạ “lên đai” (láy khăn nhiễu siết cổ) và xiên lình dựng đứng hai bên má, rồi lên tiếng quát hỏi thiếu phụ bị ám:
- Sao mi chưa chịu trả hồn phách lại cho nạn nhân?
Con tà có vẻ nể sợ, nhưng vẫn còn ngoan cô chưa chịu nói. Pháp sư bèn từ từ đứng dật bước xuống đất, lại gần chảo dầu đang sôi sùng sục. Giữa tiếng trống hành sai dồn dập mỗi lúc càng mau, pháp sư tay bắt quyết, miệng niệm trú, rồi quát lên một tiếng lớn, dùng hai tay bốc đều dầu sôi trong chảo đưa lên húp đầy miệng, phun vào con tà. Thiếu phụ thét lên một tiếng thất thanh, nét mặt lộ vẻ đau đớn khôn tả, rồi vừa run rẩy lập cập, vừa rú lên từng hồi nghe thật ghê rợn ! Pháp sư vừa muốn bốc dầu sôi lên húp nữa để phun vào mình thiếu phụ một lần thứ nhì thì con tà lại rú lên nghe rất thảm thiết, rồi chắp tay vái lia lịa và cúi xuống lạy như tế sao ! Sau khi đã hiển lộ thần oai, vía Đức Thánh Trần mới dịu giọng phủ dụ con tà:
- Thôi, ân oán giang hồ bấy nhiêu đã đủ ! Mi hãy trả hồn phách cho người ta, rồi phải hồi tâm lo tu hành để còn mong được siêu sinh tịnh độ. Mi nghe chưa?
Giọng nói từ bi và phúc hậu của Đức Thánh Trần dường như có một oai lực linh diệu khiến cho con tà xúc động và muốn hồi đầu hướng thiện. Nó đã cúi đầu chịu phép, không còn vênh mặt ngó láo liên như trước nữa, mà hai mắt lấm lét nhìn xuống đất trong tư thế sẵn sàng tuân lệnh.
Biết nó đã chịu khuất phục, vía Đức Thánh Trần mới truyền cho người phụ đồng đem đồ vật liệu đến để bắt nó phải làm tờ cam đoan: một lưỡi dao bén, một cái đĩa và một tờ giấy bản, rồi quát nạt con tà hãy xòe hai bàn tay đã úp lên tờ giấy. Vị pháp sư tự rạch lưỡi bằng dao bén, lưỡi đứt lìa để rơi trên đĩa rồi phun máu xuống tờ giấy. Dưới ánh lửa chập chờn của mấy ngọn nến thắp sáng trên điện, đó là một cảnh tượng vô cùng kinh dị và rùng rợn ! Một lát sau con tà nhấc tay lên, thì hình hai bàn tay mười ngón nổi bật trên nền giấy lấm tấm máu bầm đã phun. Thiếu phụ giật mình đánh thót một cái, rồi bật ngửa người ra đằng sau: con tà đã xuất. Đó là một cách bắt tà làm tờ cam đoan; khi đã chịu phép lấy “dấu tay” kiểu này, con tà hết dám trở lại hại nạn nhân lần nữa.
Kế đó, vía Đức Thánh Trần trở lại sập ngồi trên ghế son như cũ, rồi đưa tay ra hiệu thăng đồng. Hai viên hầu đồng lại vội vã “thôi đai”, mở gút khăn siết cổ, rút xiên lình xong, thì lão pháp sư cũng vừa ngả mình trên ghế: Đức Thánh đã thăng !
Cái lưỡi trong miệng cắt đứt lìa, còn dính máu me và cựa quậy trên mặt đĩa… Mười lăm phút sau, lão pháp sư cầm lên đút vào miệng ráp nối dính liền như cũ, không cần khâu may băng bó. Cái lưỡi, với bắp thịt chi chít huyết quản, bị cắt làm đôi mà lại không ra nhiều máu. Khi cuộc đàn lễ đã xong, pháp sư thè lưỡi cho quan khách xem, thì thấy nó ngo ngoe, co giãn như thường, chỗ bị cắt đứt hồi nãy chỉ còn lại một vết ngang như một sợi chỉ màu nâu sậm. Còn việc bốc dầu sôi trong chảo và đưa lên miệng húp, chừng xem lại thì miệng lưỡi và hai bàn tay pháp sư vẫn như thường, không có dấu vết gì chỉ rằng da thịt bị rộp hay bị phỏng. Thật là những hiện tượng kỳ lạ, mà hai nhà thông linh Pháp cho rằng độc đáo trong giới phù thủy Việt Nam, không từng có ở một xứ nào trên thế giới !
ĐỨC THÁNH TRẦN VỐN KHÔNG PHẢI LÀ ĐẠI PHÁP SƯ
Bà d’Estamines lại hỏi:
- Qua những việc vừa xảy ra, thì phải chăng Đức Thánh Trần hồi dương thời cũng là một đại pháp sư?
- Nước Nam tôi có một đại vương đệ nhất anh hùng lịch sử là Trần Hưng Đạo ba lần cứu quốc đánh tan ngoại xâm Mông Cổ. Ngài quy thiên hiển thánh thường thượng đồng (lên xác) về cứu chữa những đồng bào bị yêu quái ám nhập. Nhất là các phụ nữ bị ác vong Phạm Nhan tự Nguyễn Bá Linh hãm hại, không đâu trừ trị được, đều đổ xô về Đông Đô, rồi sau về Kiếp Bạc, cầu Ngài cức chữa và chỉ có Ngài mới chế ngự nổi con yêu hơn đỉa này. Nguyên Phạm Nhan có cha à người Quảng Đông sang buôn bán bên An Nam từ cuối nhà Tống lấy vợ ta làng An Bài Đông Triều, đẻ ra Nhan, năm 16 theo cha về Tàu tiếp tục học, đậu tiến sĩ, bỏ lên núi tu tiên bất thành, theo quân Thoát Hoan sang đánh nước Nam lần thứ nhì. Khi lâm trận, y đứng đầu thuyền dùng phép bàng môn làm nổi sóng to dữ dội đánh đắm chiếc thuyền Nam.
Mấy lần các thủy tướng Trần Quang Khải, Yết Kiêu lập kế bắt đượy y lại hóa phép độn thủy biến mất. Hưng Đạo Vương dặn biểu các tướng trữ sẵn chỉ ngũ sắc và máu chó mực để khi thộp được Nhan, nhấc bổng nó lên, chằng chỉ ngũ sắc quanh cổ nó và thọc huyết chó, tưới vào đầu mình nó. Nhan quả nhiên hết đường biến rồi Ngài thân chinh giao về làng mẹ nó để gia hình. Nhưng đao kiếm chém nó cứ trơ trơ như chém gỗ đá, Vương bèn cầm thanh thượng phương bảo kiếm vua ban, đưa lên ngang mày khấn nếu Hoàng thiên hậu thổ còn tựa Trần triều, xin cho chém đứt đầu Phạm Nhan. Dứt lời, Ngài hươ kiếm, đầu Nhan rụng xuống. Nhưng vong hồn y không thể siêu thoát, từ đó, lẩn quất hãm hại đàn bà con gái. Viên Đại tư xã Đông bộ đầu, nguyên ti tướng cũ trong vương phủ Ngài, có con gái cũng bị Nhan hành sắp chết, vội vào nội, quỳ khóc xin Ngài cứu sống. Vương liền đi kiệu đến tận nơi, vầm thanh kiếm trước đã chém Nhan, chém bốn nhát vào bốn góc ván nằm rồi đặt ngang kiếm lên hai vai nạn nhân đồng thời Ngài nạt lớn trục hồn Nhan khỏi căn nhà. Thoáng sau, cô gái nhỏm dậy, hết bệnh.
Từ đó, khắp nơi, người bị tà ma quỷ ám ùn ùn kéo đến quỳ ngoài tường thành, xin Vương chữa chạy. Nhưng Ngài làm sao cứu được hàng nghìn người một lúc? Ngài bèn sai thợ, dùng thanh kiếm của Ngài gọt chuốt 28 thanh gươm đúng in, nhỏ hơn bằng gỗ trầm, đem phân phát cho các người này mượn đem về làm đúng những lời Ngài dặn; và khi chữa khỏi bệnh, lại phải đem trả, để chuyền cho người khác. Đế triều Anh Tông, vương gần 70 về trí sĩ tại Vạn Kiếp, hàng ngày vẫn có cả trăm người từ khắp nơi đổ về cầu Ngài cứu mạng… cho đến ngày Ngày quy tiên hiển thánh. Từ đó, đền phủ nguy nga thờ Vương trở thành “chốn Tổ” trung tâm hành hương. Giới phù thủy, đạo sĩ toàn quốc chầu về Kiếp Bạc cầu xin làm đệ tử, tôn Ngài làm Thánh tổ thủ điện, cùng các bộ tướng vương phủ cũ của Vương làm thần tướng hành sai như Ngài phò mã (Phạm Ngũ Lão), Ngài Nguyễn Khoái, Dã Tượng, Yết Kiêu v. v…
Sau ngày Ngài viên tịch tục lệ phất gươm phép trừ tà vẫn được duy trì đến cuối đời nhà Mạc
Hồi đó yêu tinh quỷ quái xuất hiện hoành hành khắp nơi quấy nhiễu dân gian.Ngài hiển thánh giáng đàn trấn áp kỳ hết. Đời sau các pháp sư vẫn tìm đến Kiếp Bạc xin tôn bình nhang làm đệ tử Đức Thánh để trừ tà trị bệnh cứu dân.
Văn Khấn Đức Thánh Trần
Con kính lạy Đức Trần Triều hiển thánh Nhân vũ Hưng Đạo Đại Vương Đại Nguyên soái
Bài Văn cúng khấn lễ Đức Thánh Trần
Văn khấn lễ Đức Thánh Trần
– Con kính lạy giòng tộc Công Đồng Trần Triều
– Con kính lạy Nguyên Từ Quốc Mẫu Thiên Thành Thái Trưởng Công.
– Con kính lạy Đức Trần Triều hiển thánh Nhân vũ Hưng Đạo Đại Vương Đại Nguyên soái, Tổng quốc chính, Thái sư Hương phụ Thượng quốc công tiết chế
Lịch triều tấn tặng khai quốc an chính hồng đồ tá trị hiện linh trác vĩ, Minh đức trĩ nhân, Phong huân hiên liệt, Chí trung đại nghĩa, Dực bảo trung hưng, Thượng đẳng tôn thần, Ngọc bệ tiền.
– Con kính lạy tứ vị Thánh tử đại vương, Nhị vụ vương cô Hoàng Thánh.
– Con kính lạy Đức ông phạm điệu suý tôn thần, tả quan Nam Tào, Hữu quan Bắc Đẩu, Lục bộ thượng từ, chư vị bách quan.
Hương tử con là:…………………………………………………………………….
Ngụ tại:…………………………………………………………………………………
Hôm nay ngày…. tháng….. năm…….. Hương tử chúng Chấp bái kỳ lễ bái xin các vị phù hộ độ trì cho hương tử con cùng toàn gia quyến được luôn mạnh khoẻ.
Đầu năm chí giữa, nửa năm chí cuối, chín tháng đông, ba tháng hè được tai quan nạn khỏi, điều lành mang đến, điều giữ giải đi, cầu tài đắc tài, cầu lộc đắc lốc,
Cầu bình an đắc bình an. Xin cho con được có người có cửa, được nhân an vật thịnh đi đến nơi về đến chốn, làm ăn được thuận buồn xuôi gió, vạn sự như ý.
Hương tử con lễ bạc tâm thành, trước án kính lễ, cúi xin được phù hộ độ trì.
Thời kì mạt pháp bốn chấm không
Tâm Linh thương mại để kiếm công
Thầy Đồng đâu đâu cũng thấy có
Tiếng thơm chưa tỏ xấu tựa sông
Giáp niên Canh Tý thời thanh lọc
Bóc vỏ soi tâm dõi đường tu
Nhân nào quả nấy đâu có lệch
Phép tiên biết sợ hãy chỉnh chu...
Hiện tượng khê đồng tuy không phổ biến nhưng một số Đồng con vẫn mắc phải thậm chí Đồng cựu cũng có thể gặp nhiều bạn gửi tin nhắn thắc mắc về nội dung này
Tôi thấy số ít các bạn chưa hiểu thấu đáo về Khê đồng nay xin mạo muội chia sẻ đôi điều.
Khê đồng hay còn gọi là bể đàn là hiện tượng mắc phải khi bắc ghế cha ngồi bắc ngôi mẹ ngự nhưng không được linh ứng Khê nghĩa là hỏng
Thanh đồng bị Khê đồng coi như vấn hầu đó bỏ đi vì đã Khê thì không được cha mẹ chứng
Một số bạn thường nhầm lẫn việc khi hầu Thánh không tung khăn được là Khê đồng điều này không hoàn toàn đúng
Đối với một số Đồng con trước khi ra trình cha trình mẹ cuộc sống oan trái nhiều hoặc bị bắt sát quá nên khi ngồi chiếu hầu thường là tủi bóng
Không tung được khăn trường hợp này Đồng thầy kêu cầu tấu đối cho Đồng con nếu vẫn nặng quá không hầu được thì chỉ cần thỉnh bóng nhà Ngài
Vẫn ngự nhưng chỉ tráng bóng rồi xe giá sau đó Đồng Thầy hầu tạ vấn hầu vẫn được coi là chu viên hoàn mãn bởi hệ quả sau đó mới là quan trọng
Sau lễ trình hầu ấy Đồng con được cha mẹ độ cho yên tâm yên tính yên lính yên đồng gia sự bình an đầy thuyền mãn quả thì vấn hầu ấy vẫn được coi là đắc lễ
Việc đồng con không tung khăn chỉ được coi là khê đồng khi không có bóng thánh về chứng trường hợp này còn gọi là đồng đá
Ngoài ra còn một số hiện tượng khác cũng được coi là khê đồng như Bóng thánh về nhưng không đibhoặc ngã trên sập hầu ..v..v…
Lý giải về nguyên nhân vì sao bị Khê đồng có quan điểm cho rằng vì Đồng thầy căn thấp hơn đồng con nên không kêu thấu tấu nổi không tỏa bóng được cho Đồng con
Theo Tôi thì không phải như vậy vì hiện tượng khê đồng xảy ra ở cả trường hợp Đồng thầy căn cao mở phủ cho Đồng con căn thấp hơn hoặc thậm chỉ Đồng cựu cũng có thể bị khê đồng
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến hiện tượng này.Tôi xin liệt lê vài trường hợp điển hình
Nguyên nhân trước tiên hẳn ai cũng biết đó là trường hợp không phải con nhà 4 phủ nhưng nhẹ dạ cả tin theo thầy bà hám tiền xúi bẩy
Hoặc bản thân thân chủ vì ham cầu được ban tài phát lộc mà bắc ghế hầu thánh đối tượng này trình đồng mở phủ nhưng không có vị cầm bản mệnh nào về nhận dẫn tới hiện tượng không tung được khăn.
Trường hợp thứ hai là con nhà 4 phủ nhưng phạm lỗi nặng làm những việc hổ thẹn với bản thân khi hầu nhà ngài bị ngã ngay trên sập hầu
Đây chính là hiện tượng nhiều đồng mắc phải thậm chí ngay cả đồng cựu cũng bị ngã.Hoặc khi ra hầu cha mẹ bản thân không thanh tịnh
Chúng ta hầu cha mẹ là mang cái thân khẩu ý làm ghế cho ngài ngự trước mỗi vấn hầu thanh đồng ăn chay kiêng sắc dục giữ gìn khẩu ý tắm gội sạch sẽ
Nếu phạm vào một trong những điều trên không những Thánh không về tráng bóng mà còn bị phạt nặng.
Trường hợp thứ 3 nhận sai vị cầm bản mệnh bạn là con vị A nhưng lại nhận vị B là mẹ dẫn đến loạn bóng việc này phụ thuộc vào phúc đức của bản thân
Và tổ tiên của đồng con có gặp được Đồng thầy có tâm đức soi căn nối quả đúng cho đồng con
Tôi đã gặp vài trường hợp là con cái 4 phủ không sát bên nhà Trần nhưng lại đội lệnh nhà Trần sau khi trình xong đồng con nhẹ thì lụi bại nặng thì phát điên.
Các bạn thân mến là con nhà bốn phủ không chỉ là vinh dự tự hào mà còn là trách nhiệm việc hoằng dương đạo mẫu
Là nhiệm vụ hàng đầu mỗi chúng ta bằng việc hầu hạ cha mẹ đúng phép tắc lề lối cũng là góp phần vào việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc thân chúc các bạn ngày cuối tuần vui vẻ an lạc
....................................................
Di Cung Hoán Số Là Vọng Tưởng
Nếu muốn đổi cung đổi số hay là di cung hoán số thì một người nhất định phải từ bỏ cuộc sống hiện tại (chết đi) sau đó trong U Minh Giới vong hồn được xem xét dựa trên nhân quả mà vong đó khi hồn tiền dương thế đã tạo ra để định nghiệp và tiếp tục chuyển nghiệp luân hồi nhận lấy báo ứng
Con người sinh ra có thời điểm được ấn định, cấu thành bát tự là can chi của giờ, ngày, tháng, năm.
Kết quả đó được tạo ra từ việc định nghiệp và chuyển nghiệp dựa trên quy định về nhân quả báo ứng đối với một vong hồn. Bởi vậy phúc, họa hay sang, hèn, giàu, nghèo hay tai tật,…đối với mỗi nhân sinh đều phải theo cái duyên phận mà nhận lĩnh để sám hối, sửa đổi, học tập, tu luyện, trả nợ nần ân oán…trong kiếp người, không bất cứ lý do nào có thể làm thay đổi.
Cũng giống như khi đúc một cái nồi nhôm để nấu cơm, người thợ phải tính toán dựa trên tính chất cơ lý hóa của nguyên liệu, khả năng đun nấu, …sau khi đã thành sản phẩm thì cái nồi đó dùng để nấu cơm, canh là hợp lý. Muốn biến nó thành cái chảo để rán thì người ta lại phải đập bẹp nó (phá hủy) rồi cho vào lò đun nóng chảy thành nguyên liệu, sau đó dựa trên những số liệu tính toán kỹ thuật cần thiết mới đổ vào khuôn đúc thành một cái chảo nhôm dùng để rán, chiên, xào..
Hiểu như vậy chúng ta thấy nếu muốn đổi cung đổi số hay là di cung hoán số thì một người nhất định phải từ bỏ cuộc sống hiện tại (chết đi), sau đó trong U Minh Giới vong hồn được xem xét dựa trên nhân quả mà vong đó khi hồn tiền dương thế đã tạo ra để định nghiệp và tiếp tục chuyển nghiệp luân hồi nhận lấy báo ứng.
Một người kiến thức tầm thường, sơ đẳng nhất về tâm linh cũng hiểu được rằng nếu di cung hoán số mà có thật thì khái niệm Nhân Quả sẽ trở thành vô nghĩa dẫn đến loạn âm loạn dương và thầy bà là người có quyền hạn làm được việc đó tại sao không cầu cúng làm cho bản thân thay đổi số phận để trở thành sang giàu phú quý, ông nọ bà kia hay thậm chí làm tổng thống một quốc gia?
