XEM BÓI MIỄN PHÍ 0966662332

Mail: Xemboionlinemienphi.vn@gmail.com

Mail : Xemboimienphi.vn0966662332@gmail.com


Điện Thoại: 0966 662 332

Trang chủ»ĐẠO MẪU VIỆT NAM»RẰM THÁNG 6 TIỆC THOẢI PHỦ

RẰM THÁNG 6 TIỆC THOẢI PHỦ

RẰM THÁNG 6 TIỆC THOẢI PHỦ
 
 
CÁC NGÀY TIỆC THÁNG 6
 
 
+ Ngày 01/6: Tiệc Trần Triều Vương Phụ An Sinh (Vương Phi Truy Phong Thiện Đạo Quốc Mẫu)
+ Ngày 10/6: Tiệc Mẫu Đệ Tam ( Mẫu Thoải - Đền Mẫu Hàn Sơn)
+ Ngày 12/6: Tiệc Mẫu Thác Đền Hàn và
+ Ngày 12/6: Tiệc Cô Bơ Bông ( Hay tiệc Cô Ba Thoải cung - đền Ba Bông-Thác Hàn):
+ Ngày 16/6: Tiệc Chúa Năm Phương
Đền chính của Chúa được thờ tại đền Cấm và đền Cây Đa 13 gốc tại đất Hải Phòng:
+ Ngày 24/6: Tiệc Quan Lớn Đệ Tam (Thuỷ Quốc Bơ Phủ Vương Quan Lảnh Giang Xích Đằng
+ Ngày 24/6: Tiệc Cô Bé Minh Lương
+ Ngày 26/6: Tiệc Quan Hoàng Bơ ( Quan Hoàng Ba)
+ Ngày 26/6: Tiệc Cô Tám Đồi Chè;
------------
Thế giới lâm vào đại dịch
Tiếng gào than khóc nhiều hơn tiếng cười
Khắp nơi dịch bệnh tung hoành
Chúng con đã chịu muôn vàn đau thương
Cúi xin Bồ Tát Quan Âm
Cứu cho dân chúng thoát vòng trầm luân
Mong cho dịch bệnh tiêu tan
Mong cho thế giới nhà nhà ấm no
Việt Nam ta hãy quyết tâm
Nhân dân chung sức vượt qua kiếp nạn
Đồng lòng một sức một tâm
Việt Nam ta phải quyết tâm thắng lợi
Long thần hộ pháp tứ phương
Lắng nghe thỉnh cầu mau mau trở về
Hộ trì đất nước lâm nguy
Cầu cho dân chúng thoát vòng trầm luân
Chư Phật Bồ Tát chứng minh
Nếu cơn dịch này đi qua nhẹ nhàng
Chúng con sẽ gắng nguyện lòng
Đắp xây công đức vun bồi thiện tâm
 
NAM MÔ ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
 
 
+ Ngày 16/6: Tiệc Chúa Năm Phương
 
Đền chính của Chúa được thờ tại đền Cấm và đền Cây Đa 13 gốc tại đất Hải Phòng:
 
Cách Khấn cầu: TÂM THÀNH CẢM ỨNG một số chi tiết :
ví dụ các bạn Lạy 9 lạy ( cần thiết thể hiện thành tâm nữa thì lạy 20-50 lạy) - nếu có điều kiện thì quỳ Khấn đông quá thì quán tưởng mình lạy rồi khấn:
con xin kính lễ :
- Chư Phật, chư Thánh, chư Thiên, chư Thần, chư vị thiêng liêng khắp tất cả
- Chư vị bản cảnh thành hoàng, bản xứ thổ địa , chư vị hộ pháp nơi đền
( ở các đền thờ chúa đều kêu thêm : Ngài Bản cảnh Hải Phòng riêng đền cây đa 13 gốc kêu thêm ông Thổ Vượng
(Thành hoàng của làng được thờ trước khi chúa về ngự))
Con xin kính lễ Chúa Bà Năm Phương tố linh tố hảo nhị vị công chúa và các chư vị hầu cận
Xin phép cho gia tiên nội ngoại tứ thân phụ mẫu được vào Đền lễ Phật lễ Thánh (Nhiều nơi không mời gia tiên không vào được hoặc gia tiên trách mời để thể hiện tôn kính gia tiên đi kêu cầu tấu đối cho mình)
Khấn xin Chúa Bà độ cho mình những việc gì đó:
Nên :
- Sám hối lỗi lầm bản thân sám hối Phật thánh oan gia trái chủ
- Hứa tu sửa - Làm việc Thiện báo đáp Bề trên và gia tiên
thường sẽ hiệu quả hơn khi kêu cầu
- Chia sẻ Oai linh Chúa Bà cho nhiều người biết đến cửa Chúa đến lễ bái thể hiện thành tâm biết đến tin vào Tâm linh điều đó giúp cho cả Âm dương nhà họ được lợi lạc đó là công đức rất lớn.
Cách khẩn cầu đơn giản này để các bạn tham khảo. Còn nếu có thày tâm linh giỏi đi kêu tấu hộ thì tùy duyên từng việc sẽ có lễ, tấu chi tiết khác.
ad xin nhấn mạnh - với Bề trên quan trọng nhất là Tâm chí thành chí thiết tin tưởng bề trên xin việc thiện có nguyện làm thiện giúp người.1 số cô thủ nhang trông đền không phải là thày tâm linh chỉ kêu nôm từ tâm mà được những việc khó khăn lớn cho bách gia
và gia đình họ cũng rất thành đạt. Điều đó chứng tỏ Chúa Bà Năm Phương oai linh tố hảo chỉ cần bạn khởi tâm đến là Chúa đã biết rồi. ( đỡ rườm rà, tốn kém không cần thiết và tránh mê tín - phải mã lễ nhiều, lễ to dễ kêu - và cũng không phải việc gì mình kêu cầu cũng được vì Phúc Nghiệp của mình chưa đủ nhé)
C. Tiểu sử Chúa Bà Năm Phương:
-Ngày 16/6:Tiệc Chúa Bà Năm Phương (Bản Cảnh Chúa Bà-Bạch Hoa công chúa) đền chính của Chúa được thờ tại đền Cấm và đền Cây Đa 13 gốc tại đất Hải Phòng:
" 5 phương 5 miếu rõ ràng
Ngũ Phương Bản Cảnh quyền hành tối linh ".
Chúa Bà Năm Phương
Tiểu sư chúa bà Vũ Quận Quyến Hoa
(Ngày 16 tháng 6 Âm lịch)
Chúa bà Vũ Quận Quyến Hoa, Quyến Hoa công chúa (không rõ ngày sinh).
Ngày mất: 16 tháng 6 Âm lịch, vào khoảng năm 939 - 944.
Chúa bà là nữ tướng tài giỏi của thời tiên Ngô Vương Thiên Tử. Được đức Ngô Vương tin cậy trao quyền cho quận chúa cai quản toàn bộ kho quân lương, quân nhu tại bản doanh (trang Gia Viên) thuộc làng Cấm, nay là phường Gia Viên, phố Cấm.
Hàng vạn binh mã thủy bộ, quân sỹ, thuyền, ngựa, voi …. do bàn tay Chúa Bà lo toan đầy đủ. Khẩu hiệu của bà là: “Thực túc binh cường”, ăn no đánh thắng.
Với sự chỉ huy tài ba của đức Ngô Vương Thiên Tử, cùng sự chuẩn bị chu đáo về tương thảo, với lòng quyết tâm chiến đấu cao, quan sỹ thời đó đã làm nên chiến thắng Bạch Đằng Giang lịch sử, dẹp tan quân Nam Hán, phò vua giúp nước, xây dựng nền độc lập tự chủ cho nước nhà.
Do công lao to lớn, Chúa Bà được nhà vua ban sắc phong: “Hộ quốc trang huy - Thượng đẳng tôn thần”. Nhân dân khắp nơi lập đền thờ vua Ngô Vương và thờ Chúa Bà ở Quận Ngô Quyền có Chùa Linh Quang, đình Gia Viên, đền Tiên Nga và nhiều nơi hương khói phụng sự Chúa Bà (ghi theo thần phả năm 2000).
........................................................................................................
Sự Tích Chúa Ngũ Phương Bản Cảnh
Bà Chúa Năm Phương . Vốn xưa bà cũng là tiên nữ trên Thiên Đình.Sau chúa giáng thế hạ trần vào nhà họ Vũ ở cửa Cấm Giang, đất Gia Viên (nay là Hải Phòng). Chúa sinh ra hình dung tươi tốt, mọi bề đảm đang.Khi đã hồi tiên Chúa Bà được giao quyền cai quản năm phương trời đất, bản cảnh bản xứ ngũ phương vậy nên được tôn xưng là Bà Chúa Quận Năm Phương (hay còn có tên khác là Vũ Quận Bạch Hoa Công Chúa). Tương truyền rằng, chúa hiển linh, ngự khắp nơi khắp cảnh trong năm phương trời đất, chúa dạo chơi khắp chốn, cứ đúng vào lúc canh ba giờ Tí, chúa hiện hình ra người mĩ nữ, gọi xe rong chơi, rồi đi về đến “Cây Đa mười ba gốc” là nơi chúa hiển linh, trả tiền cho phu xe, nhưng khi biết ra thì toàn là tiền âm. Chúa cũng thẳng tay trừng trị kẻ nào còn ngang ngược, chúa hành cho chân tay tê liệt, nằm mơ toàn thấy ma quỷ. Cũng có một câu chuyện truyền lại là: vào thời Pháp thuộc có một me Tây bị chúa hành cho chí rận, khắp người ngứa ngáy không yên, phải đến kêu xin, sám hối cửa chúa thì được khỏi, tạ ơn chúa, me Tây đó đã lập đền thờ rất trang nghiêm, quanh năm cũng lễ rất tấp nập.
Chúa Bà Năm Phương chỉ được hầu ở một số vùng (đặc biệt là Hải Phòng là nơi sinh quán quê nhà của Chúa Bà năm xưa). Hải Phòng và một số địa phương lân cận, trong các đàn lễ mở phủ thường có dâng một tòa đàn gọi là: Đàn Chúa Bà (gồm có hình Chúa Quận Năm Phương, hai cô hầu cận, có khi là có cả hình 12 cô nàng (tất cả đều màu trắng) nón chúa hài cườm một cỗ xe ngựa (hoặc xe phu kéo) hay thường gọi là Xe Chúa Bà) và thỉnh mời Chúa Bà Năm Phương về ngự để chứng đàn đó. Chúa Năm Phương thường ngự về trước Chầu Năm Suối Lân hoặc cũng có một số người hầu chúa sau Tam Vị Chúa Mường. Chúa ngự về thường mặc áo trắng (hoặc có khi chỉ choàng chiếc khăn phủ diện) làm lễ khai cuông rồi cầm tiền tung lên trên ban Công Đồng trong bản đền bản điện để khai quang chứng đền, chứng điện, chứng đàn, chứng phủ (ở một số nơi khác còn hầu chúa về múa quạt hoặc múa mồi).
Đền Chúa Bà Năm Phương được lập ở rất nhiều nơi, nhưng nổi tiếng hơn cả là một số ngôi đền ở nguyên quán Hải Phòng, đất chúa ngự: đầu tiên phải kể đến Chùa Cấm thuộc Phố Cấm, Hải Phòng ( tên tự là Cấm Giang Bản Cảnh Linh Từ hay Nguyệt Quang Tự, trong bản tự có hẳn cung cấm bề thế uy nghiêm thờ chúa), sau đó là Vườn Hoa Chéo, trên đường Trần Hưng Đạo, Hải Phòng (đây là nơi trước đây người me Tây kia lập đền tạ ơn chúa, đền xưa rất lộng lẫy, nhưng bây giờ đã không còn do tàn phá của chiến tranh chỉ còn lại dấu tích nhỏ nhưng vẫn là nơi linh thiêng, hàng tháng có rất nhiều người dân đến đây lễ chúa), rồi “Cây Đa mười ba gốc” là ngôi miếu nhỏ thờ chúa (ở trên đường ra sân bay Cát Bi) là nơi chúa gọi phu xe chở về chốn đó, có cả Đền Tiên Nga cũng thuộc đường Lê Lợi, Hải Phòng, cuối cùng là ngôi miếu nhỏ không tên trên đường Lê Thánh Tông. Các ngôi đền đó đều tổ chức ngày tiệc chúa là ngày 16/6 âm lịch. Tính ra, xưa kia, trên đất Hải Phòng có ít nhất là năm nơi thờ Chúa Bà vậy nên khi chúa ngự văn có hát rằng:“Năm Phương, năm miếu rõ ràng
Hay khi nói về sự tích Bà Chúa Quận Năm Phương giáng sinh, văn hát:
“Tỏ thềm đan thấy trong tích cũ
Chốn lạc xuyên thủy tú sơn thanh
Bạch Hoa Công Chúa giáng sinh
Vào nhà họ Vũ phúc lành tộc cao
Điềm xà thủy mộng trao dưới trướng
Khi giáng trần thoang thoảng mùi hương”
Và một bản văn nữa cũng hát rằng:
“Hương trời thoảng thoảng gió đưa
Dấu thiêng ghi để ngàn xưa còn truyền
Có Bà Chúa Quận Năm Phương
Hình dung nhan sắc khác vời tiên cung”
Còn có cả một đoạn nói về quyền phép của Chúa Bà:
“Cứ đúng vào canh ba giờ Tí
Hiện ra người mĩ nữ cung nương
Quả nón dâu áo trắng hài cườm
Dạo chơi khắp hết năm phương lại về
Gọi phu xe trả cho tiền giấy
Biết Chúa Bà tay lạy miệng van
[...] Trần gian báng nhạo điêu ngoa
Sai cô thị nữ thu ba hồn về
Đêm nằm mơ thấy ma cùng quỷ
Chúa làm cho liệt vị chân tay
Phải đi thỉnh thánh mời thầy
Xem ra mới biết về tay Chúa Bà”
 