Như thế chúng ta đã hiểu rõ ràng lễ di cung hoán số là vô tác dụng và việc này trái với Thiên Quy vi phạm luật âm giới
Người đồng thầy là người được bề trên cấp lệnh sắc, giao cho quyền hạn, mà không biết cách tìm hiểu, học tập, trau dồi kiến thức chuyên môn cho thấu đáo để thực hành các công việc tâm linh, tự tung tự tác đổi cung đổi số cho người, sau 10 lần vi phạm là sẽ bị phạt lệnh (ta hiểu là bị xóa bỏ lệnh sắc) khi đó “đồng thầy” thành “đồng thừa”, bị trả “quả” ngay trong hiện kiếp. Bản điện của đồng thầy, nơi thờ Tiên Phật Thánh Thần sẽ hết linh vì các bóng các giá không còn phụng lệnh bề trên giáng ứng nữa, khi đó giả Tiên giả Thánh đương nhiên sẽ có cơ hội tìm đến để tá nhập điều khiển đồng thầy.
Tóm lại lỗi đây chính là do con người kém hiểu biết gây ra, sự truyền thừa không chính phái hoặc bị thuật sĩ giang hồ bày đặt lừa gạt. Đồng thầy kiến thức kém cỏi mà được người đời mê mờ tung hô vạn tuế nên sớm tự mãn, ngập ngụa trong đống tiền bạc bẩn thỉu mà tự lấy làm vinh hoa chứng đắc quả duyên, nghênh ngang không coi ai ra gì, cho nên mới lầm đường lạc lối không phân biệt nổi chính tà, hay dở làm bừa bãi bất chấp hậu quả.
Nhưng cái giá phải trả sẽ là vô cùng to lớn, hệ lụy liên quan đến con cháu dòng tộc rất là khủng khiếp, khi biết hối hận thì cũng đã muộn rồi.
.....................................................................................................................................................
Ngồi buồn nghĩ xót cho cảnh đồng nghèo
Cũng là cảnh con cha con mẹ bất đắc dĩ lắm mới phải ra quy đầu làm tôi trong hoàn cảnh khó khăn
Ấy vậy mà muốn ra cũng chẳng có tiền số tiền 40 - 50tr là bằng cả gia tài thậm chí bằng cả cái nhà ở quê rồi
Đã nghèo lại càng nghèo thêm đã cơ lại càng cơ thêm
Đi vay thì lấy gì mà trả mà là con cha con mẹ biết mà không ra không khác nào gánh núi ngũ hành
Gia tiên những người con cha con mẹ cũng muốn con cháu ra hầu cha hầu mẹ
Muốn con cháu thay các cụ giải bớt cái nghiệp của tổ tiên rồi bao nhiêu vong linh
không nhà không cửa không miếng cơm không bát cháo không ngụm nước chẳng tàn hương
Lại những đứa trẻ không duyên không phận chưa nhìn thấy mặt trời đã phải chịu cảnh luân hồi vất vưởng giữa chốn âm ty...
Đâu đâu cũng khổ!!! Ấy vậy mà chúng ta những người ăn cơm cha uống sữa mẹ
Được gọi là cô là cậu là thầy Được giao trọng trách là cứu dân độ thế đã làm được gì
Các thầy đã làm được bao nhiêu canh đàn cho đồng nghèo lính khó đã cứu được bao nhiêu người điên kẻ dại đã dẫn bao nhiêu chư nhân chư gia đi theo chính đạo?
Ấy vậy mà các thầy đã làm được bao nhiêu khóa lễ để độ âm cầu siêu cho những vong hồn
Chết nơi đầu đường xó chợ đã cầu siêu cho bao nhiêu thai nhi không cửa không nhà????
Nghĩ vậy thôi cũng đủ nhìn dòng đời và thở dài ngao ngán!!!
Con chỉ ước Mẫu sẽ giáng phàm cứu độ nhân sinh!!!
Nam mô tiếp dẫn đạo sư a di đà phật!!!
Nam mô thiên tiên thánh Mẫu đại từ tôn
.....................................................................................................................................................
Kính gửi các thanh đồng đạo quan và đặc biệt toàn thể các thầy. Thực sự chưa bao giờ tôi cảm thấy buồn và thất vọng về 1 bộ phận đồng bóng như hiện nay.
1. Hầu đồng: hầu nhố nhăng, múa máy điên cuồng như cắn thuốc lắc, cắt bỏ 1 số lối hầu cổ, sáng tạo ra vô vàn lối mới, mượn bóng Thánh làm càn, đưa rất nhiều vị không đúng Tứ Phủ vào hầu và thờ cùng Mẫu, thích ai hầu người ấy, hầu lính trước hầu Quan( ý nói một số vị chức tước bé hơn và ko thuộc hàng Tứ Phủ), sáng tạo lôi vào chiếu hầu cả tỉ bà Chúa, khăn áo cụt ngủn, cách tân như áo ngủ, có người ngồi sập còn mặc áo 3 lỗ, khăn áo bước qua, ngồi lên coi như mớ rẻ lau, đem hầu đồng đi từ góc chợ đến quán ba, hầu đồng đua tiền đua của...
2. Thầy bà xưng là ăn lộc Thánh, làm việc không có tâm, chỉ lo lừa đảo, cướp không đồng tiền của thiên hạ, sáng tạo, tự nghĩ ra đủ thứ lễ không lợi ích, phổ cập đồng bóng trong dân( xem 10 người thì cả 20 người bắt ra hầu). Vợ chồng đang sống hạnh phúc bắt ly dị, ma tà quấy nhiễu thì bảo căn đồng phải ra hầu, ma theo ko lo trục đuổi lại bắt làm lễ Tam Phủ thục mệnh, vong trong nhà chêt đc theo hầu ông nọ bà kia thì bắt con cháu làm đàn lễ cúng sắc phong cho vong( thầy to hơn Vua Mẫu) người sống bình thường ko có bất kì dấu hiệu đồng bóng nào thì bắt người ta đi khất đồng đến năm ... Tuổi sẽ ra hầu, gieo dắt tạo cho người ta vô vàn suy nghĩ hoang đường ảo tưởng sức mạnh... Tôi không biết các vị làm việc với mục đích gì chứ làm ra mấy trò đấy chỉ là cướp của hại người chứ nói gì cứu dân độ thế.
3. Đạo đức: thất đức, toàn làm chuyện xấu lừa gạt người tự cho mình là số 1 đươc Cha Mẹ thương người khác không bằng hoặc là dơm dạ đi lễ đi hầu theo phong trào, ko có tâm, đến đền phủ túm tụm đàn đúm cười nói inh ỏi văng tục chửi bậy làm mất tôn nghiêm cửa Thánh, ăn mặc nhố nhăng hở cả nội y dâm dê lợi dụng đồng bóng tâm linh lừa đảo gạ tình hãm hiếp người khác....
Và vô vàn tỉ tỉ thứ nữa mà càng kể ra càng đau lòng tôi thỉnh cầu các bạn suy nghĩ lại và sống có lương tâm cho vẹn 2 chữ thanh đồng đi. Thân.
.....................................................................................................................................................
Người có căn thì sợ trốn tránh
Người ko có căn lại thích mở phủ hầu đồng
Bàn về chữ Hầu trong hai chữ Hầu đồng .
Cái thời của những người như tôi .
trẻ nhỏ cấm cho vào Đền vì sợ phạm lỗi Thánh quở phạt .
Vào Đền thì nữ giới nép hai bên xập công không bao giờ dám ngồi chính diện tại xập .
Mà các bà Đồng thì cũng quỳ hơi sang hai bên khi lễ . " nghiêm cấm nữ ngồi xếp bằng khi lễ Thánh quỳ cũng phải khép hai chân hoặc thụy chéo vào "
" bây giờ thì hay toàn xếp bằng banh tè he ra trước mặt ....."
Mà trong khi trước đây đang lễ thấy Thanh Đồng là nam giới vào lễ Cũng lại càng phải tránh ra , sang bên để nhường chỗ cho các vị Đồng Nam vào lễ .
Còn mình vẫn quỳ lùi sang lễ tiếp .
Còn không một ai dám nói to trong đền cả
Không có chuyện buôn dưa lê cười hô hố . chứ đừng nói văng tục chửi bậy quat nạt trong Đền Thần như bây giờ.
Vào cung cấm thì quả Thật càng cẩn thận .
Chứ không như đi chợ như bây giờ.
Còn thời đó ai mà bị chấm đồng hay nghe nói mình có căn quả thì người ta sợ lắm như thấy ma ấy .
Còn thời nay thì quần áo nhố nhăng , trẻ con cho vào đền hò hét .....
Người lớn thiếu sự tôn trọng ăn nói đi đứng lễ bái .... Nói chung hơn một cái chợ .
Càng lắm cái tôi lúc nào cũng tỏ vẻ nguy hiểm . thậm chí bây giờ lại còn hát hò nhổ nhăng nhẩy múa linh tinh Trong đền khi lễ bái .
Bản thân từ lời ăn tiếng nói theo lệ tục cách khấn vái tâu quỳ khi vào đền hay ở nhà cũng đã mang chữ Hầu hạ .
" kẻ dưới " là phải nhẹ nhàng kín kẽ .
Mà thời này cũng lạ ai cũng thích có căn mới hay ,
Từ có căn nhà Thánh nghe thích tai lắm , nghe vị diệu và sang lắm , hơn đời hơn người..... Lắm .
Thích có Căn Đồng Thích Hầu Hạ vậy là hơn người cái căn . ha ha ha ..... Thích tỏ ra nguy hiểm ,
Là đồng là bóng là bố là mẹ là Thầy người ta , .....
Nhưng trả ai chịu kém ai ta đây là con Thánh con Thần ...
Nhưng mấy ai hiểu muốn là con Thánh đúng nghĩa là Thanh Đồng thì phải Hầu Đồng ,
Tôi xin các người chỉ cần hiểu một từ Hầu thôi là đủ .
Hầu là hầu hạ . " dù cho là kẻ hầu hạ ông Thánh "
Gia nô kẻ dưới... Người hầu lính ghế ......
Trước khi hầu Thánh Thần các bạn phải trọn bổn phận của mình " Trăm Đạo chữ hiếu làm đầu " .
Trong cuộc đời này Phải Hầu đầu tiên đối với ai cũng vậy đó là : bố mẹ mình .
Vậy bố mẹ ông bà... sinh Thành ra mình.
Mọi người đã báo đáp và đã Hầu được ngày nào chưa ?
Gia tiên nhà mình , đã hầu được ngày nào chưa ?
Vấn đề này hãy tự vấn tâm .
Ngày xưa các cụ trọng Đồng kính Thánh bởi Đồng nhân họ tu từ chữ Hầu trước tiên. Họ luôn chu Toàn về mặt hương khói trong gia trung ....
Như câu ca có phúc lấy được cô Đồng .......... Họ lo nắng trong gia trung về mặt thờ cúng miễn chê .
Về phần báo hiếu hay hầu hạ cho bố mẹ ông bà thậm chí bố mẹ chồng thì càng không phải nói , vì các cô đồng cậu đồng rất khéo léo và chịu khó.
Bố mẹ còn phải hầu lại mấy cô đồng cậu đồng không lúc nào không lo nắng cho họ , thậm chí cung phụng chiều chuộng họ , và chỉ sợ họ đi sai đường tu sai đường thì khổ ,
Có nhiều vị phụ huynh còn đau lòng vì sự vô tâm ngỗ nghịch ,
và có phần thể hiện căn quả quá lố hơi có chút làm tình làm tội người thân vì có căn quả của mình . thậm chí có phần bất hiếu của họ..... nhưng vẫn phải cố gắng gồng mình hầu hạ những ông bà Đồng nát thời @ này .
Đôi khi dẫn đến điều tiếng không hay với con đồng và nhà Thánh .
Đạo hiếu bị đổi thay kẻ vào đạo trẻ người non dạ ,để học chữ hầu là chính .
để học đạo lý của nhà Thánh về áp dụng trước là trong nhà sau mới đến cửa đình Thần .
Là chính kẻ học hầu thì không học , !
mà kẻ già và bố mẹ Thậm chí gia tiên thì phải hầu lại .
Hầu không cứ bắc ghế mới là hầu .
Bản thân từ lời ăn tiếng nói theo lệ tục , cách khấn vái tâu quỳ khi vào đền hay ở nhà cũng đã mang chữ Hầu hạ .
Bây giờ không có mấy người còn hiểu chữ hầu nó là gì chỉ nghĩ đến chữ đồng Thôi .
Có người bố mẹ còn đang sống đấy .
Bồ tát tại gia lù lù bằng xương bằng thịt ra đấy sao không hầu cho trọn .
Thánh thần có nhìn thấy đâu mà loạn lên ờ cơ hành bắt sát..... Thì ra hầu đã đành .
Nhưng đây ai cũng căn số ầm ầm mở phủ tứ tung , hầu như thiêu thân chưa được hầu Bao giờ .
vì tiền bạc vì danh vọng mà mưu cầu lộc lá mưu cầu Thánh thần ban Ân ban chức ban quyền thì nhầm rồi.
tham lam và sợ hãi và mong cầu lộc lá . mà theo vào mở phủ Hầu Hạ thì nghiệp chỉ có dài Thêm thôi .
Hồi tôi mới trình Đồng tôi chỉ ước mình có một cuộc sống bình thường , như bao người khác không căn số , không phải..... phải là người có căn sâu quả nặng .
Để sống một cuộc sống bình thường.
Nhưng âu cũng là duyên và số tiền định .
Còn cuộc đời này các bạn nếu là người bình thường
thì đừng nghĩ đến Hầu hạ vì lên voi xuống chó ba chìm bẩy nổi trong cuộc đời này là Thường tình .
Số Phận giầu nghèo có sẵn .
Kinh tế cũng phải tự lực làm ra ,
hạnh phúc cũng do bản thân quyết định .
Cuộc sống phải tự có định hướng và lỗ lực .
Nếu là người bình thường quá tốt rồi.
Vậy hãy bình thường mà sống , con đường tâm linh không phải là Thích thì có thể bước vào và Hầu với hạ .
Ra thì rễ giữ lễ mới khó .
Ra Đồng không được như ý muốn thì : oán trách thậm chí chửi cha cả Thánh lẫn thầy .
Nhất là thời điểm chánh tà bất phân này .
Trẻ người non dạ khi đường âm chưa tỏ đường dương chưa tường thì hãy dập đầu lạy thánh bằng cái lòng thành kính , nhất Tâm .
Và tập trung hầu hạ phụng sự các cụ thân sinh ở nhà gia tiên ở nhà ...
Còn đừng nghĩ rằng ra hầu là Phật Thánh ban cho nọ kia thoát khỏi nọ kia. .....
đừng nghĩ rằng ở Đâu phật Thánh cũng ngự .
Vì Phật Thánh Ở 10 phương nhưng Ma ở 12 phương cơ .
Bởi vậy không phải cứ ngôi đền ngôi điện nào thì ngự ở đó là phật ...nếu là ma quỷ thì sao .
Nhớ câu hát Văn : ngự Đồng Ai mình quyền bóng quế nhé , không phải ai Thánh cũng ngự đồng .
90% các con đồng đang hầu đồng hiện nay không đưa con người ta lên thiên đường mà toàn đưa người ta xuống địa ngục đấy ?
Đừng để lòng tham dẫn lối ...tin ai chẳng bằng tin vào nhân quả , sự tử tế hiếu đạo và một tấm lòng lương thiện.
Hoạ không chỉ gánh một ngày và nghiệp không chỉ trả một đời....một VIDEO HAY vài bức ảnh trên Facebook hầu đồng đẹp tung tiền như mưa.....
Thậm chí một giây phút thăng hoa trên chiếu hầu , chưa chắc đã cho ta một kiếp người hạnh phúc , địa vị công danh và giầu sang đâu các bạn nhé .
Hay nhìn thấy họ sang chảnh là cô đồng cậu đồng mà mê .
Các bạn phải nhớ Hiếu là Đầu trăm đạo .
Các bạn đã hầu hạ cha mẹ mình chưa gia tiên mình chưa, ?
Hay toàn hầu cha mẹ chỉ thấy mệt mỏi vài người còn cho đó là gánh nặng !
Hầu Thần Thánh mới được sung sướng địa vị và giàu sang ?
Nhầm rồi các bạn mà không hầu từ nhà hầu đi hầu từ việc nhỏ và lấy chữ hiếu và đức làm đầu thì các vị đang hầu Ma quỷ đấy vì Nhà Thánh không nhận sự Hầu hạ của các vị đâu .
Hãy cân nhắc cho kỹ và phải lo chữ hầu trước chữ Đồng thì mới lên ra trình hầu Thánh .
Nếu không rồi một ngày bước chân lên sập chính là bước chân xuống vực. Thậm chí địa ngục Và đang Thánh tha ma nhập .
các bác vào đền hãy tôn trọng Thánh thần bớt hành vi nói tục chửi bậy to tiếng hay bừa bãi.... trong cửa đền chùa đi ....
Và càng đừng bao giờ nghĩ mình là con cha con mẹ đi phải ra hầu , Khi chưa hầu những người cần hầu trong gia đình trước.
.....................................................................................................................................................
Mở Cung TÀI LỘC Là Gì? Có Nên Mở Cung Tài Khai Cung Lộc?
Các cô cậu đồng thầy bói trên mạng bây giờ thường khuyên mọi người nên làm lễ mở cung tài lộc
(Hay còn gọi là mở cung tài khai cung lộc).Vậy mở cung tài lộc là gì?
Lễ mở cung tài lộc có thực sự đúng và có tác dụng hay không?
Hãy cùng http://xemboimienphi.vn tìm hiểu.
Nếu xét về cung thì theo tử vi có tổng cộng 12 cung tất cả:
CUNG MỆNH - CUNG HUYNH ĐỆ - CUNG PHU THÊ - CUNG TỬ TỨC - CUNG TÀI BẠCH - CUNG TẬT ÁCH - CUNG THIÊN DI - CUNG NÔ BỘC - CUNG QUAN LỘC - CUNG ĐIỀN TRẠCH - CUNG PHÚC ĐỨC - CUNG PHỤ MẪU !
TRONG ĐÓ CUNG PHÚC ĐỨC QUAN TRỌNG NHẤT !
Trong 12 cung này không có cung nào tên là cung tài lộc lại không có cung nào trong 12 cung này đóng hay mở được.
Lễ mở cung tài lộc là gì?
Theo như các thầy làm lễ mở cung tài lộc hiện nay thì: Mở cung tài lộc là cách gọi tài hay cầu tài trong 1 thời gian nhất định
60 ngày, 72 ngày, 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng. Có nhiều trường phái khác nhau và cách làm cũng khác nhau
Ví dụ như có trường phái cần có gà hoa cương, thịt heo, thịt dê... cách cúng thì khá đơn giản.
Bây giờ các thầy mở cung tài lộc rất dễ và nhanh, không cần hầu cúng cũng xong
Chỉ cần cho mấy thứ vàng mã vào cái kho xong xé kho ra vậy là mở cung tài lộc.
Tuy nhiên các khoa cúng thuộc về đạo Mẫu theo lối cổ thì không có lễ mở cung tài lộc.
Sự thật lễ mở cung tài lộc?