Văn khấn bà Chúa Năm Phương nơi thờ bà Chúa Năm Phương
 
Thần tích về Chúa Năm Phương – Bà Chúa Năm Phương là ai?
 
Chúa Năm Phương được sinh ra trong một gia đình họ Vũ tại làng cổ Gia Viên thuộc quận Ngô Quyền, Hải Phòng; nay là phường Gia Viên, Phố Cấm. Tên thật của bà là Vũ Thị Quyến Hoa.
Khi Ngô Quyền khởi binh chống lại quân Nam Hán, bà được phong nữ tướng lo việc quân lương. Với những đóng góp to lớn của bà, Ngô Quyền đã phong tước hiệu cho bà là Ngô Vương Vũ quận chúa. Vì vậy, bà còn được coi là Bà Chúa Kho của riêng đất Hải Phòng.
Năm 1924 Vua Khải Định (triều Nguyễn) chính thức sắc phong tặng Bà là “Vũ quận Quyến Hoa Công chúa Tôn Thần” và chuẩn cho làng Gia Viên được phụng thờ.
Năm 1934 Vua bảo Đại sắc phong bà là “Hộ Quốc Trang Huy Thượng Đẳng Thần”.
Tuy nhiên, không chỉ ở làng Gia Viên, sau này, cứ ở đâu có thờ Ngô Quyền thì ở đó đều có phối hưởng thờ Bà chúa Vũ quận.
Tương truyền, trước khi đánh trận trên sông Bạch Đằng, Đức thánh Trần Hưng Đạo đã vào đền thắp hương và đã được Bà phù hộ cho đánh tan quân địch.
Trong tiềm thức người dân Hải Phòng, Bà chúa Vũ Quận không phải người trần gian mà là một vị tiên nữ trên Thiên Đình được giáng trần để phù hộ cho nước, che chở cho dân”. Khi đã hồi tiên, Chúa Bà được giao quyền cai quản năm phương trời đất, bản cảnh bản xứ ngũ phương vậy nên được tôn xưng là Bà Chúa Năm Phương.
 
Một số nơi thờ Chúa Năm Phương ở Hải Phòng
 
1. Bát hương Vườn hoa Chéo
 
Theo Thủ nhang đồng thày Hoàng Gia Bổn – Nghệ nhân dân gian thì ngày xưa, đây là Miếu thờ chính của Chúa Năm Phương. Vào khoảng năm 1968, nhà nước cho xây dựng vườn hoa, ngôi miếu đã bị phá. Đồ thờ tự của miếu được đưa về đền Tiên Nga – 53 Lê Lợi, bát hương được đưa về Đền Cấm (hay còn gọi là chùa Cấm).
Tương truyền, thời Pháp thuộc, có một bà me tây (vợ của ông chủ Nhà máy cơ khí Robert) bị lạc mất con. Bà đã đến ngôi miếu này để cầu tìm con bị thất lạc. Ngay sau khi cầu, bà đã tìm thấy con. Vì thế, bà me tây để trả ơn Chúa đã đầu tư tu bổ miếu Chúa trở thành một ngôi miếu thờ Chúa Năm Phương nguy nga tại Hải Phòng.
Có tài liệu thì cho rằng bà me tây đó có xúc phạm Miếu Chúa Năm Phương, nên bị Chúa hành cho chí rận đầy người. Sau đó bà me tây đã đến đền cầu đảo để xin Chúa tha tội, sau đã khỏi bệnh. Sau khi khỏi bệnh, bà đã phát tâm tôn tạo miếu của Chúa. Theo ý kiến riêng của người viết thì truyền thuyết này không có tính thuyết phục lắm so với truyền thuyết bà bị lạc mất con.
Hiện nay, tại Vườn Hoa Chéo ngôi miếu không còn nữa. Nhân dân dựng lại một bát hương để thờ Chúa và cũng là ghi nhận nơi đây đã từng là nơi thờ của Chúa. Bát hương này hiện được một thanh đồng giữ hương khói thường xuyên.
 
2. Đền Cấm
 
Đền Cấm còn gọi là chùa Cấm, tại phường Gia Viên, phố Cấm, Ngô Quyền, Hải Phòng. Đây chính là quê hương của Chúa lúc sinh thời. Nơi đây, trước đây có một ngôi miếu thờ riêng của Chúa Năm Phương.
Sau này do ngôi chùa bên cạnh bị xuống cấp, nên các pho tượng của ngôi chùa này được ghép phối thờ với ngôi miếu thờ bà chúa Năm Phương. Vì thế ngôi đền thờ theo hình thức: Tiền Phật, Hậu Thánh. Cũng vì thế nơi đây, bà con quanh vùng vẫn quen gọi đó là Chùa Cấm. Nhưng thực chất gọi là Đền Cấm thì đúng hơn.
Nơi đây cung cấm thờ Chúa Bà Năm Phương với tượng Chúa Năm Phương. Phía ngoài cung cấm cũng có ban thờ tượng Chúa Bà Năm Phương để mọi người lễ.
Đây có thể coi là nơi thờ chính của Chúa Năm Phương, bởi đây được coi là quê hương của bà và cũng là nơi giữ bát hương của bà từ đền Vườn Hoa Chéo đưa về
 
 
3. Đền Tiên Nga
 
Đền Tiên Nga ngụ tại 53 – phố Lê Lợi có cung cấm là thờ Tam Tòa Thánh Mẫu, bên ngoài cung cấm là có ban thờ Chúa Năm Phương rất nguy nga.
Ban thờ Chúa Năm Phương tại đền Tiên Nga
Căn cứ sự phối thờ này có thể nói đây là đền thờ Tam Tòa Thánh Mẫu và Chúa Năm Phương được phối thờ thêm
 
 
4. Đền Cây Đa 13 gốc
 
 
Đền cây đa 13 gốc nằm tại xóm Trại phường Đằng Giang, quận Ngô Quyền, Hải Phòng.
Dưới gốc đa có một miếu thờ, trong miếu có một tấm bia đá khắc chữ Hán Nôm. Theo người dân địa phương miếu đã có từ lâu đời, thờ đức Thành hoàng làng có tên là Thổ Vượng – người có công giúp dân khai hoang, lập và giữa làng Trại xưa. Như vậy, ngôi miếu dưới gốc đa này là nơi thờ thần hoàng làng và sau đó được phối thờ Chúa Bà Năm Phương
Đây cũng chính là nơi được coi là Bà chúa Năm Phương hiển linh về ngự. Vì thế, đây là là nơi người dân khắp nơi về lễ Chúa Năm Phương chủ yếu là tại đây.
Tuy gọi là đền, nhưng thực chất nơi đây chỉ là một miếu nhỏ ngay dưới gốc đa. Ngôi miếu cổ này xưa đã được sửa chữa, tu bổ và trở thành miếu thờ tượng của Chúa Năm Phương và hương án của Thành hoàng làng.
Truyền thuyết về sự hiển linh của Chúa Năm Phương của đền cây đa 13 gốc: Vào thời Pháp thuộc, có người phu xe đứng chờ khách ở gần đền cũ vào lúc nửa đêm, bỗng thấy có người con gái mặc quần áo trắng gọi xe về khu vực xóm Trại. Khi người phu xe chở đến cây đa 13 gốc, bỗng người con gái biến mất, trên xe chỉ còn lại tiền âm phủ. Người ta cho rằng người con gái đó chính là Chúa Năm Phương. Chính từ truyền thuyết này mà nơi đây đã trở thành nơi thờ Chúa Năm Phương.
Chính xuất phát từ truyền thuyết này, người dân hay dâng mã Chúa Năm Phương trên xe kéo của một phu xe.
Câu chuyện khác về đền cây đa 13 gốc: Vào thời Pháp thuộc nơi đây là phố Cô Đầu, bởi có nhiều nhà hát cô đầu (còn được gọi là hát ả đào hay ca trù). Có một ca nương chẳng may yểu mệnh mất đúng vào giờ thiêng, nên rất linh thiêng. Có người thương cảm dựng miếu thờ tại khu vực gốc cây đa.
 
Một số nơi thờ Chúa Năm Phương khác đáng chú ý khác ở Hải Phòng
 
Đền Bảo Phúc tại 12 – phố Trần Phú. Đây là một ngôi đền nhỏ hiện nằm trong khuôn viên của khách sạn Habeview. Ngôi đền này mới được xây dựng trên cơ sở một ngôi miếu thờ Chúa Nam Phương.
Đền thờ Chúa Nam Phương tại số 1 – phố Lê Hồng Phong. Đây là ngôi đền do một công ty xây dựng phát tâm công đức khi được cấp mảnh đất xây dựng trung tâm thương mại tại đây. Trước đây, tại đây chỉ là một miếu thờ nhỏ thờ Chúa Năm Phương.
Ngôi đền có thờ tượng của Chúa Bà Năm Phương và Chúa Quỳnh, Chúa Quế là hai hầu cận của Chúa Năm Phương.
Đền Nam Phương Linh Từ tại Đồ Sơn tại ngõ 155 phố Suối Rồng, khu 1 quận Đồ Sơn thành phố Hải Phòng. Đền này nằm gần Đền Cô Chín Suối Rồng.
Đây là một ngôi đền được xây dựng vào năm 1996 do thủ nhang Hoàng Gia Bổn chủ trì việc khởi công và hoàn thiện ngôi đền.
Ngôi đền tương đối là uy nghi. Đền có các cung chính là ban công đồng, ban Trần triều, ban Sơn Trang. Sau ban Công đồng là Cung Chúa Bà Năm Phương, có tượng Chúa Bà và 2 tượng Chúa Quỳnh, Chúa Quế hai bên – Hai công chúa hầu cận của Chúa Bà.
 
Văn khấn – hát văn khấn bà Chúa Năm Phương
 
Các bạn Lạy 9 lạy (cần thiết thể hiện thành tâm nữa thì lạy 20-50 lạy) – nếu có điều kiện thì quỳ Khấn, đông quá thì quán tưởng mình lạy rồi khấn:
 
Con xin kính lễ
 
Chư Phật, chư Thánh, chư Thiên, chư Thần, chư vị thiêng liêng khắp tất cả
Chư vị bản cảnh thành hoàng, bản xứ thổ địa, chư vị hộ pháp nơi đền (ở các đền thờ chúa đều kêu thêm: Ngài Bản cảnh Hải Phòng, riêng đền cây đa 13 gốc kêu thêm ông Thổ Vượng (thành hoàng của làng, được thờ trước khi chúa về ngự))
Con xin kính lễ Chúa Bà Năm Phương tố linh tố hảo, nhị vị công chúa, và các chư vị hầu cận
Xin phép cho gia tiên nội ngoại tứ thân phụ mẫu được vào Đền lễ Phật lễ Thánh (nhiều nơi không mời gia tiên không vào được, hoặc gia tiên trách, mời để thể hiện tôn kính gia tiên đi kêu cầu, tấu đối cho mình)
 
Khấn xin Chúa Bà độ cho mình những việc gì đó:
 
Nên:
 
Sám hối lỗi lầm bản thân, sám hối Phật thánh, oan gia trái chủ
Hứa tu sửa – Làm việc Thiện báo đáp Bề trên và gia tiên
 
 
 
Hát văn khấn Bà Chúa Năm Phương
 
Dâng văn Bản Cảnh Chúa bà
 
Ngũ Phương Thánh Chúa ngự tòa tiên cung
 
Thanh tân cốt cách hình dung
 
Danh thơm Tiên Chúa khắp vùng ai đang
 
Tiếng đồn trong Bắc ngoài Nam
 
Ngũ phương thập hướng mọi đàng thiếu đâu
 
Đông Phương giá ngự điện lầu
 
Xem trong bốn bể cứu cầu chúng sinh
 
Tây Phương hiển hách anh linh
 
Tày, Dao, Mán , Thái hiện hình bách nhân
 
Nam phương xa giá long vân
 
Thủ Thiêm, Bến Nghé xa gần đều qua
 
Bắc Phương chốn đó sơn hà
 
Tỉnh Tuyên, xứ Lạng, Thác Bà thảnh thơi
 
Trung phương lễ bái kiều mời
 
Thỉnh lai Tiên Chúa giáng nơi Hải Phòng
 
Thung dung phủ tía lầu hồng
 
Cây Đa chính ngự nhiều tầng thấp cao
 
Miếu thờ như thể động đào
 
Mười ba cội gốc vươn cao lá cành
 
Xem trong tỉnh ấy Hải Thành
 
Nơi nào dám sánh dám so miếu này
 
Miếu thờ lịch sự ai tày
 
Cửa thiêng Tiên Chúa hàng ngày khách qua
 
Lúc thì giá ngự Tiên Nga
 
Cấm Giang cổ địa chính đà dấu xưa
 
Nhang thơm thoảng ngát xa đưa
 
Nơi vườn hoa chéo khi xưa vẫn còn
 
Chúa chơi phủ tía lầu son
 
Đền Nghè linh ứng tiếng đồn nơi nơi
 
Tam Kì Chúa ngự thảnh thơi
 
Tiên La thắng cảnh là nơi đi về
 
Đông Cuông điện ấy đề huề
 
Ngũ Phương bản cảnh giáng về ngự vui
 
Chúa Bà giá ngự chính ngôi
 
Thanh đồng đệ tử các nơi xa gần
 
Độ cho trọn vẹn mười phần
 
Phần tươi, phần tốt, phần gần, phần xa
 
Dâng lên chính cửa Chúa Bà
 
Nón dâu, áo bạch, quạt ngà hoa tiên
 
Thành tâm thỉnh trước án tiền
 
Nguyện xin Tiên Chúa ngự lên điện tòa
 
Chúa về Chúa mới phán ra:
 
“Độ cho các ghế mặn mà thanh tao
 
Độ cho giáng vẻ hồng hào
 
Tứ thời bát tiết người nào cũng xinh”
 
Trăng thanh vẻ nguyệt in hình
 
Thỉnh mời Chúa Quận anh linh giáng đàn
 
Chúa về nhận lễ chứng đàn
 
Khuông phù đệ tử an khang thọ trường
 
-------
 
Văn khấn Tứ phủ: Ngắn Gọn Đầy Đủ Nhất
 
 
Các bạn căn đồng số lính có căn hầu đồng con cha con mẹ khi đi lễ đền phủ... không thể không thuộc bài văn khấn Tứ Phủ. Nhưng bài khấn quá dài thì các thanh đồng còn non trẻ sẽ khó lòng mà thuộc được. Bài văn khấn quá ngắn, lại chưa đúng ý nguyện mong cầu của các đồng cựu, thầy đồng.
 
Bản đầy đủ dành cho các thầy và Bản Văn khấn ngắn gọn dành cho các con nhang đệ tử.Có hướng dẫn cách khấn sao cho linh nghiệm nhất đối với con nhang đệ tử ở dưới bài viết
 
Hôm nay là ngày.. Chúng con đến đây có chút hương hoa phẩm quả, lễ mặn (chú ý dâng gì thì kêu đó nghe - không có lễ mặn mà kêu lễ mặn là phải tội đó, nên nhớ không bày lễ mặn ở cúng Phật) xin dâng lên các chư tiên, chư thánh để cảm tạ ơn đức của các ngài đã phù hộ độ trì cho chúng con suốt thời gian qua.Vừa qua được sự lưu tâm độ trì của các ngài mà công việc (Nếu đã xin việc gì cụ thể mà thành công thì xin trình bày) của con đã hanh thông vẹn tròn Chúng con xin được cảm tạ và lễ tạ tất cả các Ngài.
 
Hôm nay, chúng con tới đây với tất cả lòng thành kính xin các ngài phù hộ độ trì cho con các việc sau: ( Nêu cụ thể các việc cần xin, các khó khăn có thể gặp phải và có thể cả hướng định giải quyết ra sao).
 
Một lần nữa thay mặt gia chung chúng con con xin các ngài giang tay cứu giúp cho chúng con. Chúng con xin đa tạ ...( tên vị thánh bản đền) và toàn thể các chư tiên, chư thánh.
 
Nam mô a di dà phật (3 lần).
 
Một số lưu ý về bài khấn trên:
 
Do các ngôi vị của nhà thánh rất nhiều chúng ta chỉ khấn: Toàn thể chư tiên, chư thánh là đủ hết cả rồi, không sót một ai. Nên các bạn cứ an tâm mà khấn.
Ngôi đền nào cũng có một vị chủ đền nên sau khi khấn các chư tiên, chư thánh rồi thì phải khấn tên của vị thánh chủ đền. Vị thánh chủ đền là vị thánh chủ nhà của ngôi đền, còn các ngôi khác tuy quyền cao hơn cũng chỉ là khách, nên không thể không khấn tên vị thánh chủ đền được. Thử hỏi cõi dương trần mình đến nhà người ta chơi mà không chào chủ nhà, chỉ chào mỗi khách thôi thì chủ nhà sẽ hành xử với chúng ta ra sao? Khấn mà quên vị thánh chủ đền thì coi như các lời xin cầu của chúng ta là vô nghĩa, thậm chí còn nguy hại vì mình vô lễ với vị thánh chủ đền.
Cũng lưu ý khi khấn bên cung Phật thì đoạn "chư Phật, chư Tiên, chư Thánh" thì chỉ cần khấn chư Phật thôi, còn khấn bên cung Thánh thì có thể khấn chư tiên, chư thánh thôi.
Khi bắt đầu khấn thì khấn các ngôi chư Phật, chư Tiên, chư Thánh vì ngôi cao hơn, sau đó mới đến vị thánh chủ nhà. Còn khi ra đi thì phải xin phép chủ nhà rồi mới chào các vị khách mới đúng. Thậm chí, chúng ta khấn vị thánh chủ đền rồi mới đến chư tiên, chư thánh cũng không sao. Bởi vị thánh chủ đền là chủ nhà còn các chư tiên, chư thánh chỉ là khách.
Để khấn khi đến hay khấn chào thì nên khấn ở Ban Công Đồng hoặc ở Ban vị thánh chủ đền là được. Sau đó có thể chỉ đến vái các ban khác nếu không có đủ thời gian. Tất nhiên, nếu có nhiều thời gian chúng ta có thể khấn thêm ở các ban khác.
 
 
2. Bài Khấn Tứ Phủ Đầy Đủ (Dành Cho Các Đồng Thầy)
 
Con niệm Nam Mô A Di Đà Phật (3 lần)
- Con lạy chín phương Trời, con lạy mười phương Đất, con lạy mười phương chư Phật, chư Phật mười phương,
- Nam Mô Bản sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
- Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật.
- Nam Mô Đương Lai Hạ Sinh Di Lặc Tôn Phật.
- Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.
 
Con Lạy Chư Đại Bồ Tát, Chư Hiền Thánh Tăng.Hộ Pháp Chư Thiên, Thiện Thần Bồ Tát.
Con lạy Tam Vị Đức Vua Cha Đức Tam Thập Tam Thiên Thiên Chúa Đế Thích Đề Hoàn Nhân Thánh Đế Ngọc Bệ Hạ
Con Lạy Hiệu Thiên chí tôn Kim Quyết Ngọc Hoàng Huyền Cung Đại Đế Ngọc Điện Hạ.
Con lạy Đức Phật Mẫu Hoàng Thiên
Con Lạy Đức Vua Cha Bát Hải Động Đình Thủy Quốc Long Vương.
 
-Con lạy Tam Tòa Thánh Mẫu:
Con Lạy Mẫu Đệ Nhất Thượng Thiên
Con Lạy Mẫu Đệ Nhị Thượng Ngàn
Con Lạy Mẫu Đệ Tam Thoải Phủ
Con Lạy Mẫu Đệ Tứ Khâm Sai
Con Lạy Hội Đồng Quan Tứ Trụ Triều Đình
Con Lạy Tam Phủ Công Đồng, Tứ Phủ Vạn Linh hội Đồng Tiên Thánh
 
 
 
Văn khấn Tứ phủ: Ngắn gọn đầy đủ & hay nhất
 
Các bạn căn đồng số lính, có căn hầu đồng con cha con mẹ khi đi lễ đền phủ... không thể không thuộc bài văn khấn Tứ Phủ. Nhưng bài khấn quá dài thì các thanh đồng còn non trẻ sẽ khó lòng mà thuộc được. Bài văn khấn quá ngắn, lại chưa đúng ý nguyện mong cầu của các đồng cựu, thầy đồng.
 

 
 
VĂN KHẤN TỨ PHỦ ĐẦY ĐỦ NHẤT
 
 
Bản đầy đủ dành cho các thầy và Bản Văn khấn ngắn gọn dành cho các con nhang đệ tử
Có hướng dẫn cách khấn sao cho linh nghiệm nhất đối với con nhang đệ tử ở dưới bài viết.
 