Đi xem các bạn hay được thầy nói cung Lộc tài của ban bị khoá phải mở cung tài Lộc để lấy lại lộc
Nhưng trên thực tế hình thức tiến lễ mã kho vàng núi Bạc v.v. là để tạ ơn chư vị Phật thánh đã cho mình có tài có Lộc trong kiếp này bởi ai cũng có cái tài và Lộc riêng của mình. Lễ này dành cho những ai làm ăn phát đạt Lộc tài vượng tiến công danh địa vị tốt lúc này tiến lễ tạ ơn.
Vì vậy có thể gọi đây là tiến thảo sơn lâm sơn trang để cảm tạ và xin khất cầu nhà ngài cho thương mại hanh thông công việc thuận lợi chứ không phải lễ mở cung tài lộc. Các thầy ngày nay thường nói lái đi để đánh vào lòng tham của mọi người muốn cầu được ước thấy ngay mà làm lễ thật nhiều chứ phúc lộc là do gia tiên nhà mình và tự tay mình vun trồng công Đức thì mới bền.
Xin thì cũng phải nợ và trả, nhà Thánh không cho ai cái gì đâu các bạn ạ.
Ai nên làm lễ tiến thảo sơn lâm sơn trang?
Như đã nói ở trên là những người công việc đã sẵn nong sẵn né buôn bán đã tàm tạm hoặc đang trên đà thịnh vượng thì nên tiến lễ tạ ơn !
Ngược lại: những người bức bách về tiền bạc, đời đã nghẹt thở, cả đời không bao giờ chịu bố thí cho ai một đồng, âm phúc đã khốn khó thì 100 cái lễ cũng không "vực" được người đó dậy. Bởi: PHÚC CHỦ LỘC THẦY gia chủ không có phúc đến với bất cứ thầy nào cũng không thể "vực" người đó dậy được !
Có những người từ lúc sinh ra cho tới lúc chết không có một tài gì cả và họ sống đời ăn xin ngủ vỉa hè từ năm này sang năm khác cho đến hết cả cuộc đời
bữa ăn họ kiếm được còn chật vật lấy đâu ra lộc để làm ăn mà mở cung tài lộ để mà lộc tài vào ầm ầm như các thầy quảng cáo
Cung Tài lộc trong khoa tử vi?
Mặc dù trong 12 cung trên không có cung nào tên cung tài lộc nhưng cung tài lộc theo môn tử vi là có
Để mở huyền cơ đó rất khó và phải là thầy dòng truyền tử vi mới biết cách mở
Mở cung tài lộc trong khoa tử vi nói cách khác là thúc đẩy ảnh hưởng của bộ sao
Tả phù, hữu bật toả sáng.
Bạch hổ, thanh long hiện hình
Đó là những vị sao chiếu mệnh an cung.Nếu cần sự ảnh hưởng của sao chiếu mệnh thân chủ thì người thầy đó mới dùng lễ chiêu sao để khai mở cung tài lộc. (sao là tên đặt của các thuộc tính quy ước do tổ sư sáng lập hoa sơn lão tổ mượn tên các vị thần).
Tuy nhiên môn tử vi giờ phổ cập nên một số các thanh đồng, đồng bói học không đến nơi đến chốn, mượn vay thuật từ cung tài lộc mà nhiêu khê đánh tráo khái niệm để gạt người
Trong khi đó thần tài lộc theo phong thần và Liệt thần của đạo giáo gồm có 1 hệ thống thần tài thuộc cả 2 dòng văn võ gồm Tỉ Can, Triệu Công Minh, Thẩm Đại Tam... Khổng minh. [Văn Trường quan công ]... Tất cả 2 dòng văn - võ tài thần này đều bị quy ước thành 2 sao: Tả phù và Hữu bật
Do đó muốn kích cầu cung tài lộc trong cung tài lộc trong 12 cung cần nhất là biết chiêu sao.
Còn bên Tứ Phủ như đã nói ở trên đó chỉ là mở kho thôi. Không thể biến mở kho sơn trang để thành cung tài lộc (mở kho tài, khai kho lộc )
Cách mở cung tài lộc đơn giản nhất
Thực tế hiện nay đến 90% các thầy đều không biết cung mệnh của người phàm được hưởng Lộc từ đâu, cái tài ấy từ đâu mà có
Bởi nếu thầy ngộ ra được chân lý thì không khó để giúp trăm họ về cung tài Lộc nói riêng, không cần xuyên tạc lễ nọ sang lễ kia để mọi người đổ xô đi mở tài khai lộc.
Cái tài là bố mẹ ban cho vì song thân sinh ra mình sẽ dạy dỗ mình thành tài
Thứ hai là trí tuệ của bạn được khai sáng, may mắn nên có thể học hỏi và tiếp thu được kiến thức - kỹ năng từ bạn bè, bố mẹ, xã hội... để cái tài càng phát triển.
Cái lộc của bạn ở đâu mà có, là Lộc từ bậc gia tiên ông bà cha mẹ truyền lại, các cụ có câu "Bố mẹ giàu con có bố mẹ khó con không".
Vậy giữa tài và Lộc được ghép lại thành tài Lộc thì bạn phải biết dùng trí tuệ của mình để mưu sinh làm ăn
Để kho tài lộc luôn mở bạn nên báo ơn gia tiên, bố mẹ và những người bạn đã học hỏi được ở họ những thứ bạn cần.
Do vậy, cách mở cung tài lộc đơn giản nhất chính là tu nhân tích đức, chịu khó làm ăn, luôn mang trong mình lòng biết ơn với đời với người. Bạn làm được điều này có thể bạn không quá giầu nhưng chắc chắn bạn không bao giờ nghèo không bao giờ để bị dụ dỗ vào các khoá lễ tiền triệu tiền trăm triệu để mong giầu nhanh thịnh vượng phất lên nhanh.
Các bạn cũng đừng hoang mang mỗi khi làm ăn thua lỗ hay khó khăn công việc trì trệ.Đây là dấu hiệu chung của thời buổi kinh tế đồng thời cũng có xen kẽ ít tài vận và ngạch công việc của bạn
Lúc này nếu tiền của và trí tuệ chỉ tập trung cho việc nhờ thầy mở cung tài lộc thì không nên mà quan trọng nhất là hãy nghĩ xem ta nên bắt đầu từ đâu với số tiền này để làm ăn.Tùy vào nghiệp duyên của từng người mà lộc tài có thăng hay trầm.Gặp thời gặp vận cố gắng hết sức sẽ lên chứ đừng tin thầy trên mạng không thì ném tiền qua cửa sổ.
.................................................................................................................................................
VÌ ĐỒNG TIỀN NGÀY NAY RẤT NHIỀU VỊ KO CÓ CĂN SOI BÓI
KO CÓ KHẢ NĂNG SOI BÓI VẪN TỰ NHẬN MÌNH LÀ ĐỒNG THẦY
VẪN NHIỀU NGƯỜI TIN ... U MÊ LÀ THẾ ĐẤY
KO CÓ CĂN SOI BÓI CHỈ CẦN BỎ RA 5>10 TRIỆU ĐỒNG
LÀ KO CÓ KHẢ NĂNG SOI BÓI CŨNG ĐƯỢC LÀ ĐỒNG THẦY
CÁC BẠN CÓ HIỂU ĐỒNG THẦY LÀ THẾ NÀO ???
ĐỒNG THẦY LÀ NGƯỜI CHA MẸ CHO KHẢ NĂNG SOI BÓI
NHỮNG NGƯỜI NÀY KO CÓ NHIỀU ĐÂU
100% NHỮNG AI ĐƯỢC CÓ KHẢ NĂNG SOI BÓI THÌ AI AI CŨNG PHẢI TRẢI QUA
VÔ CÙNG NHIỀU BIẾN CỐ HỌA ĐỦ KIỂU THÌ RỒI MỚI CÓ CƠ DUYÊN LÀM THẦY
CHỨ KO PHẢI NHƯ BÂY GIỜ ĐỒNG THẦY TOÀN BỎ 5 > 10 TRIỆU RA MUA BẰNG TREO TẠI NHÀ
THẾ LÀ LẠI ĐƯỢC LÀM ĐỒNG THẦY
Thầy ko có căn soi ko xem bói được vẫn trình đồng mở phủ cho người
Vẫn làm lễ cho nhiều người
Thế có khác gì ko phải là bác sĩ nhưng vẫn khám chữa bệnh cho người
Có phải là tiền mất tật mang ko
Đấy chính là lý do mà nhiều người ngày nay đủ các loại lễ rồi kể cả trình đồng
BỞI VÌ CÓ NHIỀU TRƯỜNG HỢP
TÔI ĐI ĐÃ RẤT NHIỀU NƠI XÂY ĐỀN ĐIỆN NHƯ PHONG TRÀO Ý
1 NGÔI LÀNG NHỎ VÀI CHỤC NGƯỜI GIỚI THIỆU
THẦY ƠI NHÀ CON CÓ ĐỀN CON THỜ LÂU RỒI
VÀ TÔI HỎI ??? CÓ KHẢ NĂNG SOI BÓI GÌ KO MÀ CŨNG THỜ
THÌ CÓ NGƯỜI ẤP ÚNG KO TRẢ LỜI ĐƯỢC VÀ CÓ TRƯỜNG HỢP
THÌ NÓI CÓ CON XEM BÓI VÀ LÀM LỄ CHO NHIỀU NGƯỜI MÀ
NGHE ĐẾN ĐÂY TÔI MỚI HỎI TÔI NHÌN THẤY LÀ CHỊ KO SOI BÓI ĐƯỢC
MÀ CHỊ NÓI CHỊ CÓ XEM BÓI VÀ LÀM LỄ CHO NHIỀU NGƯỜI
THẾ CHỊ XEM CHO TÔI ĐI BẤT CỨ VỊ NÀO XEM BÓI
TÔI BẢO XEM CHO TÔI ĐI LÀ Y NHƯ RẰNG ẤP ÚNG KO NÓI GÌ ĐƯỢC
THÌ TÔI MỚI NÓI KO CÓ KHẢ NĂNG KO ĐƯỢC CHA MẸ CHO QUYỀN PHÉP
KO SOI BÓI ĐƯỢC MÀ VẪN THỜ ĐIỆN NHƯ THẾ NÀY LÀ THỜ MA THỜ QUỶ
NHÉ KO CÓ CHA MẸ NÀO NGỰ ĐÂU CÀNG THỜ THÌ CÀNG CÓ HOẠ ĐƯỢC CHÚT TIỀN BẠC TRƯỚC MẮT
RỒI HOẠ BAO GIỜ MỚI HẾT ĐƯỢC VÀ KHI BỊ TÔI BÓC MẼ LÀ KO CÓ KHẢ NĂNG SOI BÓI RỒI THÌ TÔI MỚI NÓI
CHỊ KO CÓ KHẢ NĂNG SOI BÓI MÀ VẪN XEM VÀ LÀM LỄ CHO MỌI NGƯỜI
CÓ PHẢI LÀ GIẾT NGƯỜI CƯỚP TIỀN CỦA HỌ KO THÌ IM LẶNG KO NÓI GÌ????
CÓ NHIỀU TRƯỜNG HỢP LÀM THẦY RỒI ĐƯỢC CHA MẸ CHO QUYỀN PHÉP
CÓ KHẢ NĂNG SOI BÓI RỒI VÀ LỢI DỤNG KHẢ NĂNG ĐÓ ĐỂ LÀM TIỀN
VÀ VÌ THẾ CHO NÊN CHA MẸ THU QUYỀN PHÉP KO CHO SOI BÓI NỮA
NHƯNG TRƯỚC ĐÓ KHI ĐƯỢC CHA MẸ CHO KHẢ NĂNG VÀ QUYỀN PHÉP
HỌ ĐÃ SOI VÀ NÓI CHUẨN CHO RẤT NHIỀU NGƯỜI VÀ VÌ THẾ CHO NÊN
SAU NÀY THÌ HỌ DỰA VÀO KHẢ NĂNG ĐÓ ĐỂ LÀM TIỀN CỦA DÂN
VÀ BỊ CHA MẸ THU QUYỀN PHÉP LẠI KO CHO SOI BÓI NỮA
NHƯNG KHI MÀ ĐÃ CHIẾM ĐƯỢC LÒNG TIN CỦA MỌI NGƯỜI RỒI
THÌ DÙ CHO LÀ HỌ BỊ THU HỒI KHẢ NĂNG SOI BÓI LẠI
LÚC ĐÓ HỌ PHÁN LINH TINH THÌ CÁC BẠN VẪN NGHĨ LÀ ĐÚNG
THÙ HỌ NÓI GÌ THÌ CŨNG TIN
ĐẤY LÀ LÝ DO NHIỀU NĂM NAY 10 CÔ GÁI THÌ 9 CÔ GÁI
THÍCH... TƯỞNG... NGHĨ MÌNH LÀ CĂN CÔ CHÍN
LẤY ĐÂU RA NHIỀU CĂN CÔ CHÍN THẾ
TẤT CẢ LÀ Ở MỒM BỌN THẦY BÀ LỪA ĐẢO PHÁN
AI CŨNG PHẢI CĂN CÔ CHÍN NGHE MÀ THẤY MỆT MỎI
VÌ BAO NHIÊU NĂM NAY NGÀY NÀO CŨNG THẦY ƠI CON ĐI XEM
CÁC THẦY NÓI CON CĂN CÔ CHÍN..... NẢN
CÓ PHẢI LÀ THẦY NÀO CŨNG ĐƯỢC CHA MẸ CHO KHẢ NĂNG SOI BÓI ĐÂU
VÌ THẾ CHO NÊN CỨ LÀ CON ZAI NHẤT LÀ AI CHƠI CỜ BẠC
LÀ CHẮC CHẮN 100% ĐƯỢC PHÁN CĂN HOÀNG BẨY
(NGÀY CÒN TRẺ TÔI CHƠI CỜ BẠC VÀ THẾ LÀ CŨNG NHIỀU THẦY PHÁN CĂN HOÀNG BẢY
LÚC ĐÓ CHƯA BIẾT GÌ VỀ CĂN QUẢ NGHE ĐƯỢC LÀ CON HOÀNG BẢY THÍCH LẮM OAI NỮA
MÃI CHO ĐẾN SAU NÀY MỚI BIẾT ĐÓ LÀ SAI...
CÁC BẠN CỨ NGHĨ XEM LÀ CON GÁI AI CŨNG THÍCH MUỐN
NGHĨ VÀ TƯỞNG MÌNH CON CÔ CHÍN
CÁC BẠN CỨ TỰ SUY NGHĨ THÌ SẼ THẤY 100 NGƯỜI THÌ 99 NGƯỜI BIẾT ĐẾN CÔ CHÍN CÔ BƠ
AI CŨNG THÍCH---TƯỞNG---NGHĨ MÌNH CON CÔ CHÍN....
NHIỀU KHI THẤY AI CŨNG RỒ LÊN THÍCH NGHĨ TƯỞNG MÌNH CON CÔ CHÍN (BUỒN THAY)
THẾ CÁC CÔ KHÁC CÁC VỊ THÁNH KHÁC KO CÓ TÀI CÁN KO CÓ CÔNG ĐỨC GÌ À
MÀ 10 NGƯỜI BÂY GIỜ ÍT CŨNG 8 NGƯỜI CON CÔ CHÍN
Ví dụ như bạn này thầy khuyên tiễn căn thế tiễn được căn khác gì bố mẹ mình đẻ ra mình
Ko báo đáp công ơn của bố mẹ lại làm lễ tiễn để ko liên quan gì đến bố mẹ nữa thì là đúng à
Với bố mẹ mình chỉ là bất hiếu thôi nhưng cứ tiễn đi với nhà thánh
Mình là có lỗi và vì thế cho nên làm xong chắc chắn 100% là có hoạ
Thầy lại còn sai khai mở cung tài lộc thế tôi ví dụ đơn giản mở được thế
Thì tại sao cả đất nước này ko mở hết cung tài lộc đi là ko còn có ai nghèo khổ nữa rồi
Xem bói ko sai nhưng ngày nay ko có căn soi lộc bói cũng vỗ ngực tự xưng
Là thầy bà cô cậu phán linh tinh lừa đảo
Vừa mất tiền vừa ghánh hoạ
Nhắn các bậc làm thầy đúng 1 câu thôi
Đừng đem tính mạng+gia đình ng ta ra mà doạ bắt phải ra trình đồng mở phủ nhé
Nếu thật sự có duyên với nhà thánh.họ tự ngấm đủ .đắng cay .tủi hờn. nhập.ốp.dở dở.ương ương
hãy dẫn trình họ ra trình đồng mở phủ nhé
Sao các thầy cứ thích đông con nhang kiểu chợ búa thế.càng đông càng tốt càng nở mặt à
KO CÓ CĂN QUẢ CŨNG HÙ DOẠ CHO CỐ VÔ BẮT NGƯỜI TA PHẢI RA TDMP
MỞ ĐƯỢC KO SAO ĐỆ TỬ YÊN KO SAO
MỞ KO ĐƯỢC NÓ HÀNH THẦY HƠN NGHIỆP HÀNH ĐẤY ..! SƯỚNG NỖI GÌ MÀ AI CŨNG BẢO PHẢI RA TDMP
RỒI CÓ NHỮNG THẦY MỚI ĐƯỢC ĐẺ RA MÀ LẠI ĐI ĐẺ RA ĐỆ TỬ khác NGAY ĐƯỢC thế thì thầy lại giỏi quá
____GHIM ĐÚNG 1 CÂU THÔI ..MONG CÁC THẦY BỚT DOẠ LẠI Ạ.! cho dân được yên bình
..CHÚC CÁC THẦY ĐẮC ĐẠO.!
BỌN KO CÓ KHẢ NĂNG VẪN VỖ NGỰC TỰ XƯNG LÀ ĐỒNG THẦY
RỒI THU TIỀN CỦA MỌI NGƯỜI LÀM LỄ SAI BỞI VÌ KO CÓ KHẢ NĂNG
SOI BÓI MÀ VẪN XEM BÓI VÀ LÀM LỄ THÌ CÓ KHÁC GÌ KO PHẢI LÀ BÁC SĨ
VẪN KHÁM CHỮA BỆNH CHO DÂN THÌ CÓ PHẢI LÀ GIẾT NGƯỜI KO DAO ĐÚNG KO ???