 
 
1.Bài khấn Tứ Phủ ngắn gọn hay nhất (Dành cho con nhang đệ tử)
 
 
Đối với các con nhang, đệ tử đi lễ không thường xuyên thì nên khấn ngắn gọn như sau:
 
Nam mô a di đà phật ( 3 lần )
 
Con lạy chín phương trời, con lạy mười phương đất, con lạy chư phật mười phương, mười phương chư phật.
Con lạy toàn thể chư phật, chư tiên, chư thánh.
Con lạy: ...........( tên thánh chủ bản đền. Ví dụ, đến đền Cô Chín ta khấn: Con lạy Cô Chín tối linh)
 
Đệ tử con tên là:............. tuổi:..........
Ngụ tại:.................................
 
Hôm nay là ngày...., Chúng con đến đây có chút hương hoa, phẩm quả, lễ mặn (chú ý dâng gì thì kêu đó nghe - không có lễ mặn mà kêu lễ mặn là phải tội đó, nên nhớ không bày lễ mặn ở cúng Phật) xin dâng lên các chư tiên, chư thánh để cảm tạ ơn đức của các ngài đã phù hộ độ trì cho chúng con suốt thời gian qua. Vừa qua, được sự lưu tâm độ trì của các ngài mà công việc (Nếu đã xin việc gì cụ thể mà thành công thì xin trình bày ) của con đã hanh thông vẹn tròn. Chúng con xin được cảm tạ và lễ tạ tất cả các Ngài.
 
Hôm nay, chúng con tới đây với tất cả lòng thành kính xin các ngài phù hộ độ trì cho con các việc sau: ( Nêu cụ thể các việc cần xin, các khó khăn có thể gặp phải và có thể cả hướng định giải quyết ra sao).
 
Một lần nữa, thay mặt gia chung chúng con, con xin các ngài giang tay cứu giúp cho chúng con. Chúng con xin đa tạ ...( tên vị thánh bản đền) và toàn thể các chư tiên, chư thánh.
 
Nam mô a di dà phật (3 lần).
 
------ HẾT -------
Một số lưu ý về bài khấn trên:
 
Do các ngôi vị của nhà thánh rất nhiều chúng ta chỉ khấn: Toàn thể chư tiên, chư thánh là đủ hết cả rồi, không sót một ai. Nên các bạn cứ an tâm mà khấn.
Ngôi đền nào cũng có một vị chủ đền nên sau khi khấn các chư tiên, chư thánh rồi thì phải khấn tên của vị thánh chủ đền. Vị thánh chủ đền là vị thánh chủ nhà của ngôi đền, còn các ngôi khác tuy quyền cao hơn cũng chỉ là khách, nên không thể không khấn tên vị thánh chủ đền được. Thử hỏi cõi dương trần mình đến nhà người ta chơi mà không chào chủ nhà, chỉ chào mỗi khách thôi thì chủ nhà sẽ hành xử với chúng ta ra sao? Khấn mà quên vị thánh chủ đền thì coi như các lời xin cầu của chúng ta là vô nghĩa, thậm chí còn nguy hại vì mình vô lễ với vị thánh chủ đền.
Cũng lưu ý khi khấn bên cung Phật thì đoạn "chư Phật, chư Tiên, chư Thánh" thì chỉ cần khấn chư Phật thôi, còn khấn bên cung Thánh thì có thể khấn chư tiên, chư thánh thôi.
Khi bắt đầu khấn thì khấn các ngôi chư Phật, chư Tiên, chư Thánh vì ngôi cao hơn, sau đó mới đến vị thánh chủ nhà. Còn khi ra đi thì phải xin phép chủ nhà rồi mới chào các vị khách mới đúng. Thậm chí, chúng ta khấn vị thánh chủ đền rồi mới đến chư tiên, chư thánh cũng không sao.Bởi vị thánh chủ đền là chủ nhà còn các chư tiên, chư thánh chỉ là khách.
Để khấn khi đến hay khấn chào thì nên khấn ở Ban Công Đồng hoặc ở Ban vị thánh chủ đền là được. Sau đó có thể chỉ đến vái các ban khác nếu không có đủ thời gian.Tất nhiên nếu có nhiều thời gian chúng ta có thể khấn thêm ở các ban khác.
 
2. Bài khấn Tứ Phủ đầy đủ nhất (Dành cho các đồng thầy)
 
Con niệm Nam Mô A Di Đà Phật (3 lần)
- Con lạy chín phương Trời, con lạy mười phương Đất, con lạy mười phương chư Phật, chư Phật mười phương,
- Nam Mô Bản sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
- Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật.
- Nam Mô Đương Lai Hạ Sinh Di Lặc Tôn Phật.
- Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.
 
Con Lạy Chư Đại Bồ Tát Chư Hiền Thánh Tăng.Hộ Pháp Chư Thiên, Thiện Thần Bồ Tát.
Con lạy Tam Vị Đức Vua Cha Đức Tam Thập Tam Thiên Thiên Chúa Đế Thích Đề Hoàn Nhân Thánh Đế Ngọc Bệ Hạ
Con Lạy Hiệu Thiên chí tôn Kim Quyết Ngọc Hoàng Huyền Cung Đại Đế Ngọc Điện Hạ.
Con lạy Đức Phật Mẫu Hoàng Thiên
Con Lạy Đức Vua Cha Bát Hải Động Đình Thủy Quốc Long Vương.
 
-Con lạy Tam Tòa Thánh Mẫu:
Con Lạy Mẫu Đệ Nhất Thượng Thiên
Con Lạy Mẫu Đệ Nhị Thượng Ngàn
Con Lạy Mẫu Đệ Tam Thoải Phủ
Con Lạy Mẫu Đệ Tứ Khâm Sai
Con Lạy Hội Đồng Quan Tứ Trụ Triều Đình
Con Lạy Tam Phủ Công Đồng, Tứ Phủ Vạn Linh hội Đồng Tiên Thánh Đông A Phủ.
 
-Con lạy Trần Triều Hiển Thánh Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương.
Con lạy Trần Triều Khải Thánh Vương Phụ, Vương Mẫu, Vương Phi Phu Nhân,
Trần Triều Vương Huynh, Vương Đệ.Vương Tử, Vương Tế, Vương Nữ Vương Tôn
Con Lạy văn võ bá quan quân thần trần triều
Con lạy Tam Tòa chúa bói – Hội đồng Chúa bói Chúa chữa Chúa Mán Chúa Mường
Con Lạy Chúa Đệ Nhất Tây Thiên
Chúa Đệ Nhị Nguyệt Hồ
Chúa Đệ Tam Lâm Thao
Tiên Chúa Thác Bờ
Con Lạy Ngũ Phương Bản Cảnh Vũ Quận Bạch Hoa -Năm Phương Chúa Bà
 
-Con lạy Ngũ Vị Vương Quan, Tôn Quan Đệ Nhất Thượng Thiên, Tôn quan Đệ Nhị Giám Sát, Tôn Quan Đệ Tam Thoải Phủ, Tôn quan Đệ Tứ Khâm Sai, Tôn Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh.
Con lạy Tôn Quan Điều Thất.
 
-Con cung thỉnh mời Tứ Phủ Chầu Bà
Chầu Đệ Nhất Thượng Thiên
Chầu Đệ Nhị Thượng Ngàn Đông Cuông
Chầu Đệ Tam Thoải Phủ
Chầu Đệ Tứ Khâm Sai
Chầu Năm Suối Lân
Chầu Lục Cung Nương
Chầu Bảy Tiên La
Chầu Bát Nàn Đông Nhung Đại Tướng Quân
Chầu Cửu Sòng Sơn
Chầu Mười Đồng Mỏ
 
Con lạy Hội Đồng Chầu Bé-Con Lạy Chầu Bé Thượng Ngàn Quyền Cai Bắc Lệ
 
-Con cung thỉnh mời Tứ Phủ Thánh Hoàng, thập vị quan Hoàng
Con lạy 36 tòa Sơn Trang -Sơn Trang, Tám Tướng Thập Nhị Tiên Nàng
 
-Con lạy Tứ Phủ Thánh Cô
Con xin kính lạy Cô Nhất Thượng Thiên- Cô Cả đền Dùm
Con lạy Cô đôi Thượng Ngàn
Cô bơ Thoải, con lạy cô tư Ỷ La, Cô năm suối lân, cô Sáu sơn trang, Cô bảy Tân La, cô Tám Đồi Chè, 12 cô Chín, Cô chín thượng Ngàn, Cô chín Sòng sơn, cô Mười mỏ Than, Hội đồng cô bé, Con Lạy cô bé Thượng ngàn, cô bé Thoải .con lạy cô Bé Bản Đền (bản điện), Con lạy Tứ Phủ Thánh Cậu trên Ngàn dưới Thoải,
 
Con lạy Cậu đệ nhất Hoàng Thiên, Cậu Hoàng Đôi Thượng Ngàn, Cậu Hoàng Ba Thoải, Cậu Hoàng Tư Long Thành, Con Lạy Cậu Bé Hoàng Thiên, Cậu Bé Thượng Ngàn, Cậu Quận Phủ Dầy, Cậu Đồi Ngang Phố Cát. Con lạy cậu bé bản Đền ( Bản Điện ).
 
-Con Lạy Hội Đồng Quan Ngũ Dinh, Đôi quan Thanh Xà Bạch Xà, Sơn Thần Bản Thổ Ngũ Hổ Thần Tướng
-Con cung thỉnh mời chư vị Chúa Chầu các Quan thủ Đền thủ Điện, Chư vị Thành Hoàng Bản Thổ, Chư vị Thần thổ cư đồng ngự dải đất này.
 
- Đệ tử con tên là:............. tuổi:..........
Ngụ tại:.................................
Kim niên kim nguyệt cát nhật lương thời. Hôm nay ngày:... Tháng:... Năm:...
( Dâng gì cầu gì khấn nấy hoặc theo bài bên dưới)
 
Nhân …………..
Đệ tử con nhất tâm 1 lòng, nhất tòng 1 đạo, nhất tâm trí thiết, nhất dạ chí thành, đêm tưởng ngày mong, tu thiết hương, hoa, đăng, trà, quả, thực (mang miệng về tâu, mang đầu về bái), trên con tấu thượng thiên, dưới con đệ trình long cung thuỷ phủ cùng đồng gia quyến đăng cung phụng cửa đình thần tam tứ phủ ...............(tên đền) linh từ.
 
Mong trên cha độ, dưới mẫu thương, đèn trời đuốc biển soi đường dẫn lối, phù hộ độ trì cho quốc thái dân an, mưa thuận gió hoà, vuốt ve che chở cho gia chung chúng con trong 3 tháng hè, 9 tháng đông, tai qua nạn khỏi - Đầu năm chí giữa, nửa năm chí cuối được bình an vô sự, cửa nhà khang ninh, cầu danh đắc danh, cầu phúc đắc phúc, đắc tài sai lộc...... Dãi tấm lòng thành cúi xin Phật Thánh Chúa Tiên anh linh chứng giám!!!
 
-Cung thỉnh công đồng Lục Cung Tiên Tổ dòng họ..... nguyên quán Tổ Cô Mãnh Tướng, cậu bé cô bé tại gia, chư vị tiên linh trong dòng họ theo hầu Phật Thánh cửa Đình Thần Tam Tứ Phủ, trên tấu tòa vàng Thượng Thiên, dưới tấu Thủy Cung Địa Phủ, cho con cháu nhất một lòng, tòng một đạo Sở cầu tất ứng, sở nguyện tòng tâm…
 
Nam mô a di dà phật (3 lần).
 
Văn khấn công đồng bài 3 dễ nhớ (Dành cho các thanh đồng)
 
Nhất thiết cung kính, nhất tâm kính lễ thập phương pháp giới thường trụ Tam Bảo (3 lần)
Nam mô Phật, Nam mô Pháp, Nam mô Tăng
Nam Mô Bản Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần)
Nam mô đại từ, đại bi tầm thanh cứu khổ cứu nạn quảng đại linh cảm Quán Thế Âm Bồ Tát.
 
- Con lạy chín phương trời, mười phương chư phật chư phật mười phương, ngũ phương ngũ phật, thập phương thập phật, hằng hà sa số, đức phật vô lượng, công đức vô biên.
Con xin sám hối con lạy Đức Cao Thiên Thượng Thánh Đại Từ Nhân Giả, Huyền Cung cao thượng đế, Ngọc Hoàng đại thiên tôn.
- Con xin sám hối đại thánh Nam Tào Lục Ty Duyên Thọ tinh quân, con sám hối đại thánh Bắc Đẩu Cửu Hoàng Giải Ách tinh quân, Bắc Cực Thiên Trung, Tam Nguyên, Tam Phẩm, Tam Quan, Cửu Tinh Thiên Chúa, Thập Nhị Bát Tú, dương phủ ngũ nhạc thần vương, địa phủ thập điện linh vương.
- Con xin sám hối đến thái linh phủ, bát hải linh từ, con sám hối vua cha bát hải động đình, con sám hối cửu trùng thánh mẫu bán thiên công chúa thiên tiên thánh mẫu.
- Con sám hối quốc mẫu vua bà, bơ toà thánh mẫu, mẫu đệ nhất thiên tiên Quỳnh Hoa Liễu Hạnh, đức mẫu thượng ngàn, Diệu Nghĩa, Diệu Tín thiền sư, tuần quán đông cuông, đệ nhị đỉnh thượng cao sơn triều mường sơn tinh công chúa Lê Mại Đại Vương, thánh mẫu đệ tam thuỷ cung Xích Lân Long Lữ thuỷ tinh công chúa, Hàn Sơn linh từ .
- Con lạy trần triều hiển thánh nhân vũ Hưng Đạo Đại Vương Quốc Công Tiết Chế Thượng đẳng phúc thần ngọc bệ hạ, trần triều khải thánh vương phụ, vương mẫu, vương phi phu nhân, vương tử, vương nữ, vương tể, vương tôn, tứ vị vương tử, nhị vị vương cô, phạm tướng quân, cô bé cửa suốt, cậu bé cửa đông chư vị tướng tá bộ hạ các quan công đồng Trần Triều uy phong lẫm liệt.
- Con sám hối Cung thỉnh Tam vị Chúa Mường:đệ nhất Tây Thiên,đệ nhị Nguyệt Hồ,đệ tam Lâm Thao
- Chúa Bà Cà Phê ,Tiên Chúa Thác Bờ-Hòa Bình công chúa,Ngũ Phương Bản Cảnh Chúa bà bạch hoa công chúa tối tú tối linh,hội đồng chúa bói,hội đồng chúa chữa,hội đồng chúa Mán,hội đồng chúa Mường,lục cung chúa chầu các bộ sơn trang,sơn lâm công chúa,tam thập lục cung công chúa,lục thập hoa giáp thần nương.
- Con sám hối ngũ vị tôn quan hội đồng quan lớn, quan đệ nhất thượng thiên, quan đệ nhị thượng ngàn, quan đệ tam thoải phủ, quan đệ tứ khâm sai, quan đệ ngũ tuần tranh.
Con lạy tứ phủ chầu bà, Năm tòa quan lớn, 10 dinh các quan. Bát bộ sơn trang thập nhị tiên cô trên ngàn dưới thoải, Thủ điện công chúa tối tú tối linh. Con kính lạy tứ phủ quan hoàng. Tứ phủ thánh cô, tứ phủ thánh cậu, cậu bé bản đền, cô bé bản đền. Ngũ lôi thiên tướng, ngũ hổ đại thần chư vị các quan. Con kính lạy Thanh Xà đại tướng, Bạch Xà đại quan.
- Con kính lạy công đồng các giá, hội đồng các quan, trên ngàn Adưới thoải, 18 ucửa rừng, 12 cửa bể, cửa đình thần tam tứ phủ tối tú anh linh, con lạy Thổ công chúa đất chư vị tôn thần bản sứ.
 
Hôm nay là ngày...tháng...năm...
Đệ tử con là ... (tuổi) thê ... (tuổi) sinh nam tử ... (tuổi) nữ tử .... v.v… đồng gia quyến đẳng.
Ngụ tại địa chỉ:........................................................
 
 
Ngày hôm nay, kim niên kim nguyệt cát nhật lương thời.
Đệ tử con nhất tâm tưởng vạn tâm cầu, tu thiết nhang hoa lễ vật có tờ vàng lá sớ, tờ tấu lá trạng, mang miệng về tâu mang đầu tới bái cửa đình thần tam tứ phủ. Trên Mẫu độ, dưới gia hộ Mẫu thương, vuốt ve che chở phù hộ độ trì cho con 3 tháng hè 9 tháng đông, đầu năm chí giữa nửa năm chí cuối, tứ thời bát tiết phong thuận vũ hòa, tai qua nạn khỏi.
 
Mẫu cho con sáng hai con mắt, bằng hai bàn chân. Mẫu ban lộc dương, Mẫu tiếp lộc âm, cho lộc mùa xuân, cho tài mùa hạ, cho con tươi như lá, đẹp như hoa, phúc lộc đề đa tiền tài mang tới. Mẫu cho con lộc ăn lộc nói, lộc gói lộc mở, lộc gần lộc xa, hồ hết lại có, hồ vơi lại đầy, điều lành mang đến điều giữ mang đi. Mẫu cứu âm độ dương, cứu đường độ chợ, vuốt ve che chở nắn nở mở mang, cải hung vi cát, cải hạo vi tường thay son đổi số, lảy mực cầm cân Mẫu phê chữ đỏ, Mẫu bỏ chữ đen, cho con được trăm sự tốt vạn sự lành, trên quý dưới yêu, trên vì dưới nể. Mẫu cho con gặp thầy gặp bạn, gặp vạn sự lành, Mẫu ban danh ban diện ban quyền cho con có lương có thực có ngân có xuyến, cầu tài đắc tài, cầu lộc đắc lộc, cầu bình an đắc bình an, trồng cây đắp phúc cho con được nở cành xanh lá, phúc lộc đề đa, ngũ phúc lâm môn, thân tâm an lạc, quả đạo viên thành, đầy thuyền mãn quả, gia đạo hưng thịnh. Mẫu cho trên thuận dười hòa trên bảo dưới nghe, trên đe dưới sợ, Mẫu cho nước chảy một dòng thuyền trôi một bến, bách bệnh tiêu tán vạn bệnh tiêu trừ, Năm xung Mẫu giải xung, tháng hạn Mẫu giải hạn cho gia trung con được trong ấm ngoài êm, nhân khang vật thịnh, duyên sinh thọ trường.
 
Đệ tử con người trần mắt thịt, việc âm chưa tường việc dương chưa tỏ, tuổi con còn trẻ, tóc con còn xanh, ăn chưa sạch bạch chưa thông, không biết kêu sao cho thấu tấu sao cho tường. Con biết tới đâu con tâu tới đó, 3 điều không sảy, 7 điều không sai, trăm tội Mẫu xá, vạn tội Mẫu thương. Mẫu xá u xá mê, xá lỗi xá lầm, soi đường chỉ lối cho con biết đường mà lội, biết lối mà lần.
 
Hôm nay đệ tử con lễ bạc tâm thành, con giàu một bó con khó một nén, giàu con làm kép hẹp con làm đơn, thiếu Mẫu cho làm đủ, vơi Mẫu cho làm đầy. Mẫu chấp kỳ lễ vật, chấp lễ chấp bái, chấp lời kêu tiếng tấu của con, bay như phượng lượn như hoa tới cửa Mẫu ngồi, tới ngai Mẫu ngự, cho con sở nguyện như ý sở cầu tòng tâm.
 
Dãi tấm lòng thành cúi xin Phật Thánh Chúa Tiên anh linh chứng giám!!!
 
- Con sám hối Cung thỉnh công đồng Tổ tiên nội ngoại, Tổ Cô Mãnh Tướng,cậu bé cô bé tại gia đẳng đẳng chư vị chân linh sống vi anh tử vi linh về hầu cửa Phật cửa Thánh trên tấu thượng thiên, dưới tấu tòa vàng thoải phủ, kêu thay lạy đỡ cho con cháu cháu chắt của Tổ được kêu thấu, tấu nổi, đắc lễ đắc bái đắc yêu đắc cầu.Đức Tổ cao minh tận thương tận độ!!!
 
Các thanh đồng lưu ý khi khấn Tứ phủ để có ứng nghiệm được tốt nhất
 
Cần quỳ lạy tốt hơn nếu có điều kiện về vị trí, chỉ đứng khi không có chỗ để ngồi. Nhà Thánh không chấp nếu ta không có chỗ quỳ lạy, nhưng sẽ chấp ta nếu có chỗ mà không quỳ. Quỳ là sự thể hiện sự tôn kính mà.
 
Khi khấn cần chắp tay cung kính, dồn toàn bộ tâm trí vào câu khấn,. Có thể mở mắt, nhưng phải để hướng mắt vào các tượng thánh. Có thể nhắm mắt để tiện cho dồn tâm trí vào câu khấn thì trong tâm vẫn phải hướng thẳng vào cung thờ.
 
Không quá nặng nề về câu chữ để sao cho lời khấn được mạch lạc, để có thể khấn bằng cả cái tâm của mình. Đây là phần quan trọng nhất trong khi khấn. Có làm được như vậy thì cây cầu tâm linh giữa người khấn với cõi tâm linh mới được kết nối. Khi đó lời khấn của mình mới được chứng. Nếu trong khi khấn mà không tâm niệm được điều này thì có khấn hay đến đâu cũng khó được chứng giám. Tuyệt đối không được mang bản in sẵn ra mà đọc. Nếu ta đọc thì cây cầu âm dương không bao giờ được kết nối.
 
Nên dãi bày chi tiết cụ thể các việc mình cần xin thì càng tốt. Có như vậy, cõi âm mới biết mình vướng cái gì, mắc ở đâu, chỗ nào ngăn trở mình thì cõi âm mới có cách giải quyết cho chúng ta được. Không nên khấn chung chung không cụ thể như: Mua một bán mười, tài lắm, nhiều lộc, gặp may gặp mắn.....
 
Đi lễ không quá cầu kỳ về đồ lễ vì cõi âm thường: Chứng tâm không chứng lễ. Nếu có lễ thì nên đơn sơ. Chúng ta nên dành bớt phẫn lễ để cung tiến, hay giọt dầu. Việc đó tốt hơn vì góp công của xây dựng nhà đền sẽ được nhà ngài chứng tâm nhiều hơn. Cha mẹ nào chả thương con nghèo. Vì thế, không nên đua đòi sắm lễ, đặc biệt là mã cho tốn kém mà không giúp gì cho hưng thịnh đền nhà ngài. Nhà thánh hàng năm nhận hàng vạn mã, vàng thử hỏi có dùng làm chi ở cõi đó. Lễ mã chẳng qua là thể hiện lòng tôn kính mà thôi.
 
Hãy tự mình khấn thì tốt hơn vì các thầy chỉ thay mình khấn hộ nên chỉ khấn được chung chung hoặc chỉ là tên sự việc chứ không thể tả được các khúc mắc trong sụ việc như chính bản thân chúng ta. Vì vậy, khi thầy khấn xong ta nên tự khấn một mình sau, nếu không thì có thể khấn thầm ngay khi các thầy khấn chung. Lưu ý, chỉ khấn nhẩm thầm để tránh ảnh hưởng đến người xung quanh. Nếu ta làm ảnh hưởng đến người xung quanh thì chính chúng ta không tôn trọng chính mình thì há chi nhà thánh còn muốn nghe chi lời trình bày của mình nữa.
 