BỌN ĐỒNG THẦY KO CÓ KHẢ NĂNG SOI BÓI VẪN CỨ LỪA ĐẢO ĐI RỒI CHA MẸ PHẬT THÁNH CÓ MẮT
CHÚNG MÀY SẼ KO THOÁT TỘI ĐÂU YÊN TÂM
HAY THẬT SỰ KO CÓ KHẢ NĂNG SOI BÓI VẪN XEM BÓI VÀ LÀM LỄ CHO DÂN
KO CẦN PHẢI CÓ CĂN SOI BÓI MÀ CHỈ CẦN CHỤP HÌNH CÔ CẬU
ĐĂNG FB XEM BÓI TẠO PHÚC VÀ THẾ LÀ ẦM ẦM CÔ ƠI CẬU ƠI
CHÍNH BẢN THÂN TÔI ĐÃ MẮNG THẲNG VÀO MẶT BAO NHIÊU NGƯỜI
KO CÓ CĂN SOI BÓI MÀ VẪN THỜ ĐIỆN VÀ XEM BÓI LÀM LỄ CHO MỌI NGƯỜI
KHOE VỚI TÔI CON THỜ LÂU RỒI TÔI MỚI HỎI KO CÓ CĂN SOI BÓI MÀ THỜ
THÌ LÀ THỜ AI??? KO CÓ CĂN SOI BÓI THÌ CHA MẸ NÀO NGỰ
NHƯ THẾ LÀ THỜ MA THỜ QUỶ NHÉ THÌ VẪN CỐ CÃI
CON THỜ LÂU RỒI HÀNG NGÀY VẪN XEM VÀ LÀM LỄ CHO BÁCH GIA MÀ THẦY
TÔI BẢO VÂNG CHỊ XEM VÀ NÓI CHO TÔI LUÔN ĐI TÔI ĐỐ XEM VÀ NÓI ĐƯỢC ĐÚNG CHO TÔI THÌ Ú Ớ
Đó LÀ LÝ DO AI ĐI XEM CŨNG ĐƯỢC NÓ PHẢI MỞ PHỦ KO THÌ LẠI TIỄN CĂN
KO THÌ LẠI TRẢ NỢ TỨ PHỦ.... CẮT TIỀN DUYÊN CẮT DUYÊN ÂM
TOÀN NHỮNG LỄ GIẾT NGƯỜI CƯỚP TIỀN CỦA BỌN THẦY BÀ LỪA ĐẢO
ĐẶC BIỆT NỮA LÀ CÁC BẠN CHỈ CẦN KO BỊ U MÊ
LÀ SẼ HIỂU THẬM CHÍ CÒN CƯỜI ĐỂU BỞI VÌ MỖI KHI THẤY AI NÓI
CĂN CÔ CHÍN BẤT CỨ NGÕ NGÁCH NÀO PHỐ XÁ LÀNG XÓM NÀO
AI CŨNG CHÊ BIẾT CÔ CHÍN CỨ LÀ CON GÁI THÌ ĐƯỢC MẶC ĐỊNH LUÔN LÀ
GHẾ CÔ CHÍN 10 NGƯỜI ĐI XEM 9 NGƯỜI ĐƯỢC PHÁN CĂN CÔ CHÍN
CON CHỈ THẤY VẬY MÀ VÔ CÙNG ĐAU LÒNG THAY CHO NHỮNG KẺ U MÊ
TẠI SAO CÁC CÔ KHÁC KO CÓ TÀI KO CÓ CÔNG GÌ VỚI ĐẤT NƯỚC À
MÀ AI CŨNG CÔ CHÍN TẤT CẢ LÀ DO BỌN THẦY BÀ LỪA ĐẢO KO CÓ KHẢ NĂNG
PHÁN AI CŨNG CON CÔ CHÍN...CON GÁI MẶC ĐỊNH SẴN LÀ SẼ CĂN CÔ CHÍN
CON ZAI LẠI CHỈ PHÁN CĂN HOÀNG BẨY HOÀNG MƯỜI
CÁC BẠN LƯU Ý LÀ 1000 THẦY THÌ MAY RA MỚI CÓ 1 THẦY ĐƯỢC CHA MẸ
CHO KHẢ NĂNG ĐỂ SOI CĂN THÔI KO CÓ NHIỀU ĐÂU MÀ BÂY GIỜ RANH CON
9X 2K ĐĂNG ẦM ẦM XEM BÓI TẠO PHÚC ????
Để MÀ ĐƯỢC KHẢ NĂNG SOI BÓI NÓI ĐƯỢC ĐÚNG Ý
THÌ CHẮC CHẮN LUÔN LÀ 10 THẦY THÌ CẢ 10 CÙNG PHẢI TRẢI QUA VÔ VÀN
CƠ ĐẦY KHỔ CỰC CHỨ KO ĐƠN GIẢN ĐÂU MÀ XEM BÓI TẠO PHÚC
LƯU Ý BỌN KO CÓ KHẢ NĂNG SOI BÓI VẪN XEM BÓI VÀ LÀM LỄ CHO MỌI NGƯỜI LÀ TẠO NGHIỆP NHÉ RẤT NHIỀU NGHỆ NHÂN ĐỒNG THẦY NỔI TIẾNG
NGÀY NAY KHẢ NĂNG SOI BÓI KO CÓ CHỈ CẦN BỎ TIỀN RA
MUA BẰNG CHỨNG NHẬN TREO ĐẦY NHÀ DÂN ĐẾN NHÌN NỂ THẾ LÀ PHẢI TIN
TÔI KHUYÊN THẬT LÒNG CÁC BẠN KO BIẾT GÌ VỀ TÂM LINH THÌ HÃY TÌM HIỂU KỸ TRÁNH MANG HOẠ
TÂM LINH KO PHẢI CÔNG VIỆC ĐỂ KIẾM TIỀN ĐÂU ĐỪNG THẤY ĐÀO ĐƯỢC DỄ
THÌ CỨ ĐÀO 11 NĂM LÀM VIỆC TÔI ĐỐ BẤT CỨ AI NÓI TÔI NHẬN DÙ 1 NGHÌN
NGƯỜI CÓ TRÁCH NHIỆM LÀM THẦY LÀ PHẢI 1 LÒNG CỨU ĐỘ CHO BÁCH GIA
TRĂM HỌ CÓ CUỘC ĐỜI TỐT ĐẸP HƠN CHỨ NGƯỜI LÀM THẦY ĐÍCH THỰC
HỌ TRẢI QUA BIẾT BAO KHỔ CỰC HỌ MỚI THẤM NỖI KHỔ CỦA NGƯỜI KHÁC
THÌ LÀM SAO MÀ CÓ THỂ NHẪN TÂM CẦM NHỮNG ĐỒNG TIỀN MỒ HÔI
CÔNG SỨC CỦA CÁC BẠN CHỈ CÓ BỌN TỰ XƯNG TỰ NHẬN MÌNH LÀ THẦY BÀ CÔ CẬU THÌ MỚI VÔ TƯ CẦM NHỮNG ĐỒNG TIỀN MỒ HÔI NƯỚC MẮT
NHẮN CÁC BẬC LÀM THẦY DÙ LÀ THẦY THẬT HAY TỰ NHẬN LÀ
NHIỀU NGƯỜI BỊ HÀNH VÌ LÀ NGƯỜI TRẦN MẮT THỊT HỌ ĐÃ U MÊ ĐÃ KHỔ LẮM RỒI TÔI KHUYÊN CHÂN THÀNH LÀ KO GIÚP ĐƯỢC GÌ CHO HỌ THÌ THÔI
ĐỪNG LÀM TIỀN CỦA HỌ CHÍNH BẢN THÂN TÔI ĐI LỄ CÙNG RẤT NHIỀU CÁC CÔ GÁI Ở QUÊ KO HIỂU BIẾT THẦY XUI DOẠ
CHO TÍ LÀ SỢ LO 100 NGƯỜI THÌ TẬN 200 TRIỆU ĐỂ HẦU 1 THỜI GIAN SAU VÌ LÀM KO ĐÚNG VẪN BỊ CƠ HÀNH
HỎI THẦY THÌ THẦY NÓI BỊ LỖI PHẢI LO 100 TRIỆU ĐỂ XOAY KHĂN
(CÁC BẠN CHẮC SẼ HIỂU THẦY ĐÃ MỞ LỖI CHO MÌNH 1 LẦN THÌ DÙ CHO
CÓ XOAY KHĂN LẠI BAO NHIÊU LẦN THÌ CŨNG CHỈ TIỀN MẤT TẬT MANG MÀ THÔI)
Ngày nay đi lễ tự nhiên để ý bất cứ đền nào cũng
Kín các Cung đang có lễ Cung thì lễ Trả nợ tứ phủ
Cung thì Di cung hoán số Cắt duyên âm
Nhà Thánh Có Phải Chủ Nợ Đâu Mà Cứ U Mê Trả Nợ
Xong rồi lại tiền mất tật mang chứ sướng gì đâu
Những cái lễ này tôi dám chắc 100% bất cứ ai làm xong
Thì cũng sẽ ko được chuyện gì tốt đẹp gì đâu
Đứng Nghe những người làm lễ
Họ nói Lễ Trả nợ tứ phủ Và Di cung hoán số
Cắt duyên âm...Cắt tiền duyên họ nói lễ nào cũng 50 70triệu
Nghe vậy mà xót xa thương thay cho họ u mê mù quáng
Đã khổ rồi còn gặp thầy bà ma quỷ làm tiền
Đến sợ các thầy lễ ko đúng còn thu tiền như cướp
Thương thay những kẻ mang danh là Đồng Thầy con nhà Tứ Phủ con Cha con Mẹ vì đồng tiền mà bất chấp tất cả
Con nhang đệ tử nặng nghiệp đang phải trả nghiệp tiền kiếp trả nghiệp quá khứ cũng nhắm mắt xuôi miệng phán rằng căn số phải ra trình đồng mở phủ lập điện ngay
Lắm lúc tự hỏi nói câu này ra biết sẽ mạo phạm nhưng buộc phải nói tạo nghiệp nhân xấu ác đang phải chịu quả báo luân hồi chỉ cần làm lễ thì qua đc mọi vận hạn những Thánh Thần chứng cho LỄ này khác gì ăn hối lộ
Có Thầy cũng lạ lắm.không cần biết con nhanh của mình có tiền hay không giàu có hay khổ sở chỉ chăm chăm nhìn người ta mà phán: Căn số đấy nặng lắm rồi không lễ là tán gia bại sản không lễ vợ chồng ly hôn không lễ sẽ mất mạng.Đau xót quá
Ai ai cũng biết những vị Thần Thánh được người dân kính mến vì Đạo vì Nghĩa được dân thờ phụng bởi công đức đánh giặc xả thân quên mình làm điều thiện nghĩa có vị là tấm gương hiếu thảo kính trên nhường dưới không tham quyền thế.
Thiết nghĩ nếu các ngài còn sống những kẻ buôn Thần bán Thánh quên nghĩa nhân tham tiền như trên chém đầu không hết tội
Ai cũng biết Hầu Đồng là hình thức giữ gìn văn hoá Việt cũng là để nhắc chúng ta nhớ tới ân đức của các Ngài.Nhưng bây giờ đâu đâu cũng Hầu 1 năm hầu cả mười mấy giá nói là nhà ngài cho LỘC thì phải trả lễ. Nghe thật nực cười.Có những người từng làm lễ CẮT DUYÊN ÂM cưới vợ gả chồng cho vong âm theo ám mình có ai thấy khá hơn không? Có ai thấy mình sống dở chết dở vì từng đi vay mượn để theo đồng thầy trình đồng mở phủ chưa? Có ai từng tự xét bản thân trong quá khứ ta từng phá thai đặt điều hại người bất hiếu mẹ cha lừa gạt tình cảm của người khác thì sẽ bị quả báo gì chưa hay lại căn số?
Đi lễ Đền Bảo Hà nhiều người có quan điểm:
Dâng ông á phiện ông thích rượu chè cờ bạc gái xinh ông mê lắm tiện khổ quá xin ông con lô con đề.
Thật nghe mà nhục nhã quá
Thần tích sử tích còn ghi về ông ông chết hào khí oanh liệt phút chốc lại thành thằng nghiện ham cờ bạc mê sắc dục
Số ít người cũng lạ lắm làm ăn gặp thời suôn sẻ không sao có tiền có của bo bo giữ không đem tiền phụng dưỡng cha mẹ ông bà.Đến khi lâm nạn xem bói thầy nói căn số tin người được sao không tự vấn lại ta khi nhiều tiền của có làm việc thiện tu nhân tích đức hay không? Hay ăn chơi trác táng bạn xấu chơi cùng
Đi lễ các Đền to Phủ lớn nhiều vị dâng voi ngựa
Heo quay gà luộc xôi giò...Vấn đề phú quý sinh lễ nghĩa thì không dám bàn cãi nhưng nên hiểu nghèo sắp lễ theo nghèo có của ăn của để hiếu lễ vậy là tốt nhưng phải đi đôi với đạo lễ kính trọng phụng dưỡng gia tiên ông bà cha mẹ như thế
Hễ ai nghèo khó hãy biết tự tu tâm tu thân tu khẩu
Hiếu thảo sách có câu Đức Năng Thắng Số
Hễ ai đang phát đạt cũng đừng quên cội nguồn
Gia đình những người từng giúp đỡ ta ta khá giả rồi thì giúp người nghèo khó khổ sở hơn ta bằng gì cũng được đâu nhất thiết là tiền.
Kiếp này ta ăn ở hiền lành mà tai hoạ dồn dập vậy chắc gì kiếp trước ta ăn ở thiện lương.
Đốt vàng mã là phong tục tập tục của cha ông ta ngày xưa uống nước nhờ nguồn
Nhưng đừng hoang phí tiền bạc bỏ tiền thật ra mua đồ giả nên ở mức vừa đủ thôi. Hãy chăm xám hối tội lỗi không làm điều ác
Giúp người khi có khả năng
Tu nhân tích đức hiếu kính mẹ cha sống có nhân có nghĩa
Thời gian gần đây có rất nhiều các bạn nhắn tin cho Add hỏi về căn số nội dung thường hỏi nhiều nhất là về vị thánh cầm bản mệnh!!!
Câu hay hỏi và cũng là điều các bạn đi xem bói thường thắc mắc là mình căn ai? Căn của vị thánh nào?
Và các bạn đi xem mỗi nơi các thầy lại phán căn một vị khác nhau
(nếu đi nhiều chắc đủ 36giá)
Với tình trạng thực tế hiện nay rất khó để các bạn xác định được mình do vị thánh nào cầm bản mệnh vì những lý do sau:
1.Không phải thầy nào cũng có khả năng soi căn nối quả
Nhưng thầy dởm thì nhiều nên không có căn cứ mà cứ phán...
Nên mỗi câu trả lời lại có một vị thánh cầm bản mệnh
2.Khi gặp đúng thầy soi đúng.Nhưng ai và lấy gì chắc chắn là thầy ấy đúng và hiển nhiên phải đi soi tiếp nơi khác thầy phán khác lại đi tiếp Cuối cùng bị loạn căn
3.Bản thân người đi soi căn cũng hoang mang không lbiết kêu cầu gia tiên dẫn đường chỉ nối cha mẹ khai sáng để có căn duyên gặp thầy tâm đức thậm chí nhiều bạn chẳng có tí căn quả nào? Chỉ vì đi xem bói thấy người ta bảo vậy là cuống cuồng đi xem chỗ này chỗ khác mong tìm kết quả.Có vị ra đồng gần chục năm có đền phủ riêng khi tôi hỏi vị thánh nào cầm bản mệnh của cô vị này đưa ra 3 vị thánh tôi hỏi vậy vị thánh nào là vị thánh thủ đền cô ấy cũng cho tôi 3 cái tên...Chao ôi!!! Đến đền phủ.Căn số của mình còn không vững thì cứu được ai? Vậy tôi thiết nghĩ các bạn muốn biết mình Căn của vị thánh nào điều đầu tiên cần nắm là phải biết mình có căn hay không? Khi có căn thì biểu hiện thế nào? Sức khỏe gia đình công việc các điềm báo giấc mơ soi bói...Khi xác định được có căn mới tìm hiểu mình căn của vị thánh nào? Điều này các bạn hay đi xem nhiều nơi nên bị loạn.Tốt nhất năng kêu cầu gia tiên và Phật thánh gia hộ đồng thời tìm thầy uy tín chỉ dẫn kết hợp với cảm nhận cá nhân « điều này là rất quan trọng vì không ai rõ mình con ai bằng chính bản thân mình» khi có thầy không nên nghe linh tinh mà loạn tâm chỉ có vậy mới mong tìm ra câu trả lời cho riêng mình Vì khó khăn này nọ mới hay đi xem bói
Ai chả biết điều đó không lẽ đồng thầy không biết
Có con nhỏ với tình hình môi trường hiện nay 10 cháu bé có đến 9 cháu bị bệnh vặt đi viện .....
Hoặc bận bịu không chăm sóc trẻ tuổi dậy thì không nắm rõ tâm sinh lý của con dẫn đến con có chuyện nọ chuyện kia
Thầy nói xung về số mệnh....không đúng mới là lạ
Riêng khoản nói nguội là nghề của các thầy.
Rồi nói nóng nữa.Ba cái vụ mồ mả động rồi đất ở lành dữ thầy nói đâu nghe sợ đấy.Dọa cái là sợ co cả người vào.Thầy nói di cung hoán số là di cung hoán số nói cắt tiền duyên là cắt tiền duyên
nợ tứ phủ là trả nợ tứ phủ nói có căn là phải hầu
Cũng không phải ai cũng đủ bản lĩnh để suy xét.
Tất dẫn đến mê muội
Đời ai không gập ghềnh uốn khúc
Không ai nắm tay thâu ngày đến tối lúc lên voi lúc xuống chó là thường
Nhất là yếu tố kinh tế và tình cảm hay bị các Thầy soi mói bằng thủ đoạn nói nguội Nhưng nếu mà tin vì thầy nói là có căn thì phải cẩn thậnRiêng khoản soi căn nổi quả không phải ai cũng xem được 1000 thầy may được 1 Đi xem thầy cứ phán các bạn cứ Con gái ai cũng căn Cô chín...Cô bơ
Con zai thì lại Quan hoàng 7...hoàng 10
Rồi Tiễn căn...Di cung hoán số...trả nợ tứ phủ...
Cắt duyên âm cắt tiền duyên chắc chắn làm xong
1 những lễ này các bạn chỉ có xuống dốc ko phanh sống dở chết dở luôn vì những lễ lừa đảo giết người này của các thầy vô lương tâm Chính xác là thế
Tôi viết bài này mong có thêm kinh nghiệm cho các bạn.
Đặc biệt mấy bạn trẻ
Các nghi lễ không có trong Tứ Phủ
1 : Mở Phủ Âm
2 : Hầu Đồng Âm
3 : Di Cung Hoán Số
4 : Tiễn Căn
5 : Mở Cung Tài Lộc
6 : Mở Cung Lộc Bói
7 : Trả Mã Tào Quan
8.Trả Nợ Tứ Phủ
9 Cắt Duyên Âm - Cắt Tiền Duyên
Những nghi lễ này ko có trong Tứ Phủ Đạo Mẫu mà là do
Tự các thầy bà lừa đảo làm tiền nghĩ ra để lấy tiền của dân
Làm 1 trong những lễ này xong thì bất cứ ai Cũng sẽ rất khổ
.............................
Tại Sao Mọi Người Hay Đi Lễ Ngày Mùng 1 Hôm Rằm?
Từ xưa ta thường thấy các cụ hay đi lễ chùa, đền, điện,phủ vào ngày mùng 1 và 15 âm lịch (hàng tháng)
Vậy tại sao mọi người lại chọn 2 ngày này để lễ chùa cúng chư Phật, Thánh thần?
Việc đi chùa vào ngày mùng Một và ngày Rằm có phải quy định của đạo Phật hay không?
Nhiều Phật tử có thói quen ngày nào cũng thắp hương tụng Kinh và ăn chay trường nhưng một số thì thực hành những việc làm trên vào những ngày 1, 8, 14, 15, 18, 23, 24, 28, 29, 30 âm lịch trong tháng. Vào những ngày này họ sẽ kiêng ăn thịt, cá, ngăn cấm sát sinh. Những ngày này họ luôn dâng hoa tươi, quả ngon thanh tịnh để dâng cúng Tam Bảo và có cả chư Thiên (ở ban Trung Thiên).