Một điểm lưu ý thêm là bà con hay có cái tật đi với thầy, khi thầy lễ cho người khác thì mình không thèm để ý. Tốt nhất là phải lắng tâm để nghe và cùng lạy tạ cho người ta. Mình không tiếp phúc cho người thì há chi người tiếp phúc cho ta. Mà với nhà Thánh ai chả là con, nhà Thánh không thích những kẻ chỉ biết cho chính mình mà quên đi đồng loại.
 
Trong đền có nhiều cung, nếu chúng ta đến từng cung mà khấn đầy đủ mạch lạc là điều bất khả thi bởi ngay chính chúng ta cũng sẽ mất kiên nhẫn để hướng tâm trí vào lời khấn. Vì vậy chúng ta chỉ nên chọn một vị trí khấn đầy đủ tốt nhất là tại Ban Công Đồng nếu không chúng ta vào chính cung của vị thánh chủ đền nếu không còn chỗ thì chúng ta ra bên ngoài cửa đền khấn vọng vào, còn hơn phải đứng chen chúc xô đẩy khiến chúng ta không thể nhất tâm trong suốt thời gian khấn.
 
Như bạn đã biết khi khi tâm trí bị đứt mạch thì sợi dây âm dương tiếp nối của chúng ta với cõi âm sẽ bị gián đoạn.Tất nhiên những điều ta khấn sẽ trở thành vô giá trị.Sau đó chúng ta sẽ đến các cung khác vái lạy và xin cảm tạ là đủ. Lý do đơn giản là khi ta khấn vừa rồi là đã khấn các vị đó rồi.Tất nhiên nếu thời gian cho phép chúng ta có thể tóm tắt các điều cần lễ tạ và các điều cần xin
Nên nhớ chỉ tóm tắt thôi nghe.
---------
 

THẦN TÍCH VỀ CÔ BƠ BÔNG
 
Cô Bơ Bông (Hay còn gọi là Cô Bơ Cô Ba Thoải Cung Cô Bơ Hàn Sơn Cô Ba Hàn Sơn Cô Bơ Thác Hàn) được thờ tại Đền Ba Bông tại xã Hàn Sơn Huyện Hà Trung
Tỉnh Thanh Hóa thuộc khu du lịch tâm linh Hàn Sơn.
Lại có bài thơ tóm lược về vị nữ nhân thần trong Tứ phủ Thánh Cô như sau:
CÔ BA THOẢI PHỦ
Cô Ba Thoải vốn dòng thuỷ phủ
Danh “Thoải Cung Công Chúa” tương đồng
Vào thời Thái Tổ trung hưng
Giúp vua Lê Lợi thoát vòng hiểm nguy
Đầu khởi nghĩa binh suy lực yếu
Chốn núi rừng dấy hiệu xưng vương
Giặc Minh bạo ngược khó lường
Giết người cướp của đau thương chất đầy
Thế giặc mạnh nào hay kể siết
Giặc tập trung đuổi riết vua mình
Thác Hàn nữ thánh hiển linh
Trồng ngô tỉa nhánh một mình cứu vua
Ấy là lúc vào mùa thu hoạch
Dấu áo bào giả cách nông dân
Kế hay giặc phải bần thần
Chính nàng tiên nữ giáng trần: “Cô Bơ”
Cô bí mật chèo đò ngày tháng
Vận chuyển người chẳng quản hiểm nguy
Tải lương giúp sức khó gì
Góp công to lớn thịnh suy nước nhà
Chuyện Cô Ba mặn mà trinh tiết
“Thượng đẳng thần” lẫm liệt kiên trung
Ba Bông đền dựng Hà Trung
Nhớ người tiên nữ ngự vùng xứ Thanh
Luật Hồng Đức thịnh hành thời ấy
Sùng Quốc Công (1) chấn ải Thác Hàn
Rừng thiêng nước độc bất an
Giặc dã lan tràn đạo tặc triền miên
Cô Ba Thoải dáng tiên báo mộng
Rẽ nước lên kiệu võng nói rằng:
“Nhị Sơn hạ thuỷ lùi quân
Lên núi Thạch Bàn... Mẫu Thoải ứng linh”
Lê Thọ Vực lạy trình Mẫu Thoải
Xuôi quân về thác cái Hàn Sơn
Bày binh bố trận rửa hờn
Chặn dòng lấp đá đợi con thuỷ triều
Bọn giặc dã hồn siêu phách lạc
Vỡ chiến thuyền tan tác chim muông
Vấp vô bãi đá quay cuồng
Chiến công nổi tiếng muôn phương nức lòng
Ngã ba sông Cô Bơ cứu độ
Giúp thuyền bè bến đỗ buông neo
Cô luôn giúp đỡ kẻ nghèo
Ngư dân giữ vững mái chèo nhờ Cô
Cô Bơ Thoải dùng đồ màu trắng
Dải lưng hồng phẳng lặng cõi tiên
Đồng tân, đồng cựu khắp miền
Cô về ngự lãm vấn yên má hồng
Cô Bơ Bông tiệc vào tháng sáu
Ngày mười hai hầu Mẫu... Cô về
Anh hùng ngự chốn miền quê
Non sông gấm vóc lời thề sắt son

 
(1) Sùng Quốc Công tức Thái uý Lê Thọ Vực là tướng tài thời vua Lê Thánh Tông trị vì
THẦN TÍCH VỀ CÔ BƠ BÔNG
1- Thần tích thứ nhất:
Có tài liệu cho rằng: Cô Ba Thoải Cung vốn là con Vua Thủy Tề được phong là Thoải Cung Công Chúa.Sau này Cô được giáng sinh vào thời Lê Trung Hưng
Trong cuộc kháng chiến chống quân Minh có công giúp vua Lê Lợi trong những những ngày đầu khởi nghĩa.Sau này sau khi cô hóa cô còn linh ứng giúp vua lê trong cuộc diệt Mạc phù Lê.
Trong dân gian vẫn còn lưu truyền lại câu chuyện sau: Vào những năm đầu khởi nghĩa, quân ta (ý nói nghĩa quân do vua Lê Lợi chỉ huy) vẫn còn yếu về lực lượng, thường xuyên bị địch truy đuổi một lần Lê Lợi bị địch đuổi đến ngã ba sông Thác Hàn ở Hà Trung thì gặp Cô Bơ đang tỉa ngô liền xin cô giúp đỡ cô bảo người lấy quần áo nông dân mặc vào còn áo bào thì đem vùi xuống dưới ruộng ngô rồi cùng cô xuống ruộng giả như đang tỉa ngô.Vừa lúc đó thì quân giặc kéo đến chúng hỏi cô có thấy ai chạy qua đó không thì cô bảo rằng chỉ có cô và anh trai (do Lê Lợi đóng giả) đang tỉa ngô thấy vậy quân giặc bỏ đi.Lê Lợi rất biết ơn cô hẹn ngày sau đại thắng khải hoàn sẽ rước cô về Triều Đình phong công và phong cô làm phi tử. Sau đó cô cũng không quản gian nguy bí mật chèo thuyền trên ngã ba sông chở quân sĩ qua sông có khi là chở cả quân nhu quân lương.Có thể nói trong kháng chiến chống Minh thì công lao của cô là không nhỏ
Đến ngày khúc hát khải hoàn cất lên thì vua Lê mới nhớ đến người thiếu nữ năm xưa ở đất Hà Trung liền sai quân đến đón nhưng đến nơi thì cô đã thác tự bao giờ còn nghe các bô lão kể lại là ngày qua ngày cô đã một lòng đợi chờ không chịu kết duyên cùng ai cho đến khi thác hóa vẫn một lòng kiên trinh.
Người ta cho rằng Cô Bơ được lệnh Vua Cha giáng trần để giúp vua đến chí kì mãn hạn thì có xe loan lên đón rước cô về Thủy Cung.Sau đó cô hiển linh giúp dân chúng ở vùng ngã ba sông, độ cho thuyền bè qua lại được thuận buồm xuôi gió vậy nên cô còn có danh hiệu là Cô Bơ Bông (do tích cô giáng ở ngã ba sông) hay Cô Bơ Thác Hàn (theo tên gọi ở nơi quê nhà). Ai hữu sự đến kêu van cửa cô đều được như ý nên danh tiếng cô vang lừng khắp nơi nơi Cô Bơ luôn giá ngự về đồng, già trẻ, từ đồng tân đến đồng cựu, hầu như ai cũng hầu về Cô Bơ Bông.
Khi cô giáng vào ai, dù già hay trẻ thì sắc mặt đều trở nên hồng hào tươi tốt, đẹp đẽ lạ thường. Khi cô ngự đồng, cô thường mặc áo trắng, đầu đội khăn đóng (khăn vành dây) có thắt lét trắng (có khi dùng thắt dải lưng hồng) rồi cô cầm đôi mái chèo, bẻ lái dạo chơi khắp nơi. Lúc chèo thuyền có khi có còn khoác thêm chiếc áo choàng trắng, trên khăn có cài ba nén hương, bên hông có dắt tiền đò rồi khi chèo thuyền xong cô lại cầm dải lụa để đi đo gió đo nước đo mây.
Lúc cô an tọa người ta thường xin cô thuốc để trị bệnh vậy nên Cô Bơ ngự về thường hay làm phép “thần phù” để ban thuốc chữa bệnh. Vì theo quan niệm nguyên xưa Cô Bơ Bông hầu cận Mẫu Thoải, lại theo sự tích nơi quê nhà cô là ở đất Hà Trung, Thanh Hóa, ngã ba Bông bến đò Lèn nên đền cô được lập ở đó gần đền Mẫu Thác Hàn (chính là Mẫu Thoải) gọi tên là Đền Cô Bơ Bông thuộc xã Hà Sơn huyện Hà Trung tỉnh Thanh Hóa trước đây đường đi vào rất khó khăn nhưng hiện giờ đã được tu sửa nên giao thông đã dễ dàng hơn”.
 
2- Thần Tích Thứ 2:
 
Một huyền tích khác về Cô Bơ Bông Hàn Sơn như sau:
“Theo huyền sử vào khoảng những năm đầu đại Hồng Đức triều vua Lê Thánh Tông (1460- 1497), thái úy Lê Thọ Vực sau khi lập được nhiều công trạng được vua phong chức “Bình Trương Quân Quốc Trọng Sự” rồi đến chức “Sùng Quốc Công”, giao chấn giữ biên ải Ba Bông “Rừng thiêng nước độc”. Trong một trận giao tranh ác liệt kéo dài, không phân thắng bại mà tình thế rất nguy cấp. Đêm hôm ấy danh tướng đã mơ thấy một người con gái mặc xiêm y trắng trên mây giáng xuống ngã Ba Bông rẽ nước bước lên kiệu võng mà nói rằng: “Hãy lui quân về Nhị Sơn hạ thủy mà vây hãm lên núi Thạch Bàn mà cầu Mẫu thoải tất ứng linh”. Theo lời, danh tướng dẫn quân xuôi về Chí Thủy (Thác Hàn Sơn bây giờ) dâng lễ cầu Mẫu rồi bố trí quân binh mai phục. Ứng báo của Mẫu cho kế phá giặc là lấp đá chặn dòng lấy thủy triều dâng làm nghi binh nhử giặc vượt qua bãi đá ngầm khi nước thủy triều xuống thì tổng lực phản công, thuyền giặc rút chạy bị vấp vào bãi đá ngầm lật nhào chìm đắm rất nhiều quân mai phục đổ ra đánh úp quân giặc chết nhiều vô kể và thất bại thảm hại không còn dám quấy nhiễu nữa.
(Dấu tích bãi đá ở Thác Hàn vẫn còn cho đến ngày nay).
“Thác Hàn Sơn lừng lẫy chiến công nức tiếng muôn phương oanh liệt một thời.Người con gái trong kiệu võng về báo mộng cho tướng quân Lê Thọ Vực đêm hôm ấy chính là con gái Ngọc Hồng thượng đế (Công chúa Mai Hoa) mà nay gọi là Cô Ba hay Cô Bơ thoải phủ đền Ba Bông.Còn người báo mộng hiến kế để tướng quân Lê Thọ Vực phá giặc là “Đệ Tam Thủy Tiên Thánh Mẫu Bạch Ngọc Hồ Trung Xích Thủy Tinh Xích Lân Long Nữ” hay còn gọi là Mẫu Đệ Tam, Mẫu Thoải, Mẫu Hàn Sơn đều là một. Để đáp lại ân đức của thánh thần, tướng quân Lê Thọ Vực tâu vua, vua Lê cho lập đền thờ Cô Ba ở bờ bãi bồi Ba Bông hiện nay. Đền thờ Đệ Tam Thánh Mẫu ở non cao Thạch Bàn thác Hàn Chí Thủy (về sau mới di dời xuống bên sông để nhân dân thuận lợi việc thăm viếng). Nhớ ơn công đức của tướng quân Lê Thọ Vực, nhân dân địa phương đã lập đền thờ ngay phía dưới trước đền Mẫu, được tách rời bởi sân Đại Bái (Từ đó đến nay vẫn giữ nguyên sự sắp xếp đó).
3- Thần tích thứ ba:
Một thần tích khác về Cô Bơ Bông:
Theo cuốn “Lê Triều Thần Phả Ngoại Biên” được lưu giữ tại Thái Miếu họ Lê có ghi chép về thần tích cô Bơ Bông tóm tắt như sau:
Vào khoảng năm 1432, vua Lê Lợi có một đêm mộng thấy một nữ thủy thần báo mộng: “Ta là con gái vua Thủy tề đây. Nhà vua còn nhớ là nợ ta một lời hẹn ước hay không? Bây giờ nghiệp đế vương đã thành sao chưa thấy trả”. Vua Lê Lợi giật mình tỉnh dậy mới nhớ lại chuyện cũ. Ngày xưa, vào những năm đầu khởi nghĩa, Lê Lợi bị địch đuổi đến ngã ba sông Thác Hàn ở Hà Trung thì gặp cô gái xinh đẹp, đoan trang đang tỉa ngô được cô cứu thoát. Vua Lê Lợi để tỏ biết ơn cô, có nói với cô rằng: ” Ta có một cháu trai tuấn tú, khôi ngô, văn võ song toàn. Sau này kháng chiến thành công ta sẽ gả cháu ta cho cô.” Người mà Lê Lợi nhắc đến chính là tướng quân Lê Khôi, cháu trai của Lê Lợi (Tướng Lê Khôi chính là một trong các hiện thân của Quan Hoàng Mười được thờ tại đền Củi ngày nay). Cô gái ấy chính là hiện thân của Cô Bơ. Tương truyền rằng, sau thắng lợi, Vua Lê Lợi có quay lại tìm cô gái nhưng không thấy. Như vậy lời hứa gả cô cho tướng Lê Khôi đã không được thực hiện. Sau giấc mơ, biết cô gái tỉa ngô nơi xưa chính là con gái vua thủy tề, hiện thân lên cõi trần để giúp vua xây dựng nghiệp lớn, vua Lê Lợi đã phong cô là “Thượng Đằng Thần” và cho xây dựng đền Cô, để tưởng nhớ công lao của Cô.
SỰ TÍCH VỀ ĐỀN CÔ BƠ BÔNG
Vào khoảng năm 1939 – 1940, Đền Bơ Bông đã bị giặc Nhật phá đổ, đốt tượng. Lúc đó, cụ Nguyễn Trọng Khanh là thủ nhang của đền đã bí mật cứu gỡ được một số bài vị, bát hương, đỉnh thờ và pho tượng cô đem giấu đi. Sau đó ít ngày, Cụ đã xin giặc Nhật cho lập đền thờ Trần Hưng Đạo ở khu bãi bồi bên sông cách đền cũ chừng 200 m. Cụ nói tránh là lập đền thờ Trần Hưng Đạo chứ thực chất là lập dựng lại đền Cô. Nơi dựng đền cô lúc đó chỉ toàn lau lách. Dưới sự quyết tâm của Cụ và bà con làng xóm, một ngôi đền 3 gian bằng tre nứa lá đơn giản đã được xây dựng.
Sau đời cụ Nguyễn Trọng Khanh là cụ Nụ làm thủ nhang.Cụ Nụ có công rất lớn trong việc tôn tạo lại đền. Nghe nói quê cụ tận Khoái Châu, để có kinh phí xây dựng lại đền cụ đã về quê bán hết nhà cửa ruộng đất để xây dựng được ngôi đền gạch, lợp ngói 5 gian. Cụ mất vào khoảng năm 1994 – 1995.Cụ đã được nhân dân quanh vùng đưa rước rất lớn. Hiện ngôi mộ cụ được nhân dân, xây dựng tu bổ rất hoành tráng ngay tại nghĩ trang Hàn Sơn.
Năm 1996, ngôi đền được công nhận là di tích lịch sử cấp Quốc Gia.Như vậy ngôi đền được như ngày nay là công sức đóng góp sự hy sinh cao cả của hai cụ thủ nhang: Cụ Trọng và cụ Nụ.
Hiện nay, khu đất cũ của đền Cô mà đã bị giặc Nhật phá đã có người dân xây dựng 3 gian nhà ngói để ở. Nhưng nghe đâu, miếng đất nơi đền cũ linh thiêng không ở được. Người ở đó đã bỏ lại ngôi nhà chỉ để dành thắp hương cho cô và đi kiếm ăn nơi xa.
NGÀY TIỆC CÔ BƠ BÔNG
Ngày 12.6 âm lịch là ngày rước Cô lên đền Mẫu.Nhưng ngày mất của Cô tương truyền là ngày 8/2.Nhiều nơi vẫn làm ngày tiệc Cô vào 8/2.Tuy vậy để kỷ niệm ngày rước Cô lên đền Mẫu được coi là chính tiệc của Cô Bơ Bông.
 
-----------

 

Cô Tám Đồi Chè

 

Tiên Cô Nhạc Phủ linh thiêng


+ Ngày 26/6: Tiệc Cô Tám Đồi Chè

 

 

Cô Tám Đồi Chè là vị tiên cô thuộc hàng thứ 8 trong Thánh Cô Tứ Phủ

Cô có quyền cao phép lớn có thể chữa mọi bệnh trần gian. Cô thường ban sức khỏe an khang thái bình cho muôn dân.

 

Sự tích Cô Tám Đồi Chè

Sự tích truyền lại rằng Cô Tám là tiên cô giáng thế cùng thờ với Cô Bơ Thác Hàn. Cô thuộc Nhạc Phủ chứ không phải Địa Phủ như nhiều người vẫn lầm tưởng.

Cũng theo sự tích, Cô Tám giáng sinh dưới thời Lê Thái Tổ dấy binh khởi nghĩa, cô là người thiếu nữ trồng hái búp chè tại vùng Phong Mục, Hà Trung, Thanh Hoá. Cô thiếu nữ hái chè nết na, tần tảo thường lấy chè làm thuốc giúp đỡ dân lành ai cũng quý mến. Có lẽ bởi vậy mà người đời sau đã suy tôn cô là Cô Tám Đồi Chè. Tại đây cô đã tham gia cuộc khởi nghĩa này và góp công lớn giúp vua đánh đuổi giặc ngoại xâm. Khi về lại tiên giới, cô được phong công lập đền thờ. Đồng thời được giao nhiệm vụ trấn giữ một bên sông Đò Lèn Phong Mục

Khi thanh nhàn, cô thường an nhiên dạo chơi khắp vùng Hà Trung Thanh Hoá cũng có khi cô hiện hình trên dòng sông Mã cùng con thuyền độc mộc bẻ lái ngắm cảnh dọc bờ sông.

 

Giá hầu Cô Tám Đồi Chè

Trong hàng Tứ Phủ Thánh Cô, Cô Tám Đồi Chè hiếm khi về ngự đồng. Chỉ khi nào có người sát căn, sát vía cô hoặc đó là dịp hầu đón tiệc Cô Tám Đồi Chè 26 tháng 6 âm lịch tại các đền ở vùng Thanh Hoá thì thỉnh cô mới về. 

Cô Tám Đồi Chè ngự đồng thường mặc áo xanh lá quần đen (có nơi là áo tím hoa cà). Cô cũng khai quang sau đó múa mồi. Sau đó cô thường là múa tay tiên các điệu như người đi hái chè trên non.

 

Dâng lễ Cô Tám cần chú ý gì?

Hàng năm vào đầu năm mới hoặc ngày tiệc Cô Tám Đồi Chè tức ngày 26 tháng 6 âm lịch là hàng ngàn lượt khách hành hương từ khắp mọi miền đất nước lại đổ về dâng lễ cúng bái Thánh cô. Vừa là để tỏ lòng thành kính, biết ơn đối với công lao của cô, vừa để cô chứng lòng thành các con hương, phù hộ độ trì cho gia quyến được bình an, may mắn, sức khỏe, có tài, có lộc trong năm mới. Khi dâng lễ Cô Tám Đồi Chè, con hương thường sắm đầy đủ một mâm lễ vật gồm một đĩa hoa, một đĩa quả với nhiều loại quả, một cơi trầu, quả cau, cút rượu, xôi thịt, một tập giấy tiền và một cánh sớ trình báo.

 

Văn khấn tiên cô

Nam mô a di đà phật! (3 lần)

Hương tử chúng con thành tâm kính lạy đức Hiệu Thiên Chí tôn Kim Quyết Ngọc Hoàng Huyền cung cao Thượng đế

Kính lạy

Đức Cửu Trùng Thánh Vân lục cung công chúa

Đức Thiên tiên Quỳnh Hoa Liễu Hạnh Mã Hoàng công chúa, sắc phong Chế Thắng Hỏa Diệu Đại Vương, gia phong Tiên Hương Thánh mẫu

Đức đệ nhị đỉnh thượng cao sơn triều Mường Sơn tinh công chúa Lê Mại Đại Vương

Đức đệ tam Thủy phủ, Lân nữ Công Chúa 

Đức đệ tứ khâm sai Thánh Mẫu, tứ vị chầu bà, năm tòa quan lớn Mười dinh các quan, mười hai Tiên Cô

Con xin cung thỉnh Cô Tám Đồi Chè, mười hai thánh cậu, Ngũ hổ Đại tướng, Thanh Hoàng Bạch Xà Đại tướng.

Hôm nay là …

Tín chủ con là ………..

Ngụ tại:……………………………

Cùng toàn thể gia đình đến điện (phủ, đền) chấp tay kính lễ khấu đầu vọng bái.

Lòng con thành khẩn, dạ con thiết tha kính dâng lễ vật con cúi xin các ngài xét thương cứu độ cho gia đình con tiêu trừ tai nạn điều lành thường tới, cầu tài được tài, cầu lộc được lộc, cầu bình an được bình an. 

Nam mô a di đà phật! (3 lần)

Đền Cô Tám Đồi Chè ở đâu? Cách di chuyển đến đền 

Địa chỉ: Phong Mục, xã Châu Lộc, huyện Hậu Lộc, Thanh Hóa.