Người do làm ăn bận rộn không có điều kiện ăn chay nhưng cũng không quên dâng hoa quả xôi, chè phẩm vật lên ban Tam Bảo và chư Thiên hôm mùng 1 ngày rằm. Tại sao lại có tục lệ này?
Đạo Phật có quy định phải đi lễ chùa mùng Một & ngày Rằm kO?
Theo cuốn "Vui buồn giỗ tết" của tác giả Trần Ngọc Lân, đi lễ chùa là tập quán của nhân dân chứ không phải quy định của đạo Phật, vì thời Đức Thích - ca còn sống, các sư đi lưu động khắp đất nước Ấn Độ thuyết pháp truyền giáo chứ chưa hề có chùa.
Theo các cụ xưa cũng cho rằng: Mùng một ngày rằm là những ngày Chư Phật chư Bồ-Tát thường giáng hạ tức là xuống nhân gian hòa vào dòng người để xem xét mọi sinh hoạt việc làm tốt xấu của mỗi người chúng ta.Những ngày thường khác thì khi có ai cầu thỉnh các Ngài sẽ cảm ứng mà đến chúng minh và lắng nghe lời thỉnh cầu của quý vị và ủng hộ gia trì cho nếu lời cầu nguyện của quý bạn là chính đáng
Chính vì vây, dù bận hay hoàn cảnh khó khăn đến mấy thì các gia đình Việt cũng tùy theo hoàn cảnh của mình dâng hoa, quả phẩm vật thắp hương Tam Bảo, Chư Thiên và gia tiên tại nhà. Người không có nhà cửa, không có ban thờ Tam Bảo hoặc có điều kiện thời gian nhiều hơn sẽ đến Chùa lễ lạy với lòng thành để được chư Phật chứng minh và gia trì ủng hộ. Một số bạn là Phật tử đáng quý do lòng thành tâm những ngày này đều làm phóng sinh, dâng hoa quả nơi chùa hay nơi tượng Phật. Đó là nghĩa cử cao đẹp rất đáng trân trọng.
Cơ sở khoa học: Việc đi lễ chùa trong 2 ngày mùng Một và ngày Rằm?
Tuy nhiên, việc lựa chọn lễ Phật trong 2 ngày mùng Một và Rằm (tiếng Sanscrit Ấn Độ gọi là ngày ekadasi) thực ra lại có cơ sở khoa học.
Chúng ta biết rằng âm lịch dựa vào thời gian Mặt Trăng quay quanh Trái Đất trên một quỹ đạo hình elip.
Theo định luật Newton, lực hút giữa chúng gây ra hiện tượng thủy triều ở bất cứ nơi nào có nước, chứ không chỉ ở biển, dĩ nhiên là cả trong thân thể con người (với 75% nước).
Vào 2 ngày này, Mặt Trăng tiến tới gần Trái Đất nhất, lực thủy triều tăng tối đa ảnh hưởng xấu đến tâm sinh lý con người nên chúng ta thường không minh mẫn, hay cáu gắt và dễ gặp chuyện xui xẻo
Trong một bài viết có nhan đề "Mặt trăng có điều khiển tâm tính của bạn không?" đăng trên tạp chí New Sciences, tác giả Edga Zigler cũng cho biết, sở Cứu hỏa Phoenix thuộc tiểu bang Arizona (Mỹ) báo cáo, số cuộc gọi điện thoại tăng rõ rệt vào những đêm trăng rằm.
Các vụ phạm tội và tai nạn cũng tăng vọt khi trăng tròn.
Tiếng Anh cũng sử dụng những cụm từ liên quan đến Mặt Trăng như "lunancy" (có nghĩa là điên rồ – xuất phát từ tiếng Latinh với "luna" là mặt trăng), hay "moonstruck" (có nghĩa là hâm dở, trong đó "moon" cũng là mặt trăng)...
Chính bởi những tương tác tiêu cực của Mặt Trăng lên tâm lý con người vào hai ngày mùng Một và Rằm nên phép dưỡng sinh Yoga của Ấn Độ khuyên người ta nên nghỉ ngơi, tĩnh tâm để được an toàn, thoải mái trong 2 ngày đó và đi lễ chùa là một trong những cách để con người được thoải mái về tâm tưởng.
....................................
ĐỒNG NHÂN Cứ Chăm Đến ĐỀN, ĐIỆN, PHỦ, CHÙA Là Tốt?
Đi lễ ĐỀN, ĐIỆN, PHỦ, CHÙA... trong những ngày rằm, mùng 1 hay Tết là thói quen của đa số người Việt. Nhưng với các đồng nhân, thanh đồng trong đạo Mẫu, việc năng đi lễ tại các ĐỀN, ĐIỆN, PHỦ, CHÙA có thật sự tốt hay không?
Trong tâm linh: các linh hồn tương tác với người trần bằng nguồn năng lượng
Con người tương tác với nhau qua trường năng lượng của mình, còn trong thế giới tâm linh, các linh hồn cũng tương tác qua lại với nhau và cả với người trần bằng trường năng lượng.
Chư Phật chư Thánh dùng năng lượng tâm linh cao của mình giáo hóa và tiếp độ các vong linh thấp cũng như can thiệp một số cái được tạo hóa cho phép cả cho người trần.
Đặc biệt đối với người có căn thì sự cảm nhận, tiếp nhận nguồn năng lượng này lại càng mạnh mẽ.
Nguồn năng lượng tâm linh luôn đa dạng
Nhưng cũng bởi nguồn năng lượng tâm linh luôn rất phong phú đa dạng, có tốt có xấu:
- Năng lượng của Phật, của Thánh hiền thần linh chính tắc thì tốt
- Năng lượng của ngã quỷ, của hung thần và tà thần vong tà… thì xấu.
Ngôi chùa ngôi đền linh thiêng và người chủ trì hay thủ nhang ở đó đạo đức tốt, tu tập tốt thì dù ngôi đền chùa hay điện đó to bé không quan trọng, ta cũng cảm nhận được trường năng lượng tốt (hay còn gọi là linh khí hay ngôi đền điện chùa đó linh thiêng), cảm thấy khoan khoái, dễ chịu, ấm áp và được sự che chở.
Nhưng nếu đến một ngôi chùa đền điện dù to đẹp hoành tráng mà người chủ trì hay thủ nhang không đi đúng đạo và không có đức thì ngôi đền chùa đó chỉ như nhà triển lãm tượng, giống những nơi trưng bầy và khoe khoang đời thường. Thậm chí nếu các vị đứng đầu nơi đó mà nhập ma thì khi bước vào sẽ chỉ nhận được trường năng lượng xấu thậm chí gây cảm giác lạnh lẽo, sợ hãi.
Cũng giống như người hiền lành đạo đức trong sáng, tâm thiện thì tỏa ra trường năng lượng tốt; người tà tâm, suy đồi đạo đức thì năng lượng xấu. Một con người đạo đức hay xấu xa dù thế nào, cũng không thể giấu diếm được trước các đấng siêu hình thậm chí cũng khó dấu diếm được các vị tu hành có đạo hạnh hay các nhà tâm linh có tu tập cảm nhận được năng lượng.
Chọn nơi mà đến để nhận năng lượng của Phật, của Thánh hiền, của chính Thần
Vậy các con nếu là đồng nhân, muốn tỏ lòng thành kính với đấng Thánh Thần, muốn được bề trên chứng tâm gia ân che chở, phù hộ, muốn xin cầu một chút ân duyên năng lượng để an yên lại căn mệnh, bình an thần trí... hãy năng đến các đền chùa linh thiêng, các địa linh để tiếp nhận năng lượng, để nhận sự tác động tốt bởi năng lượng của Phật, của Thánh hiền, của chính Thần.
- + Các con lại nên tránh những nơi có năng lượng xấu dù được rao giảng lôi kéo hay nhìn bề ngoài có hoành tráng đến đâu, nổi tiếng đến đâu.
- + Các con cũng hạn chế đến nơi có nhiều mồ mả, nơi có năng lượng thi khí (khí từ người chết, thi thể), năng lượng âm khí, năng lượng địa mạch âm sát và năng nượng oán khí... Nó ảnh hưởng rất xấu đến cuộc sống của các con từ sức khỏe, tài vận và đặc biệt là đến căn mệnh của người có đồng...
TRỪ KHI các con có năng lực nội tại đủ tốt để chế ngự/điều hòa năng lượng này hoặc khi có nhiệm vụ hành pháp ĐỘ VONG
Văn Khấn Gia Tiên Mùng 1 Và Ngày Rằm Hàng Tháng
Văn khấn gia tiên mùng 1 và ngày rằm là bài cúng tổ tiên cúng gia thần được các gia đình Việt Nam thực hiện vào ngày mồng một và chiều tối ngày rằm hàng tháng nhằm cầu mong một tháng bình an may mắn thành đạt Mời các bạn cùng tham khảo bài viết tổng hợp dưới đây của XEMBOIONLINEMIENPHI.NET để biết cách sắm lễ vật cúng gia tiên ngày rằm bài cúng ngày rằm và mùng một âm hàng tháng
Bài cúng gia tiên mùng 1 và ngày rằm
1. Tại sao phải cúng gia tiên mùng 1 và ngày rằm
Theo quan niệm lâu đời của người Việt Nam, ngày Rằm gọi là ngày vọng. Vọng có nghĩa là nhìn xa trông rộng, ngày mặt trăng, mặt trời đối xứng nhau ở hai cực xa nhất trong tháng. Người xưa cho rằng, ngày này mặt trăng mặt trời nhìn rõ nhau thấu suốt nhau soi chiếu vào mọi tâm hồn.Con người trở nên sáng suốt trong sạch đẩy lùi được mọi đen tối vẩn đục trong lòng.
Còn ngày mùng 1 đầu tháng âm lịch gọi là ngày sóc.Nguyên nghĩa từ sóc là khởi đầu bắt đầu.Ngày mùng 1 là ngày bắt đầu của một tháng nên gọi là ngày sóc.
Người Việt ta coi ngày Sóc Vọng là ngày tưởng nhớ tổ tiên cúng ông bà ông vải.Ngày Sóc Vọng còn có ý nghĩa "Cát tường" xem ngày tốt xấu thấy là ngày tốt nhất trong tháng
Cúng vào mùng 1 và ngày Rằm hoặc cúng vào chiều ngày 30 và chiều ngày 14 hàng tháng đều được.
Theo phong tục truyền thống thì trong những ngày này người ta cúng với ý nghĩa:
Ngày mùng Một (ngày Sóc): Ngày khởi đầu của một tháng mới cầu điều may mắn và thành công.
Ngày rằm (ngày Vọng): Ngày có sự thông suốt của mặt trăng và mặt trời tức là trong ngày này thần thánh, tổ tiên thông thương với con người thì con người chỉ cần thật tâm cầu nguyện sẽ dễ dàng gửi được những nguyện cầu hơn. Hơn nữa, lễ cúng trong ngày này còn thể hiện mong muốn con người sáng suốt trong sạch, đẩy lùi những thứ xấu xa trong lòng.
Chính vì vậy, việc khấn cúng gia tiên vào ngày mùng 1 và ngày rằm (khấn cúng ngày sóc, ngày vọng) là việc mà các con cháu nên làm hàng tháng để bày tỏ lòng biết ơn đối với các vị tổ tiên.
2. Cách làm lễ cúng gia tiên
Thờ cúng thần linh gia tiên là một phong tục lâu đời của người Việt. Đây là cách người sống thể hiện sự biết ơn tri ân với thần linh và những người đã khuất cầu mong sự an ổn may mắn đến với gia đình. Vào mỗi ngày rằm hằng tháng, mọi gia đình lại chuẩn bị đồ cúng để dâng lên ban thờ gia tiên và chư Phật thần linh.
Nhưng cần chuẩn bị đồ cúng cho ngày rằm sao cho đúng và đủ có lẽ chưa nhiều người biết.
Ngày xưa, mâm cúng rằm thường rất cầu kỳ, phải có cả đồ chay đồ mặn. Tuy nhiên, do cuộc sống hiện đại rất bận rộn, nhiều gia đình không có thời gian chuẩn bị những mâm cúng cầu kỳ nên đồ cúng rằm đã được giản lược đi khá nhiều.
Với ý nghĩa ngày tốt lành nhất trong tháng nên khi cúng vào ngày rằm hay ngày mùng 1 hàng tháng, người Việt không cúng cầu kỳ, đơn giản chỉ là những đồ lễ như:
Và một thứ không thể thiếu là văn khấn gia tiên mùng 1 và ngày rằm. Ở mỗi nơi trên đất nước Việt Nam lại có những quan điểm khác nhau về cúng lễ những ngày này. Có nơi cúng vào mùng 1 và ngày 15, nhưng cũng có nơi lại cúng vào chiều ngày 30 tháng trước và ngày 14 Âm lịch hàng tháng. Dù cúng theo vào thời điểm nào thì trước khi cúng gia tiên thì phải cúng ông thần Thổ Công trước. Như vậy mọi điều nguyện cầu mới phải phép và đến được với ông bà, ông vải và tổ tiên.
Các nghi thức cúng gia tiên mùng 1 và ngày rằm
Khi cúng gia tiên thì trọng tâm cúng thần thức của người đã khuất khi trở về cảnh giới an lạc.Người ta gọi đây là “âm siêu dương thái” Nghi thức cúng gia tiên để đạt được những kết quả viên mãn là:
Tình vật, tịnh tài và tịnh tâm nên mọi thứ dâng cúng đều phải trong sạch, tuyệt đối không cúng tiền giả, không cúng những đồng tiền có nguồn gốc bất lương, không cúng những thực phẩm tanh hôi,... Ngoài ra có một số nơi còn không cúng đồ có nguồn gốc sát sinh vì họ cho rằng người mất không hưởng trực tiếp đồ cúng phạn thực nên chỉ dùng đồ hỷ thực hoặc hiếu thức mà thôi.
Cúng cần có sự nôi dưỡng, hoặc phóng sinh thể hiện lòng từ bi hay công đức của gia chủ và tiêu trừ được những nghiệp chướng trong quá khứ. Đây là cách giúp cho người thân tránh được những họa nạn không mong muốn về những nghiệp chướng này.
Không giải hạn bằng bùa ngải, bởi không thể dùng người khác thay thế mình, chỉ có mình mới có khả năng giải trừ các tai ách. Bất luận nguyên nhân nào cũng có nhân - quả.
Đọc văn khấn gia tiên với lòng thành cao cả, nguyện cầu những điều tốt đẹp cho gia đình, bản thân và có thể là cả xã hội.
3. Cách khấn vái tổ tiên vào ngày rằm, mùng một
Ăn có mời, làm có khiến… Đối với việc cúng lễ cũng vậy. Đồ cúng lễ dù có thịnh soạn, trang trong nếu con cháu chỉ đặt lên bàn thờ, không mời thì tổ tiên ông bà ắt không phối hưởng. Bởi vậy trong buổi cúng, con cháu phải KHẤN. Người Việt vốn trọng nghi lễ, cho nên mỗi dịp cúng vái đều có văn khấn riêng.
Khấn là lời cầu khẩn lâm râm trong miệng khi cúng, tức là lời nói nhỏ liên quan đến các chi tiết về ngày tháng năm, nơi chốn, mục đích buổi cúng lễ, cúng ai, tên những người trong gia đình, lời cầu xin, và lời hứa.
Trước khi khấn, gia trưởng vái ba vái ; sau khi khấn xong, gia trưởng lễ (lạy) 4 lễ và vái thêm 3 vái – ta gọi là 4 lễ rưỡi (xem thêm chi tiết về “vái và Lạy” phần sau).
Trong lời khấn, gia trưởng sẽ nói rõ ngày, tháng, năm và lý do làm lễ (và cả các điều xin, nếu có). Phải mời các cụ kỵ từ ngũ đại trở xuống, cùng với chú bác anh chị em vừa mới khuất.
Trước đây lời khấn thường do “thầy cúng” làm và dùng chữ Nho. Nhưng ngày nay việc dùng chữ Nho cho văn khấn rất hiếm. Dân gian thích dùng chữ Việt hơn, vì chữ Việt dễ viết và đọc, mạch lạc không bị hiểu lầm…
4. Văn khấn gia tiên ngày rằm, mùng 1 hàng tháng
4.1. Văn khấn Thổ Công ngày Rằm, mùng 1
Nam mô A Di Đà Phật ! (3 lạy)
Con lạy chín phương Trời, mười Phương Chư Phật, Chư Phật mười phương.
Con kính lạy Hoàng thiên, Hậu Thổ chư vị Tôn thần.
Con kính lạy ngài Đông Thần Quân
Con kính lạy ngài Bản gia thổ địa Long Mạch
Con kính lạy các ngài Ngũ phương, Ngũ thổ, Phúc đức Tôn thần
Con kính lạy ngài tiền hậu địa chủ tài thần
Con kính lạy các Tôn thần cai quản trong khu vực này.
Tín chủ (chúng) con là:…… Ngụ tại: ………
Hôm nay là ngày … tháng … năm … tín chủ con thành tâm sửa biện hương hoa lễ vật, kim ngân trà quả đốt nén hương thơm dâng lên trước án. Chúng con thành tâm kính mời: Ngài Kim Niên đương cai Thái Tuế chí đức Tôn thần, ngài Bản cảnh Thành hoàng Chư vị Đại Vương, ngài Đông trù Tư mệnh Táo phủ Thần quân, ngài Bản gia Thổ Địa. Long Mạch Tôn thần, các ngài Ngũ Phương, Ngũ Thổ, Phúc đức chính thần, các vị Tôn thần cai quản trong khu vực này. Cúi xin các Ngài nghe thấu lời mời thương xót thương tín chủ giáng lâm trước án, chứng giám lòng thành, thụ hưởng lễ vật, phù trì tín chủ chúng con toàn gia an lạc công việc hanh thông. Người người được bình an, lộc tài tăng tiến, tâm đạo mở mang, sở cầu tất ứng, sở nguyện tòng tâm.
Chúng con lễ bạc tâm thành, trước án kính lễ, cúi xin được phù hộ độ trì.
Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần kèm 3 lạy).
4.2. Bài khấn gia tiên Nôm 1
- Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư phật mười phương.
- Kính lạy ngài Hoàng Thiên Hậu Thổ chư vị Tôn thần.
- Con kính lạy ngài Đông Trù Tư mệnh Táo phủ Thần quân, Ngũ phương Ngũ thổ, Phúc đức chính Thần.
- Con kính lạy các ngài Thần linh cai quản trong xứ này.
- Các cụ Cao Tằng Tổ khảo, Cao Tằng Tổ tỷ
- Thúc bá đệ huynh và các hương linh nội, ngoại.
Hôm nay là ngày ........ tháng ..... năm ..............
Tín chủ con là .................................................. ....
Ngụ tại ........................................................ cùng toàn gia quyến.
Thành tâm sửa biện hương hoa, lễ vật, trà quả và các thứ cúng dâng, bày lên trước án.
Chúng con thành tâm kính mời:
- Các vị Tôn thần cai quản trong khu vực này.
- Hương hồn Gia tiên nội, ngoại
Cúi xin các Ngài thương xót tín chủ
Giáng lâm trước án. Chứng giám lòng thành. Thụ hưởng lễ vật
Phù trì tín chủ chúng con:
Toàn gia an lạc, mọi việc hanh thông
Người người được chữ bình an,
Tám tiết vinh khang thịnh vượng,
Lộc tài tăng tiến, tâm đạo mở mang
Sở cầu tất ứng, sở nguyện tòng tâm.
Giãi tấm lòng thành, cúi xin chứng giám.
4.3. Văn khấn gia tiên mẫu 2
Con tấu lạy chín phương trời mười phương Phật Chư Phật mười phương.
Con tấu lạy Hoàng Thiên Hậu Thổ.
Con tấu lạy Thần Linh Đất nước, Thổ thần bản cảnh, Quan đương niên đương cảnh, Thành Hoàng bản thổ, Táo Quân thần chủ, Chúa đất long mạch, Thần tài, Tiền chủ, Hậu chủ, Táo phủ thần quân, Tả Long hữu hổ tiếp dẫn phúc đức tại gia tại số nhà: ……………………………...................................
Con tấu lạy Chư vị Liệt Tổ Liệt Tông ngũ đại đồng đường dòng họ …………………………………
Con tấu lạy Cao Tằng Tổ Khảo, Cao Tằng Tổ Tỷ, Cô Gi Tỷ Muội, Thúc Bá Đại Huynh, Chầu Bà Tổ Cô, Cô Bé tại gia, Cậu Bé tại gia, các Chân Linh thần tử Hữu danh vô thực, Hữu thực vô danh dòng họ: ……………………………………
Hôm nay là ngày ....................… Tháng ..........................…… Năm………………………
Phu thê hai họ con thành tâm có nén nhang bát nước ………. Dâng kính Phật Thánh, các Quan, Chư vị Tổ Tông chứng minh công đức, chứng tâm nhận lễ, phù hộ độ trì ………………… Xin các ngài phụ hộ cho gia chung chúng con được nấp bóng cửa nhà Ngài,...... phù hộ độ trì cho chúng con được đắc kỳ tài được sai kỳ lộc, phu thê hòa thuận, Gia chung bình an, lộc tài vượng tiến.
( Ai chưa lập gia đình thì thay từ Phu thê bằng Gia chung hay đơn giản là Chúng con )
4.4. Văn khấn gia tiên ngày Rằm tháng 4
- Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương.
- Con kính lạy Hoàng thiên Hậu Thổ chư vị Tôn thần.
- Con kính lạy ngài Bản cảnh Thành Hoàng, ngài Bản xứ Thổ địa, ngài Bản gia Táo quân cùng chư vị Tôn thần.
- Con kính lạy Tổ tiên, Hiển khảo, Hiển tỷ, chư vị Hương linh (nếu bố, mẹ còn sống thì thay bằng Tổ Khảo, Tổ Tỷ)
Tín chủ (chúng) con là:………………………………………………….................
Ngụ tại:……………………………………………………………..........................
Hôm nay là ngày………………………..gặp tiết……………………..(ngày rằm, mồng một), tín chủ con nhờ đất ơn đức trời đất, chư vị Tôn thần, cù lao tiên tổ, thành tâm sắm lễ, quả cau lá trầu, hương, hoa trà quả, thắp nén tâm hương dâng lên trước án.
Chúng con kính mời: Bản cảnh Thành hoang Chư vị Đại Vương, ngài Bản xứ Thần linh Thổ địa, ngài Bản gia Tao quân, Ngũ phương, Long Mạch, Tài thần. Cúi xin các giáng lâm trước án, chứng giám lòng thành thụ hưởng lễ vật.
Chúng con kính mời các cụ Tổ Khảo, Tổ tỷ, chư vị Hương linh gia tiên nội ngoại họ…..........................., cúi xin thương xót con cháu linh thiêng hiện về, chứng giám tâm thành thụ hưởng lễ vật.
Tín chủ con lại kính mời các vị Tiền chủ, Hậu chủ ngụ tại nhà này, đất này đồng lâm án tiền, đồng lai hâm hưởng, phù hộ cho gia chúng con luôn luôn mạnh khỏe, mọi sự bình an, vạn sự tốt lành, làm ăn phát tài, gia đình hòa thuận.
Chúng con lễ bạc tâm thành, trước án kính lễ, cúi xin được phù hộ độ trì.
4.6 Văn khấn gia tiên bằng âm Hán
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đệ …. Thập … niên, tuế thứ…, … nguyệt, … nhật, … tỉnh (Thành phố thuộc Trung ương), … huyện (thị xã), … xã (phường, thị trấn), … thôn (khu phố, ấp).
Trưởng nam (hoặc tự tôn): …. Cung thừa mẫu mệnh (cha chết, mẹ đang còn sống), hiệp dữ chư thúc, dữ dồng / bào đệ, tỷ, muội, nội, ngoại, tử, tôn, hôn, tế đẳng / toàn gia kính bái (xướng những ai đang có mặt trong lúc hành lễ).
Kim nhân: Hiển Khảo (tỷ) hoặc Tổ khảo (tỷ) hoặc Tằng tổ khảo (tỷ) … húy nhật.
Cẩn dĩ: … chi nghi, cung trần bạc tế.
Hiển: … tôn linh vi tiền, cảm kiền cáo vu:
Viết: … (tùy theo từng lễ)
Kính kỵ: … liệt vị chư tiên linh, cập phụ vị, thương vong đẳng tòng tự, đồng lai hâm hưởng.
Kính cáo: Bản gia đông trù tư mệnh Táo phủ thần quân, bản gia tiên thánh, tiên sư, bản viên thổ công, bản đường ngũ tự gia thần, mặc thùy chiếu giám, đồng lai giám cánh, tích chi hanh cát.
4.5. Bài văn khấn mùng 1 ngoài trời
Kính lạy Hoàng Thiên Hậu Thổ chư vị Tôn thần.
Con kính lạy ngài Đông Trù Tư mệnh Táo phủ thần quân.
Con kính lạy các ngài Thần linh, Thổ địa cai quản trong xứ này.
Con kính lạy ngài Bản gia Tiền chủ ngụ trong nhà này.
Tín chủ con là... sinh năm...
Hôm nay là ngày mùng 1 tháng… năm... Âm lịch.
Tín chủ con thành tâm sắm lễ, hương hoa trà quả, đốt nén tâm hương dâng lên trước án, thành tâm kính mời: Đức Hoàng thiên hậu Thổ Chư vị Tôn Thần, ngài Bản cảnh Thành Hoàng, ngài Bản xứ Thổ Địa, ngài Bản gia Táo Quân cùng Chư vị Tôn thần, ngài Bản gia Tiền Chủ.
Cúi xin Chư vị Tôn thần Bản gia Tiền Chủ thương xót tín chủ, giáng lâm trước án, chứng giám lòng thành, thụ hưởng lễ vật, phù trì tín chủ chúng con toàn gia an ninh khang thái, vạn sự tốt lành, gia đạo hưng long thịnh vượng, lộc tài tăng tiến, tâm đạo mở mang, sở cầu tất ứng, sở nguyện tòng tâm.
Chúng con lễ bạc tâm thành, trước án kính lễ, cúi xin được phù hộ độ trì.
5. Văn khấn tổ tiên ngày mùng 1 Tết
Kính lạy: Các cụ Tổ khảo, Tổ tỷ, bá thúc huynh đệ, đường thượng tiên linh, và các hương hồn nội tộc, ngoại tộc.
Hôm nay là ngày mùng một Tết, tháng Giêng, năm …………………..
Chúng con là: ………………………………Tuổi……………
Hiện cư ngụ tại số nhà …….. Đường……………………..Khu phố …………….
Phường ……………………Quận…………………………..Thành phố………………….
Nay theo tuế luật, âm dương vận hành tới tuần Nguyên đán, mồng một đầu xuân, mưa móc thấm nhuần, đón mừng năm mới. Con cháu tưởng niệm ân đức Tổ tiên như trời cao biển rộng, khôn đem tấc cỏ báo đáp ba xuân. Do đó, chúng con cùng toàn thể con cháu trong nhà sửa sang lễ vật, oản quả hương hoa kính dâng trước án.
Con lại kính mời, các cụ tiên linh, Cao tằng Tổ khảo, Cao tằng Tổ tỷ, Bá thúc đệ huynh, Cô di tỷ muội, nội tộc, ngoại tộc, chư vị hương linh, cúi xin giáng phó linh sàng hâm hưởng lễ vật. Tín chủ lại kính mời các vị vong linh tiền chủ, hậu chủ, y thảo thụ mộc ở trong đất này, nhân tiết giao thừa, giáng lâm trước án, chiêm ngưỡng tân xuân, thụ hưởng lễ vật.
Nguyện cho chúng con tân niên khang thái, ngày đêm tốt lành, thời thời được chữ bình an, gia đạo hưng long, thịnh vượng. Giải tấm lòng thành cúi xin chứng giám. Phục duy cẩn cáo!
Văn Khấn Tứ Phủ: Ngắn Gọn Đầy Đủ & Hay Nhất
Các bạn căn đồng số lính có căn hầu đồng con cha con mẹ khi đi lễ đền phủ... không thể không thuộc bài văn khấn Tứ Phủ
Nhưng bài khấn quá dài thì các thanh đồng còn non trẻ sẽ khó lòng mà thuộc được.Bài văn khấn quá ngắn lại chưa đúng ý nguyện mong cầu của các đồng cựu thầy đồng.
Bản đầy đủ dành cho các thầy và Bản Văn khấn ngắn gọn dành cho các con nhang đệ tử.Có hướng dẫn cách khấn sao cho linh nghiệm nhất đối với con nhang đệ tử ở dưới bài viết
Hôm nay là ngày.. Chúng con đến đây có chút hương hoa phẩm quả, lễ mặn (chú ý dâng gì thì kêu đó nghe - không có lễ mặn mà kêu lễ mặn là phải tội đó, nên nhớ không bày lễ mặn ở cúng Phật) xin dâng lên các chư tiên chư thánh để cảm tạ ơn đức của các ngài đã phù hộ độ trì cho chúng con suốt thời gian qua.Vừa qua được sự lưu tâm độ trì của các ngài mà công việc (Nếu đã xin việc gì cụ thể mà thành công thì xin trình bày) của con đã hanh thông vẹn tròn Chúng con xin được cảm tạ và lễ tạ tất cả các Ngài.
Hôm nay, chúng con tới đây với tất cả lòng thành kính xin các ngài phù hộ độ trì cho con các việc sau: ( Nêu cụ thể các việc cần xin, các khó khăn có thể gặp phải và có thể cả hướng định giải quyết ra sao).
Một lần nữa thay mặt gia chung chúng con con xin các ngài giang tay cứu giúp cho chúng con. Chúng con xin đa tạ ...( tên vị thánh bản đền) và toàn thể các chư tiên, chư thánh.
Nam mô a di dà phật (3 lần).
Một số lưu ý về bài khấn trên:
Do các ngôi vị của nhà thánh rất nhiều chúng ta chỉ khấn: Toàn thể chư tiên, chư thánh là đủ hết cả rồi, không sót một ai. Nên các bạn cứ an tâm mà khấn.
Ngôi đền nào cũng có một vị chủ đền nên sau khi khấn các chư tiên, chư thánh rồi thì phải khấn tên của vị thánh chủ đền. Vị thánh chủ đền là vị thánh chủ nhà của ngôi đền, còn các ngôi khác tuy quyền cao hơn cũng chỉ là khách, nên không thể không khấn tên vị thánh chủ đền được. Thử hỏi cõi dương trần mình đến nhà người ta chơi mà không chào chủ nhà, chỉ chào mỗi khách thôi thì chủ nhà sẽ hành xử với chúng ta ra sao? Khấn mà quên vị thánh chủ đền thì coi như các lời xin cầu của chúng ta là vô nghĩa, thậm chí còn nguy hại vì mình vô lễ với vị thánh chủ đền.
Cũng lưu ý khi khấn bên cung Phật thì đoạn "chư Phật, chư Tiên, chư Thánh" thì chỉ cần khấn chư Phật thôi, còn khấn bên cung Thánh thì có thể khấn chư tiên, chư thánh thôi.
Khi bắt đầu khấn thì khấn các ngôi chư Phật, chư Tiên, chư Thánh vì ngôi cao hơn, sau đó mới đến vị thánh chủ nhà. Còn khi ra đi thì phải xin phép chủ nhà rồi mới chào các vị khách mới đúng. Thậm chí, chúng ta khấn vị thánh chủ đền rồi mới đến chư tiên, chư thánh cũng không sao. Bởi vị thánh chủ đền là chủ nhà còn các chư tiên, chư thánh chỉ là khách.
Để khấn khi đến hay khấn chào thì nên khấn ở Ban Công Đồng hoặc ở Ban vị thánh chủ đền là được. Sau đó có thể chỉ đến vái các ban khác nếu không có đủ thời gian. Tất nhiên, nếu có nhiều thời gian chúng ta có thể khấn thêm ở các ban khác.
2. Bài khấn Tứ Phủ đầy đủ nhất (Dành cho các đồng thầy)
Con niệm Nam Mô A Di Đà Phật (3 lần)
- Con lạy chín phương Trời, con lạy mười phương Đất, con lạy mười phương chư Phật, chư Phật mười phương,
- Nam Mô Bản sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
- Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật.
- Nam Mô Đương Lai Hạ Sinh Di Lặc Tôn Phật.
- Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.
Con Lạy Chư Đại Bồ Tát, Chư Hiền Thánh Tăng.Hộ Pháp Chư Thiên, Thiện Thần Bồ Tát.
Con lạy Tam Vị Đức Vua Cha Đức Tam Thập Tam Thiên Thiên Chúa Đế Thích Đề Hoàn Nhân Thánh Đế Ngọc Bệ Hạ
Con Lạy Hiệu Thiên chí tôn Kim Quyết Ngọc Hoàng Huyền Cung Đại Đế Ngọc Điện Hạ.
Con lạy Đức Phật Mẫu Hoàng Thiên
Con Lạy Đức Vua Cha Bát Hải Động Đình Thủy Quốc Long Vương.
-Con lạy Tam Tòa Thánh Mẫu:
Con Lạy Mẫu Đệ Nhất Thượng Thiên
Con Lạy Mẫu Đệ Nhị Thượng Ngàn
Con Lạy Mẫu Đệ Tam Thoải Phủ
Con Lạy Mẫu Đệ Tứ Khâm Sai
Con Lạy Hội Đồng Quan Tứ Trụ Triều Đình
Con Lạy Tam Phủ Công Đồng, Tứ Phủ Vạn Linh hội Đồng Tiên Thánh
Văn khấn Tứ phủ: Ngắn gọn đầy đủ & hay nhất
Các bạn căn đồng số lính có căn hầu đồng con cha con mẹ khi đi lễ đền phủ... không thể không thuộc bài văn khấn Tứ Phủ
Nhưng bài khấn quá dài thì các thanh đồng còn non trẻ sẽ khó lòng mà thuộc được. Bài văn khấn quá ngắn, lại chưa đúng ý nguyện mong cầu của các đồng cựu, thầy đồng.
VĂN KHẤN TỨ PHỦ ĐẦY ĐỦ NHẤT
Bản đầy đủ dành cho các thầy và Bản Văn khấn ngắn gọn dành cho các con nhang đệ tử.Có hướng dẫn cách khấn sao cho linh nghiệm nhất đối với con nhang đệ tử ở dưới bài viết.
1.Bài khấn Tứ Phủ ngắn gọn hay nhất (Dành cho con nhang đệ tử)
Đối với các con nhang, đệ tử đi lễ không thường xuyên thì nên khấn ngắn gọn như sau:
Nam mô a di đà phật ( 3 lần )
Con lạy chín phương trời, con lạy mười phương đất, con lạy chư phật mười phương, mười phương chư phật.
Con lạy toàn thể chư phật, chư tiên, chư thánh.
Con lạy: ...........( tên thánh chủ bản đền. Ví dụ, đến đền Cô Chín ta khấn: Con lạy Cô Chín tối linh)
Đệ tử con tên là:............. tuổi:..........
Ngụ tại:.................................
Hôm nay là ngày...., Chúng con đến đây có chút hương hoa, phẩm quả, lễ mặn (chú ý dâng gì thì kêu đó nghe - không có lễ mặn mà kêu lễ mặn là phải tội đó, nên nhớ không bày lễ mặn ở cúng Phật) xin dâng lên các chư tiên, chư thánh để cảm tạ ơn đức của các ngài đã phù hộ độ trì cho chúng con suốt thời gian qua. Vừa qua, được sự lưu tâm độ trì của các ngài mà công việc (Nếu đã xin việc gì cụ thể mà thành công thì xin trình bày ) của con đã hanh thông vẹn tròn. Chúng con xin được cảm tạ và lễ tạ tất cả các Ngài.
Hôm nay, chúng con tới đây với tất cả lòng thành kính xin các ngài phù hộ độ trì cho con các việc sau: ( Nêu cụ thể các việc cần xin, các khó khăn có thể gặp phải và có thể cả hướng định giải quyết ra sao).
Một lần nữa, thay mặt gia chung chúng con, con xin các ngài giang tay cứu giúp cho chúng con. Chúng con xin đa tạ ...( tên vị thánh bản đền) và toàn thể các chư tiên, chư thánh.
Nam mô a di dà phật (3 lần).
Một số lưu ý về bài khấn trên:
Do các ngôi vị của nhà thánh rất nhiều chúng ta chỉ khấn: Toàn thể chư tiên, chư thánh là đủ hết cả rồi, không sót một ai. Nên các bạn cứ an tâm mà khấn.
Ngôi đền nào cũng có một vị chủ đền nên sau khi khấn các chư tiên, chư thánh rồi thì phải khấn tên của vị thánh chủ đền. Vị thánh chủ đền là vị thánh chủ nhà của ngôi đền, còn các ngôi khác tuy quyền cao hơn cũng chỉ là khách, nên không thể không khấn tên vị thánh chủ đền được. Thử hỏi cõi dương trần mình đến nhà người ta chơi mà không chào chủ nhà, chỉ chào mỗi khách thôi thì chủ nhà sẽ hành xử với chúng ta ra sao? Khấn mà quên vị thánh chủ đền thì coi như các lời xin cầu của chúng ta là vô nghĩa, thậm chí còn nguy hại vì mình vô lễ với vị thánh chủ đền.
Cũng lưu ý khi khấn bên cung Phật thì đoạn "chư Phật, chư Tiên, chư Thánh" thì chỉ cần khấn chư Phật thôi, còn khấn bên cung Thánh thì có thể khấn chư tiên, chư thánh thôi.
Khi bắt đầu khấn thì khấn các ngôi chư Phật, chư Tiên, chư Thánh vì ngôi cao hơn, sau đó mới đến vị thánh chủ nhà. Còn khi ra đi thì phải xin phép chủ nhà rồi mới chào các vị khách mới đúng. Thậm chí, chúng ta khấn vị thánh chủ đền rồi mới đến chư tiên, chư thánh cũng không sao.Bởi vị thánh chủ đền là chủ nhà còn các chư tiên, chư thánh chỉ là khách.
Để khấn khi đến hay khấn chào thì nên khấn ở Ban Công Đồng hoặc ở Ban vị thánh chủ đền là được. Sau đó có thể chỉ đến vái các ban khác nếu không có đủ thời gian.Tất nhiên nếu có nhiều thời gian chúng ta có thể khấn thêm ở các ban khác.
2. Bài khấn Tứ Phủ đầy đủ nhất (Dành cho các đồng thầy)
Con niệm Nam Mô A Di Đà Phật (3 lần)
- Con lạy chín phương Trời, con lạy mười phương Đất, con lạy mười phương chư Phật, chư Phật mười phương,
- Nam Mô Bản sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
- Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật.
- Nam Mô Đương Lai Hạ Sinh Di Lặc Tôn Phật.
- Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.
Con Lạy Chư Đại Bồ Tát Chư Hiền Thánh Tăng.Hộ Pháp Chư Thiên, Thiện Thần Bồ Tát.
Con lạy Tam Vị Đức Vua Cha Đức Tam Thập Tam Thiên Thiên Chúa Đế Thích Đề Hoàn Nhân Thánh Đế Ngọc Bệ Hạ
Con Lạy Hiệu Thiên chí tôn Kim Quyết Ngọc Hoàng Huyền Cung Đại Đế Ngọc Điện Hạ.
Con lạy Đức Phật Mẫu Hoàng Thiên
Con Lạy Đức Vua Cha Bát Hải Động Đình Thủy Quốc Long Vương.
-Con lạy Tam Tòa Thánh Mẫu:
Con Lạy Mẫu Đệ Nhất Thượng Thiên
Con Lạy Mẫu Đệ Nhị Thượng Ngàn
Con Lạy Mẫu Đệ Tam Thoải Phủ
Con Lạy Mẫu Đệ Tứ Khâm Sai
Con Lạy Hội Đồng Quan Tứ Trụ Triều Đình
Con Lạy Tam Phủ Công Đồng, Tứ Phủ Vạn Linh hội Đồng Tiên Thánh
-Con lạy Trần Triều Hiển Thánh Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương.
Con lạy Trần Triều Khải Thánh Vương Phụ, Vương Mẫu, Vương Phi Phu Nhân,
Trần Triều Vương Huynh, Vương Đệ.Vương Tử, Vương Tế, Vương Nữ Vương Tôn
Con Lạy văn võ bá quan quân thần trần triều
Con lạy Tam Tòa chúa bói – Hội đồng Chúa bói Chúa chữa Chúa Mán Chúa Mường
Con Lạy Chúa Đệ Nhất Tây Thiên
Con Lạy Ngũ Phương Bản Cảnh Vũ Quận Bạch Hoa -Năm Phương Chúa Bà
-Con lạy Ngũ Vị Vương Quan, Tôn Quan Đệ Nhất Thượng Thiên, Tôn quan Đệ Nhị Giám Sát, Tôn Quan Đệ Tam Thoải Phủ, Tôn quan Đệ Tứ Khâm Sai, Tôn Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh.
Con lạy Tôn Quan Điều Thất.
-Con cung thỉnh mời Tứ Phủ Chầu Bà
Chầu Đệ Nhất Thượng Thiên
Chầu Đệ Nhị Thượng Ngàn Đông Cuông
Chầu Bát Nàn Đông Nhung Đại Tướng Quân
Con lạy Hội Đồng Chầu Bé-Con Lạy Chầu Bé Thượng Ngàn Quyền Cai Bắc Lệ
-Con cung thỉnh mời Tứ Phủ Thánh Hoàng, thập vị quan Hoàng
Con lạy 36 tòa Sơn Trang -Sơn Trang, Tám Tướng Thập Nhị Tiên Nàng
Con xin kính lạy Cô Nhất Thượng Thiên- Cô Cả đền Dùm
Con lạy Cô đôi Thượng Ngàn
Cô bơ Thoải, con lạy cô tư Ỷ La, Cô năm suối lân, cô Sáu sơn trang, Cô bảy Tân La, cô Tám Đồi Chè, 12 cô Chín, Cô chín thượng Ngàn, Cô chín Sòng sơn, cô Mười mỏ Than, Hội đồng cô bé, Con Lạy cô bé Thượng ngàn, cô bé Thoải .con lạy cô Bé Bản Đền (bản điện), Con lạy Tứ Phủ Thánh Cậu trên Ngàn dưới Thoải,
Con lạy Cậu đệ nhất Hoàng Thiên, Cậu Hoàng Đôi Thượng Ngàn, Cậu Hoàng Ba Thoải, Cậu Hoàng Tư Long Thành, Con Lạy Cậu Bé Hoàng Thiên, Cậu Bé Thượng Ngàn, Cậu Quận Phủ Dầy, Cậu Đồi Ngang Phố Cát. Con lạy cậu bé bản Đền ( Bản Điện ).
-Con Lạy Hội Đồng Quan Ngũ Dinh, Đôi quan Thanh Xà Bạch Xà, Sơn Thần Bản Thổ Ngũ Hổ Thần Tướng
-Con cung thỉnh mời chư vị Chúa Chầu các Quan thủ Đền thủ Điện, Chư vị Thành Hoàng Bản Thổ, Chư vị Thần thổ cư đồng ngự dải đất này.
- Đệ tử con tên là:............. tuổi:..........
Ngụ tại:.................................
Kim niên kim nguyệt cát nhật lương thời. Hôm nay ngày:... Tháng:... Năm:...
( Dâng gì cầu gì khấn nấy hoặc theo bài bên dưới)
Đệ tử con nhất tâm 1 lòng, nhất tòng 1 đạo, nhất tâm trí thiết, nhất dạ chí thành, đêm tưởng ngày mong, tu thiết hương, hoa, đăng, trà, quả, thực (mang miệng về tâu, mang đầu về bái), trên con tấu thượng thiên, dưới con đệ trình long cung thuỷ phủ cùng đồng gia quyến đăng cung phụng cửa đình thần tam tứ phủ ...............(tên đền) linh từ.
Mong trên cha độ dưới mẫu thương đèn trời đuốc biển soi đường dẫn lối phù hộ độ trì cho quốc thái dân an, mưa thuận gió hoà vuốt ve che chở cho gia chung chúng con trong 3 tháng hè, 9 tháng đông, tai qua nạn khỏi - Đầu năm chí giữa nửa năm chí cuối được bình an vô sự cửa nhà khang ninh, cầu danh đắc danh, cầu phúc đắc phúc đắc tài sai lộc...... Dãi tấm lòng thành cúi xin Phật Thánh Chúa Tiên anh linh chứng giám!!!
-Cung thỉnh công đồng Lục Cung Tiên Tổ dòng họ..... nguyên quán Tổ Cô Mãnh Tướng, cậu bé cô bé tại gia, chư vị tiên linh trong dòng họ theo hầu Phật Thánh cửa Đình Thần Tam Tứ Phủ, trên tấu tòa vàng Thượng Thiên, dưới tấu Thủy Cung Địa Phủ, cho con cháu nhất một lòng, tòng một đạo Sở cầu tất ứng, sở nguyện tòng tâm…
Nam mô a di dà phật (3 lần).
Văn khấn công đồng bài 3 dễ nhớ (Dành cho các thanh đồng)
Nhất thiết cung kính, nhất tâm kính lễ thập phương pháp giới thường trụ Tam Bảo (3 lần)
Nam mô Phật, Nam mô Pháp, Nam mô Tăng
Nam Mô Bản Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần)
Nam mô đại từ, đại bi tầm thanh cứu khổ cứu nạn quảng đại linh cảm Quán Thế Âm Bồ Tát.
- Con lạy chín phương trời, mười phương chư phật chư phật mười phương, ngũ phương ngũ phật, thập phương thập phật, hằng hà sa số, đức phật vô lượng, công đức vô biên.
Con xin sám hối con lạy Đức Cao Thiên Thượng Thánh Đại Từ Nhân Giả, Huyền Cung cao thượng đế, Ngọc Hoàng đại thiên tôn.
- Con xin sám hối đại thánh Nam Tào Lục Ty Duyên Thọ tinh quân, con sám hối đại thánh Bắc Đẩu Cửu Hoàng Giải Ách tinh quân, Bắc Cực Thiên Trung, Tam Nguyên, Tam Phẩm, Tam Quan, Cửu Tinh Thiên Chúa, Thập Nhị Bát Tú, dương phủ ngũ nhạc thần vương, địa phủ thập điện linh vương.
- Con xin sám hối đến thái linh phủ, bát hải linh từ, con sám hối vua cha bát hải động đình, con sám hối cửu trùng thánh mẫu bán thiên công chúa thiên tiên thánh mẫu.
- Con sám hối quốc mẫu vua bà, bơ toà thánh mẫu, mẫu đệ nhất thiên tiên Quỳnh Hoa Liễu Hạnh, đức mẫu thượng ngàn, Diệu Nghĩa, Diệu Tín thiền sư, tuần quán đông cuông, đệ nhị đỉnh thượng cao sơn triều mường sơn tinh công chúa Lê Mại Đại Vương, thánh mẫu đệ tam thuỷ cung Xích Lân Long Lữ thuỷ tinh công chúa, Hàn Sơn linh từ .
- Con lạy trần triều hiển thánh nhân vũ Hưng Đạo Đại Vương Quốc Công Tiết Chế Thượng đẳng phúc thần ngọc bệ hạ, trần triều khải thánh vương phụ, vương mẫu, vương phi phu nhân, vương tử, vương nữ, vương tể, vương tôn, tứ vị vương tử, nhị vị vương cô, phạm tướng quân, cô bé cửa suốt, cậu bé cửa đông chư vị tướng tá bộ hạ các quan công đồng Trần Triều uy phong lẫm liệt.
- Con sám hối Cung thỉnh Tam vị Chúa Mường:đệ nhất Tây Thiên,đệ nhị Nguyệt Hồ,đệ tam Lâm Thao
- Chúa Bà Cà Phê ,Tiên Chúa Thác Bờ-Hòa Bình công chúa,Ngũ Phương Bản Cảnh Chúa bà bạch hoa công chúa tối tú tối linh,hội đồng chúa bói,hội đồng chúa chữa,hội đồng chúa Mán,hội đồng chúa Mường,lục cung chúa chầu các bộ sơn trang,sơn lâm công chúa,tam thập lục cung công chúa,lục thập hoa giáp thần nương.
- Con sám hối ngũ vị tôn quan hội đồng quan lớn, quan đệ nhất thượng thiên, quan đệ nhị thượng ngàn, quan đệ tam thoải phủ, quan đệ tứ khâm sai, quan đệ ngũ tuần tranh.
Con lạy tứ phủ chầu bà, Năm tòa quan lớn, 10 dinh các quan. Bát bộ sơn trang thập nhị tiên cô trên ngàn dưới thoải, Thủ điện công chúa tối tú tối linh. Con kính lạy tứ phủ quan hoàng. Tứ phủ thánh cô, tứ phủ thánh cậu, cậu bé bản đền, cô bé bản đền. Ngũ lôi thiên tướng, ngũ hổ đại thần chư vị các quan. Con kính lạy Thanh Xà đại tướng, Bạch Xà đại quan.
- Con kính lạy công đồng các giá, hội đồng các quan, trên ngàn Adưới thoải, 18 ucửa rừng, 12 cửa bể, cửa đình thần tam tứ phủ tối tú anh linh, con lạy Thổ công chúa đất chư vị tôn thần bản sứ.
Hôm nay là ngày...tháng...năm...
Đệ tử con là ... (tuổi) thê ... (tuổi) sinh nam tử ... (tuổi) nữ tử .... v.v… đồng gia quyến đẳng.
Ngụ tại địa chỉ:........................................................
Ngày hôm nay, kim niên kim nguyệt cát nhật lương thời.
Đệ tử con nhất tâm tưởng vạn tâm cầu, tu thiết nhang hoa lễ vật có tờ vàng lá sớ, tờ tấu lá trạng, mang miệng về tâu mang đầu tới bái cửa đình thần tam tứ phủ. Trên Mẫu độ, dưới gia hộ Mẫu thương, vuốt ve che chở phù hộ độ trì cho con 3 tháng hè 9 tháng đông, đầu năm chí giữa nửa năm chí cuối, tứ thời bát tiết phong thuận vũ hòa, tai qua nạn khỏi.
Mẫu cho con sáng hai con mắt, bằng hai bàn chân. Mẫu ban lộc dương, Mẫu tiếp lộc âm, cho lộc mùa xuân, cho tài mùa hạ, cho con tươi như lá, đẹp như hoa, phúc lộc đề đa tiền tài mang tới. Mẫu cho con lộc ăn lộc nói, lộc gói lộc mở, lộc gần lộc xa, hồ hết lại có, hồ vơi lại đầy, điều lành mang đến điều giữ mang đi. Mẫu cứu âm độ dương, cứu đường độ chợ, vuốt ve che chở nắn nở mở mang, cải hung vi cát, cải hạo vi tường thay son đổi số, lảy mực cầm cân Mẫu phê chữ đỏ, Mẫu bỏ chữ đen, cho con được trăm sự tốt vạn sự lành, trên quý dưới yêu, trên vì dưới nể. Mẫu cho con gặp thầy gặp bạn, gặp vạn sự lành, Mẫu ban danh ban diện ban quyền cho con có lương có thực có ngân có xuyến, cầu tài đắc tài, cầu lộc đắc lộc, cầu bình an đắc bình an, trồng cây đắp phúc cho con được nở cành xanh lá, phúc lộc đề đa, ngũ phúc lâm môn, thân tâm an lạc, quả đạo viên thành, đầy thuyền mãn quả, gia đạo hưng thịnh. Mẫu cho trên thuận dười hòa trên bảo dưới nghe, trên đe dưới sợ, Mẫu cho nước chảy một dòng thuyền trôi một bến, bách bệnh tiêu tán vạn bệnh tiêu trừ, Năm xung Mẫu giải xung, tháng hạn Mẫu giải hạn cho gia trung con được trong ấm ngoài êm, nhân khang vật thịnh, duyên sinh thọ trường.
Đệ tử con người trần mắt thịt, việc âm chưa tường việc dương chưa tỏ, tuổi con còn trẻ, tóc con còn xanh, ăn chưa sạch bạch chưa thông, không biết kêu sao cho thấu tấu sao cho tường. Con biết tới đâu con tâu tới đó, 3 điều không sảy, 7 điều không sai, trăm tội Mẫu xá, vạn tội Mẫu thương. Mẫu xá u xá mê, xá lỗi xá lầm, soi đường chỉ lối cho con biết đường mà lội, biết lối mà lần.
Hôm nay đệ tử con lễ bạc tâm thành, con giàu một bó con khó một nén, giàu con làm kép hẹp con làm đơn, thiếu Mẫu cho làm đủ, vơi Mẫu cho làm đầy. Mẫu chấp kỳ lễ vật, chấp lễ chấp bái, chấp lời kêu tiếng tấu của con, bay như phượng lượn như hoa tới cửa Mẫu ngồi, tới ngai Mẫu ngự, cho con sở nguyện như ý sở cầu tòng tâm.
Dãi tấm lòng thành cúi xin Phật Thánh Chúa Tiên anh linh chứng giám!!!
- Con sám hối Cung thỉnh công đồng Tổ tiên nội ngoại, Tổ Cô Mãnh Tướng,cậu bé cô bé tại gia đẳng đẳng chư vị chân linh sống vi anh tử vi linh về hầu cửa Phật cửa Thánh trên tấu thượng thiên, dưới tấu tòa vàng thoải phủ, kêu thay lạy đỡ cho con cháu cháu chắt của Tổ được kêu thấu, tấu nổi, đắc lễ đắc bái đắc yêu đắc cầu.Đức Tổ cao minh tận thương tận độ!!!
Các thanh đồng lưu ý khi khấn Tứ phủ để có ứng nghiệm được tốt nhất
Cần quỳ lạy tốt hơn nếu có điều kiện về vị trí, chỉ đứng khi không có chỗ để ngồi. Nhà Thánh không chấp nếu ta không có chỗ quỳ lạy, nhưng sẽ chấp ta nếu có chỗ mà không quỳ. Quỳ là sự thể hiện sự tôn kính mà.
Khi khấn cần chắp tay cung kính, dồn toàn bộ tâm trí vào câu khấn,. Có thể mở mắt, nhưng phải để hướng mắt vào các tượng thánh. Có thể nhắm mắt để tiện cho dồn tâm trí vào câu khấn thì trong tâm vẫn phải hướng thẳng vào cung thờ.
Không quá nặng nề về câu chữ để sao cho lời khấn được mạch lạc, để có thể khấn bằng cả cái tâm của mình. Đây là phần quan trọng nhất trong khi khấn. Có làm được như vậy thì cây cầu tâm linh giữa người khấn với cõi tâm linh mới được kết nối. Khi đó lời khấn của mình mới được chứng. Nếu trong khi khấn mà không tâm niệm được điều này thì có khấn hay đến đâu cũng khó được chứng giám. Tuyệt đối không được mang bản in sẵn ra mà đọc. Nếu ta đọc thì cây cầu âm dương không bao giờ được kết nối.
Nên dãi bày chi tiết cụ thể các việc mình cần xin thì càng tốt. Có như vậy, cõi âm mới biết mình vướng cái gì, mắc ở đâu, chỗ nào ngăn trở mình thì cõi âm mới có cách giải quyết cho chúng ta được. Không nên khấn chung chung không cụ thể như: Mua một bán mười, tài lắm, nhiều lộc, gặp may gặp mắn.....
Đi lễ không quá cầu kỳ về đồ lễ vì cõi âm thường: Chứng tâm không chứng lễ.Nếu có lễ thì nên đơn sơ Chúng ta nên dành bớt phẫn lễ để cung tiến, hay giọt dầu. Việc đó tốt hơn vì góp công của xây dựng nhà đền sẽ được nhà ngài chứng tâm nhiều hơn. Cha mẹ nào chả thương con nghèo. Vì thế, không nên đua đòi sắm lễ, đặc biệt là mã cho tốn kém mà không giúp gì cho hưng thịnh đền nhà ngài. Nhà thánh hàng năm nhận hàng vạn mã, vàng thử hỏi có dùng làm chi ở cõi đó. Lễ mã chẳng qua là thể hiện lòng tôn kính mà thôi.
Hãy tự mình khấn thì tốt hơn vì các thầy chỉ thay mình khấn hộ nên chỉ khấn được chung chung hoặc chỉ là tên sự việc chứ không thể tả được các khúc mắc trong sụ việc như chính bản thân chúng ta.
Vì vậy khi thầy khấn xong ta nên tự khấn một mình sau, nếu không thì có thể khấn thầm ngay khi các thầy khấn chung.Lưu ý chỉ khấn nhẩm thầm để tránh ảnh hưởng đến người xung quanh. Nếu ta làm ảnh hưởng đến người xung quanh thì chính chúng ta không tôn trọng chính mình thì há chi nhà thánh còn muốn nghe chi lời trình bày của mình nữa.
Một điểm lưu ý thêm là bà con hay có cái tật đi với thầy khi thầy lễ cho người khác thì mình không thèm để ý. Tốt nhất là phải lắng tâm để nghe và cùng lạy tạ cho người ta.Mình không tiếp phúc cho người thì há chi người tiếp phúc cho ta. Mà với nhà Thánh ai chả là con nhà Thánh không thích những kẻ chỉ biết cho chính mình mà quên đi đồng loại.
Trong đền có nhiều cung, nếu chúng ta đến từng cung mà khấn đầy đủ mạch lạc là điều bất khả thi bởi ngay chính chúng ta cũng sẽ mất kiên nhẫn để hướng tâm trí vào lời khấn. Vì vậy chúng ta chỉ nên chọn một vị trí khấn đầy đủ tốt nhất là tại Ban Công Đồng nếu không chúng ta vào chính cung của vị thánh chủ đền nếu không còn chỗ thì chúng ta ra bên ngoài cửa đền khấn vọng vào còn hơn phải đứng chen chúc xô đẩy khiến chúng ta không thể nhất tâm trong suốt thời gian khấn.
Như bạn đã biết khi khi tâm trí bị đứt mạch thì sợi dây âm dương tiếp nối của chúng ta với cõi âm sẽ bị gián đoạn.Tất nhiên những điều ta khấn sẽ trở thành vô giá trị. Sau đó chúng ta sẽ đến các cung khác vái lạy và xin cảm tạ là đủ. Lý do đơn giản là khi ta khấn vừa rồi là đã khấn các vị đó rồi.Tất nhiên nếu thời gian cho phép chúng ta có thể tóm tắt các điều cần lễ tạ và các điều cần xin
Nên nhớ chỉ tóm tắt thôi nghe.
Gọi hồn và các chiêu trò.
Nói về việc gọi hồn mình xin có ý kiến như này.
Gọi hồn về thường là 2 cách:
1. Là xuống tìm linh hồn đó mời họ về.
2. Là các thầy dùng lệnh để lôi về hoặc nhờ vong khác lôi về.
Cái cách thứ nhất thì chẳng có mấy ai làm được. Người làm được cách đó cả nước này may ra có 2 người.
Còn cái cách thứ 2 thì đa số các thầy, cô đều làm, đây chính là cái chết của mấy thầy, cô.
Như việc 1 người đang đứng bỗng túm áo lôi đi thì họ đánh cho là phải. Các thầy cô cứ thấy gọi về được tưởng là không sao.
Xin thưa là lúc đó phúc thầy cô còn họ chưa làm gì được. Họ chỉ biết mài phúc dần, phúc mỏng thì họ ập vào đánh cho.
Thế nên mới thầy cô sau này với gia đình sập từ trên xuống dưới là vì đó.
Tiếp nữa là gọi về nhập vào người nhà. Mình xin thưa là gia tiên không bao giờ muốn nhập vào con cháu.
Âm và dương không thể cùng chung. Nhập vào sẽ tổn hại cả 2 bên.
Người dương sẽ mất đi dương khí của người đó mà cụ thể hơn là giảm thọ.
Những người bị nhập biết rõ nhất, họ rất mệt mỏi sau mỗi lần bị.
Người âm sẽ bị tổn hại cái tu hạnh của người ta. Khi mà người ta có thể tu vài ba năm người ta có thể siêu thì nhập vào rồi sẽ bị giảm đi lại phải một thời gian dài nữa.
Có cha mẹ nào muốn tổn hại con cháu đâu nên với chân linh gia tiên thì họ biết điều đó nên họ không nhập đâu.
Gia tiên dòng họ có về chỉ ảnh bóng thôi. Tức là với người bị ảnh bóng họ vẫn nhận biết được nhưng có những cái cơ thể họ không điều khiển được.
Lúc mà người thân mất bị đau ở đâu hay như nào đôi khi người con cháu đó thấy đau đúng ở vị trí đó và cảm nhận như thế.
Người con cháu đó nói ra những điều mà tự họ không muốn nói. Lúc ấy là gia tiên chỉ ngồi cạnh bên thôi.
Việc mà gia tiên nhập vào chỉ trừ khi có thầy đắc đạo ngồi trợ khí cho họ không để tổn hại hai bên.
Mà những thầy như vậy lại không bao giờ đi làm gọi hồn vì nó trái quy luật âm dương.
Trường hợp nữa là gia tiên thấy con cháu có nạn muốn cứu mà không có cơ duyên gặp người sang tai cho con cháu
Thì họ về nhập thẳng vào con cháu khi ở trong nhà hoặc ở ngoài mộ chứ chẳng cần đi thầy cô nào đâu và họ vào rất nhanh rồi ra luôn.
Những người nhà bị nhập thế là cái phúc họ đang rất kém rồi nên mới dễ bị nhập như vậy.
Thế đi gọi hồn gia tiên không nhập thì ai nhập???
Xin thưa là toàn vong với quỷ ngoài họ vào thôi. Bản chất của vong là họ cố chấp mới không đi đầu thai họ còn lưu luyến việc họ muốn làm.
Nên họ rất muốn có thân xác để họ làm những việc còn khúc mắc lúc mất.
Vong bình thường họ vào họ chỉ chiếm được xác nhưng không nói được. Quỷ vào thì nói được còn đi lại được.
Sao thấy nhập mà nói đúng lắm cái gì trong nhà cũng biết???
Xin thưa có những vong người ta mất cả mấy chục năm cả trăm năm họ vẫn không siêu.
Nhà bạn có cái gì họ biết rõ hết kể cả tên gia đình đọc từng người.
Chưa kể bạn dám khẳng định xung quanh nhà bạn không có vong nào. Hỏi một cái là ra hết.
Nhập vào mấy ông thầy bà cô???
Xin thưa thế này mấy ông thầy bà cô một là không biết cho vong vào nói.
Hai là họ biết tác hại họ không cho vong vào đâu. Toàn để vong khác đứng ngoài nói cho biết rồi truyền lại.
Còn lắc lư thì ngày nào ngồi cũng lắc dẻo ngay ấy mà.
Việc gọi hồn có nên hay không???
Mình khuyên thật sự là không nên.
Bây giờ một người đã mất rồi đang cố gắng không chấp vào điều gì nữa.
Tự dưng con cháu gọi về kêu con biếu thứ này thứ nọ làm cho người ta bỗng dưng nhớ lại cái chấp niệm lại cao lên làm sao mà siêu thoát được.
Khác gì đang đi học có người dúi tiền kêu đi chơi game.
Cái chúng ta cần là tích công đức là hồi hướng cho gia tiên và thắp nén hương tưởng nhớ họ.
Công đức hồi hướng như là hành trang cho gia tiên trên con đường tu tập.
Còn gia tiên luôn nhớ thương con cháu đôi khi họ lộn lại chính là những con vật trong nhà mà mọi người đang nuôi.
Đôi khi vì miếng cơm manh áo, tiền đóng học phí của mình hay một món đồ chơi cho mình mà ông bà, bố mẹ phải tạo nghiệp để bị đày xuống thế.
Con cháu hãy vì thế mà năng làm việc thiện nguyện để trả ơn gia tiên nhà mình.
Chứ đừng u mê gọi hồn làm gì cả.
Thứ nhất căn ai ghế ai bóng ai và sát ai
Căn là gì là gốc là rễ con người ai sinh ra đều mang hàng căn hàng mệnh và có một vị cầm mệnh
Ghế là gì ghế là nhưng người được nhà thánh chấm chọn ví dụ ông bảy chấm đồng thì gọi là ghế ông bảy hoặc một vị nào đó trong tứ phủ chấm chọn để giao phó công việc
Bóng là gì bóng là trường hợp điển hình nhất như kiểu bóng cô chín bóng cô bơ ông bay ông 10 hay các hàng quan lớn đều có tính cách. Ngay thẳng hay bóng cậu hay hờn hay dỗi đó là bóng
Còn đã là con nhà thánh phải biết rằng kinh ghế nhà ngài có rất nhiều bóng thánh ngự và nhiều căn các vị có nhưng trường hợp thầy không soi được căn được quả dẫn đến đi sai đường
Trường hợp phụ khiến các bạn bị cơ là sổ phó úy là sổ sách của tân đồng ví dụ
Con nhà thoải nhưng thầy đưa về thượng ngàn hoặc thiên phủ hoặc con nhà thượng ngàn nhưng đưa về thoải phủ sẽ bị loạn căn loạn bóng
Trường hợp 2 là cơ đồng có những đồng nhân ra đồng song là bị cơ luôn có 2 trường hợp
Thứ nhất là ra đồng trả nghiệp những trường hợp đó là do oan gia trái chủ tìm đến đòi nợ hoặc tiền kiếp hoặc gia tiên tiền tổ tân đồng nợ dẫn đến cơ hành sau mở phủ cách giải quyết
Không được loạn tâm chịu khó tu tập để trat nghiệp cho bản thân và gia tiên tiền tổ sau thời hạn nhất định sẽ hết
Thứ 2 trường hợp thánh cơ số này là hy hữu
Mục đích là để cho các lính ghế nếm trải khổ đau mất mát trắng tay rồi mới cho lại có những đồng vì nặng nghiệp nặng duyên nên khổ nhiều năm
cơ trước khi ra đồng 2 phần
1 là oan gia trái trái chủ nghiệp duyên tìm để ép đồng nhân trả nợ và cơ đày họ
Phương pháp giải quyết là tu tập ra đồng để mượn cửa nhà thánh để tu tập trả nghiệp cho oan gia trái chủ và tu tập cho bản thân mình
Phần 2 là ta ma đeo bám và cơ hành của nhà thánh
có những lính ghế sát bóng âm tà ma sẽ đi theo và đeo bám để hãm hại ví dụ ốp nhập sưng ông này bà nọ ông nọ bà kia các quan các hoàng các mẫu rồi lừa đồng nhân phụ vụ để cho các lộc các phép cấp thấp có trường hợp tà ma dẫn đến thầy chưa đủ đạo chưa đủ tâm đủ đức để giúp khiến cho các bạn loạn đồng loạn bóng và mất niềm tin vào các thánh
Thánh cơ : có những lính những ghế được giao trọng trách đặc biệt nhưng các ngài khảo tâm khảo tính khảo lính khảo đồng
Cho trắng tay điên dở hành kinh kế điều kiện gia đình tan nát rồi tất cả mọi thứ quay ngược hiện tại
Mất niềm tin vào cuộc sống và đồng thầy nhưng khi họ ngộ đạo ra thì họ sẽ hiểu sâu hơn đạo tu tập nhận ra sẽ được quyền cha phép mẫu để cứu khổ độ mê đúng cách
Cách giải quyết
Chịu khó tu tập lấy tâm làm gốc lấy đạo làm đầu năng làm việc thiện bố thí công đức phóng sinh và bạn phải hiểu biết và nhận biết đâu là đúng đâu là sai
Thứ 2 có phải cứ mở phủ là có tiền có của mở phủ là có lộc soi lộc bói hay mở phủ ra là làm thầy thiên hạ
thứ nhất trình đồng mở phủ để làm gì
Trình đồng mở phủ là hình thức bước vào tiến trình cửa hội đồng đình thần tam tứ phủ là bước vào đạo học đạo
Để tu tập và thoát ly khổ ai tham sân si dục vọng chứ k phải là để có tiền có của rồi làm ông nọ bà kia đồng cô đồng thầy xin lỗi các bạn không có đâu đừng mơ tưởng hão huyền
Thứ 2 trình đồng để có lộc soi lộc bói
Những người có lộc soi lộc bói đa số là hội đồng chứ tiên chư thánh cắt cử và có những trường hợp được lộc
Gia tiên tiền tổ đi theo hầu cửa thánh chứ không có nghi thức nào mở lộc bói cả chỉ có nghi thức ngả quạt bói dành cho những đồng nhân đã biết bói của phép sơn trang
Trình để có tiền có của làm ông nọ bà kia rồi bị cơ hành
Đây là trường hợp rất nhiều người bị không trình không sao trình là nhà cửa tan nát tiền bạc tiêu tan
nguyên nhân
Do các bạn nghe lời thầy và không hiểu về đạo khi trình ra các oan gia trái chủ tìm về nghiệp nợ
Tìm bạn để bắt bạn cơ hành trả nợ có người trình ra thì ăn lên làm ra có người thì càng làm lễ càng nợ
Càng trình càng khổ rồi đổ lỗi do thầy do ông thánh trách ai trách các bạn quá ảo tưởng tham vọng
Vấn đề thứ 2 liệu có 3 năm thử lính 9 năm thử đồng 12 năm cấp sắc làm thầy có hay không
Theo nhà em được biết là không có cái luật nào là 3 năm thử lính chín năm thử đồng
Đã là con của ngài thì cơ hành thử tâm thử tính thử lính các ngài sẽ thử đến lúc chết và do
Các lính các ghế tu tập có tốt hay không để bề trên cấp sắc âm làm việc và lệnh ấn trao tay có những trường hợp
Trình đồng song trong 1 năm họ đã làm thầy đi trình cho bách gia là đúng chứ kO phải sai họ làm đúng lề đúng lối đúng phép của cha mẹ
còn nhiều lắm nhưng em viết đến đây thôi nguồn em tự suy ra và gặp ở thực tế
‼️Phân Biệt Vong Tà Và Căn Số
Thời điểm Bây giờ vong tà theo hay có căn cũng không phân biệt được nên tôi viết vài câu
Thường những người trẻ tuổi mới có hiện tượng khác lạ như sau là nghĩ ngay đến căn và vong theo .
hay có hai chiều hướng người có căn cho mình có vong theo và có vong theo thì ngược lại cho mình có căn ....
Còn những người nhiều tuổi thì họ đủ chín chắn để nhận định .
Tôi viết vài phần phân biệt đệ mọi người tự cân nhắc
Tuy rằng có căn và vong tà theo nhiều khi có biểu hiện tương đồng nhưng cũng có những điểm nhận ra được .
Xem mình có căn với Thánh hay có vong tà bám theo tuy không đủ 100% nhưng cũng hạn chế phần nào
+ tự dưng thay đổi tâm tính nhanh chóng hay cáu bẩn vô cớ và không thân thiện.
- người có căn thay đổi tâm tính nhưng luôn thân thiện.
+ nếu vong tiền duyên thì Tình duyên trắc trở, yêu người nào cũng không thành hoặc không ai thèm để ý đến mình
Hoặc đang thích đối phương quay 180° luôn ... Nếu có tiến đến hôn nhân cũng tan vỡ không hiểu vì sao…
- Tự mình tự cảm thấy không muốn yêu hay lúc thì yêu tha thiết nhưng lúc tự dưng chán ghét và hay mơ ước tình yêu trong chuyện cổ tích trên mây trên trời ....
+ Tính tình đột nhiên nóng nảy, có nhiều sự thay đổi lạ lùng theo khuynh hướng xấu không phải do áp lực đè nén gia đình, công việc… và thường không nhận lỗi
- Những người có căn thường hành xử quái lạ nhưng có phần hành vi giống với người có đồng bóng và luôn biết lỗi khi gây ra .
+ Lơ ngơ, thơ thẩn, lần thần như một người hoàn toàn khác không làm chủ được suy nghĩ (không mắc tình hình bệnh lý hoặc hồ sơ liên quan đến tâm thần ).
- Người có căn ngoài lơ ngơ thơ thẩn ra hay biểu lộ những hành vi của đạo như ca múa không kiểm soát, hành động vô thức như lên đồng, hành động và lời nói vô thức khác lạ có phần tâm linh ....
+ Thường xuyên xuất hiện những giấc mơ gặp gỡ “người nào đó” lặp lại nhiều lần nhưng chưa hề quen biết.... Thậm chí sinh hoạt với cả người âm .... Bóng đè....
- Những người có căn thường mơ thấy vong nhưng cũng hay mơ nhiêu thấy Phật Thánh hơn. Thậm chí đi âm được học pháp .... Bay bổng ....kakaka.
+ Thỉnh thoảng nghe những lời thì thầm, những lời nói mơ hồ bên tai như muốn xúi giục một điều gì đó.
- Nhiều người có căn hoặc có năng lực còn giao tiếp nghe hay nhìn thấy hoặc cảm nhận được vong âm , ...
Nhưng cũng hay được ứng báo nhìn thấy Pháp tượng dung nhan Phật Thánh
+ Người có vong tà theo xúc cảm sợ hãi, lạnh lẽo khi nghe thấy kinh kệ hoặc đứng trước di ảnh của Phật, Thánh , đặc biệt tượng hộ Pháp tại đền chùa …
- Những người có căn thì cảm thấy gần gũi và chỉ muốn đến đền chùa.. hoặc nghe hát cúng lễ hay kinh kệ " cảm giác đền chùa như ở nhàhoặc mơ hoặc được báo thấy như vậy ấn quyết sắc lệnh chữ thiên sắc lệnh hội nguyên hoặc làm việc Thánh ...mơ hạ ban quan lớn khi sát âm .
+ Ngủ li bì không muốn làm gì, cảm thấy yếu ớt cảm nhận thấy trong người mệt mỏi không có sức sống nhưng khám bệnh không tìm ra nguyên nhân.
- Những người có căn đồng hay oan gia cũng hay bị cơ như vậy .
Nhưng khi đi lễ thường sẽ giảm triệu chứng
+Thường xuyên bị đau nhức nhức một vị trí nào đó trên cơ thể vào buổi tối hoặc đêm . nhưng không phải do tình hình bệnh lý bệnh tật gây nên.
- người có căn bị hành âm hay bị gia đánh âm cũng có triệu chứng đau... thì thường do chống đối hoặc ăn bậy bạ , mà ra như thịt chó ..... Hoặc làm những việc bẩn thỉu bậy bạ .... Hoặc trong lúc này thường thích ăn chay....
+Trong người thỉnh thoảng cáu bẳn vô cớ giận dỗi vô cớ , hoặc thích đập phá , làm một việc gì đó vô trong thức
Trong người đột nhiên cảm nhận thấy buồn chán không rõ nguyên nhân, cảm nhận thấy muốn ƫự ƫử kết liễu cuộc đời.
- Người có căn thì thường không bao giờ nghĩ đến tự tử và thường giỏi chịu đựng .
+ Người có vong theo thường làm việc không khéo léo và hay bị tác động hỏng việc
- người có căn thì làm việc rất khéo léo , và bền bỉ .
Nhưng sự không thành công hay đổ vỡ thì cả hai .
+ người có vong bám hay làm những việc oan trái và hay bị mọi người xa lánh hoặc lé tránh .
- Nhưng người có căn Đặc biệt người có căn hay bị đổ oan . và đặc biệt những người căn sâu hay bị cô lập và bị mọi người cho là lập dị .
+ người có vong theo hay nhớ thù hằn
- nhưng có căn tính hay quên , không để bụng và dễ tha thứ thì người có căn là số một .
+ vong theo thường không được may mắn đột xuất và không linh cảm được những tình huống tương lai .
- có căn thường hay có linh cảm được việc sắp tới và thường may mắn đột xuất ( có nhà Thánh phù trợ )
+ người có vong bám vào đền hay bị trói cứng người
- người có căn cũng vậy nhưng xong khi được giải ra người có căn thường nhẹ nhàng và khỏe hơn .
Có rất nhiều bạn có căn và cũng có vong theo , tôi khuyên các bạn hãy tìm người sủ lý giúp vong tà trước khi quyết định căn số .
Cũng chúc mừng các bạn có trên 80% cả dấu + lẫn - người đó quá gan lỳ không chịu tín Thánh mà quy hàng .
Mấy lời cho các bạn tự phân biệt tuy không đầy đủ nhưng hy vọng giúp ích phần nào cho tình trạng người người ra đồng ai cũng có căn hiện nay .
http://xemboimienphi.vn/
https://www.facebook.com/BaoVeDaoMauVietNam0966662332
https://www.facebook.com/XEMBOIMIENPHIONLINE0966662332/
https://www.facebook.com/groups/xemboimienphivn0966662332/