Giờ mở cửa: 24h

Ngoài đền Cô Tám Đồi Chè Thanh Hóa này, cô cũng được thờ vọng tại đền Cô Tám Đồi Chè Thái Nguyên và tại ban của một số ngôi đền khác. Đền Cô trước đây hết sức lụp xụp, nhưng nay do nhiều người hảo tâm công đức nên được xây dựng lại với khang trang và uy nguy hơn cả. 

Đền cô có 4 cung thờ chính. Trải dài từ ngoài vào trong, cung ngoài cùng thờ Tam Tòa Thánh Mẫu, cung bên trong thờ Ngũ Vị Tôn Quan, cung tiếp theo thờ bà Chúa Sơn Trang. Trong cùng là cung chính thờ Cô Tám. Tượng cô được đặt uy nghiêm trong khảm thờ gỗ sơn son thiếc vàng với màn phủ che bên ngoài.

Để đi lễ đền Cô Tám Đồi Chè, bạn có thể kết hợp đi lễ đền Mẫu Thoải đền Hàn và đền Cô Bơ. Bởi 3 ngôi đền thiêng này đều nằm trong cùng một khu vực thuộc ngã 3 đê Tả sông Lèn

Bạn có thể di chuyển giữa 3 ngôi đền bằng đường bộ hoặc đường thủy

VĂN CÔ TÁM ĐỒI CHÈ


Trên Ba Bông dưới lại Thác Hàn
Ai lên Phong Mục lại sang Đồi Chè
Đền thờ trướng rủ màn che
Có Tiên Cô Tám hái chè trên non
Lắng nghe chim hót véo von
Có Tiên Cô Tám hái chè non trên ngàn
Lá chè làm thuốc làm thang
Búp chè trị bệnh trần gian cô cứu người
Khô cằn cô lại cho tươi
Tay cô vun xới cho đời nở hoa
Đầu non thỏ lặn ác tà
Lẵng hoa cô quảy đường xa đi về
Gập ghềnh trăm suối ngàn khe
Thác Hàn Phong Mục lối về Đền Cô
Đồi Chè cây thị nhấp nhô
Lối sang Cẩm Thủy lối vô Đò lèn
Minh Tân phố Đò Lèn tên đặt
Phủ Hà Trung thuộc đất Thanh hoa
Có Cô Tám Thượng hay là
Nơi gần kính trọng nơi xa lai hàng
Chốn đền Hàn cô vào khâm mệnh
Mẫu ban quyền cô được quản cai
Vào ra áo thắm thơ bài
Tay đeo vòng bạc chân hài thêu hoa
Giọng mường giọng mán reo ca
Líu lô giọng thổ ngân nga giọng mèo
Rừng già nước chảy suối reo
Cây xanh rẽ lối đường đèo quanh co
Bốn mùa ngọan cảnh ngao du
Khi chơi Thiên Bản Đông Phù Giáp Ba
Có phen Cô nhớ quê nhà
Đò lèn Phong Mục thượng tòa quỳ tâu
Ngự thuyền rồng dạo chơi thủy đạo
Đua tiếng hò tiêng sáo xênh xang
Khi vui bắt bướm gảy đàn
Mặt trời đương lặn nắng vàng nhạt phai
Bên mình túi vóc dao quai
Lược cài trâm giắt tóc mai dịu dàng
Thỉnh cô chứng giáng đàn tràng
Khuông phù đệ tử an khang thọ trường

------------

 

 

Mẫu Đệ Tam Thoải Phủ
 
Mẫu Thoải thuộc một trong ba vị thánh Mẫu quyền phép tối cao trong Tam Tòa Thánh Mẫu.Mẫu Thoải linh thiêng phù hộ độ trì cho quốc thái dân an thiên hạ thái bình mưa gió thuận hòa vạn vật tốt tươi
 
 
Mẫu Thoải là ai?
 
Mẫu Thoải là vị thánh mẫu chịu trách nhiệm quản lý vùng sông nước. Chữ “thoải” là đọc chệch từ chữ “thủy” có nghĩa là nước. Mẫu còn có nhiều danh hiệu khác như Mẫu Đệ Tam Thủy Cung, Xích Lân Công Chúa, Động Đình Công Chúa Ngọc Hồ Thần Nữ, Thủy Tiên Công Chúa, Thủy Cung Thánh Mẫu.
 
Trong số những Thủy Phúc Thần trong tín ngưỡng người Việt thì Mẫu Thoải là vị Thần quan trọng nhất. Theo tư duy dân gian thì Mẫu tức là mẹ, là người khởi nguyên sáng tạo ra vạn vật thế gian. Theo đó, Mẫu Thoải là người khởi nguyên sáng tạo ra mọi miền sông nước như biển, hồ, ao, đầm, … Mẫu Thoải hội tụ, hồi quang và tỏa chiếu sức mạnh của mọi Thủy Thần, là người có thế lực và quyền năng điều hòa gió, mưa, nguồn nước.
 
Mẫu là con gái út của Vua Cha Bát Hải Động Đình. Sự tích Mẫu Thoải được ghi rõ trong bản văn mẫu. Ngoài ra còn có tác phẩm “Liễu Nghị truyền thư” (Truyện Liễu Nghị).
 
 
Sự tích mẫu Đệ Tam Thoải Phủ
 
Mẫu Đệ Tam Thoải Phủ có rất nhiều sự tích khác nhau không thống nhất.
 
Phổ biến nhất là sự tích dựa trên tài liệu là bản văn Mẫu Thoải và “Liễu Nghị Thư truyền thư”. Sự tích mẫu Đệ Tam Thoải Phủ như sau. Tương truyền, mẫu vốn là con gái út của Vua Cha Bát Hải Động Đình, sống dưới thời vua Hùng Vương. Đến khi lớn lên, tiên chúa được Vua Cha gả cho Kinh Xuyên – thần ốc trên núi. Vợ chồng sống hòa thuận đầm ấm cho đến khi Kinh Xuyên lấy tiểu thiếp là Thảo Mai. Khi Kinh Xuyên đi vắng, tiên chúa ngồi khâu áo rồi bị kim đâm vô ngón tay đã lấy mảnh vải trắng thấm máu rồi bỏ vào thùng rác nhưng bị Thảo Mai giấu đi. Kinh Xuyên trở về Thảo Mai gáo gở vu oan cho Tiên Chúa là cắt máu thề nguyền tư thông cùng kẻ khác. Kính Xuyên không luận trước sau mà đem đầy Tiên Chúa vào chốn rừng sâu mặc cho thú dữ ăn thịt. Khi ở trong rừng, lúc thì chúa hiện thành long xà, lúc chúa hiện thành mỹ nhân trút âu sầu với cỏ cây hoa lá. Lòng từ bi của tiên chúa khiến cho mọi loài thú đều yêu mến và nghe lời. Cũng hay cho con tạo xoay vần mà Tiên Chúa đã gặp được Liễu Nghị đang trên đường đi lai kinh ứng thi đi ngang qua. Tiên chúa đã viết thư và gửi Liễu Nghị cùng một chiếc kim thoa nhờ chàng gửi tới thủy cung. Liễu Nghị nghe theo mà tới Bể Đông. Chàng dùng kim thoa gõ vào cây ngô đồng như lời tiên chúa dặn thì y như rằng làn nước rẽ làm đôi đón chàng tới thủy cung. Ở đây chàng đã tâu trình bức thư được tiên chúa gửi nhờ tới Vua Cha. Đọc xong, Vua Cha Thoải Quốc nổi giận sai Trưởng Tử Xích Long Hầu đi đón tiên chúa hồi cung và lập tức trừng trị Kính Xuyên và Thảo Mai. Đồng thời gắn kết mối nhân duyên của tiên chúa với Liễu Nghị. Trong bản văn của Mẫu Đệ Tam chép:
 
“Thỉnh mời Đệ Tam Thánh Tiên
 
Xích Lân Long Nữ ngự miền Thoải Cung
 
Kính Xuyên sớm kết loan phòng
 
Thảo Mai tiểu thiếp ra lòng gieo oan
 
Kinh Xuyên chẳng xét ngay gian
 
Vàng mười nỡ để lầm than sao đành
 
Lòng trời thương kẻ ngay lành
 
Xui quan Liễu Nghị nho sinh tìm vào…”
 
Dựa trên tích này cùng với lòng tín ngưỡng trong nhân dân với Thủy tổ thì Mẫu Đệ Tam được huyền hóa, tái hiện trong các triều đình phong kiến như bà Nguyễn Thị Châu (Châu Nương) ở Kỳ Anh, Hà Tĩnh thời Lê – Nguyễn với tôn xưng mẫu Hàn Sơn. Tuy nhiên, dù được huyền hóa nhiều nhưng tích chung vẫn lấy theo “Liễu Nghị thư”.
 
Một vài sự tích Mẫu Thoải được lưu truyền khác lại cho rằng Mẫu là con gái của Động Đình Quân và là mẹ của Lạc Long Quân.
 
Ở vùng Nghệ An, nhân dân tương truyền rằng lúc mới mở nước, Kinh Dương Vương đi xem cảnh núi sông, tìm nơi đất lành để xây dựng kinh đô. Khi về tới phương nam, đến vùng Ngàn Hống, thấy cảnh núi non hùng vĩ, 99 ngọn cao vút trấn trên tiên Hội, có thế rồng vây hổ chầu, Dương Vương lấy làm vừa ý bèn sai đắp thành dưới núi, xây dựng lâu đài thành lũy,… Công việc tạm xong, vương lại cưỡi truyền trở ra phương bắc tiếp tục cuộc tuần du. Thuyền của vua theo dòng Thanh Long (tên cũ của Sông Lam) đến gần cửa Hội, bỗng thấy người con gái mặt Hoa da phấn, tóc đen mườn mượt, má đỏ hây hây từ dưới nước nổi lên. Sau khi tự xưng là Thần Long, người con gái ấy trở thành vợ của An Dương Vương và là mẹ của Lạc Long Quân – vị vua Hùng Vương thứ nhất.
 
Ki Hồng Bàng thị trong phần Ngoại ký của Đại Việt sử ký toàn thư viết: “Kinh Dương Vương trị vì phương Nam, gọi tên là nước Xích Quỷ, Vua lấy con gái của Động Đình Quân tên là Thần Long, sinh ra Lạc Long Quân.” Hay trong Lĩnh Nam chích quái cũng kể thêm: “Kinh Dương Vương có tài đi dưới thủy phủ, lấy con gái của hồ Động Đình là Long Vương, sinh ra Sùng Lãm, hiệu là Lạc Long Quân.” Hay Phan Huy Chú viết Lịch triều hiến chương loại chí – quyển VI phần nhân vật chí coi Kinh Dương Vương là dòng dõi thần Nông, vua khởi đầu nước Việt ta. Khi trước cháu ba đời Thần Nông là Đế Minh, đi tuần thú ở biển Nam, gặp nàng Vụ Tiên rồi lấy làm vợ, đẻ con là Lộc Tục. Lộc Tục có Thánh Đức, Đế Minh yêu lắm, muốn lập là con nối, nhưng Lộc Tục cố nhường cho anh là Nghi; Đế Minh liền phong cho Lộc Tục ở đất Việt (miền nam), tức Kinh Dương Vương lấy con gái Động Đình Quân, đẻ ra Lạc Long Quân.
 
Như vậy 3 bộ sử giá trị nhất của Việt Nam thời xưa đã ghi nhận vợ của Kinh Dương Vương tức Mẫu Thoải chính là mẹ của Vua Hùng Vương Thứ nhất.
Mẫu Thoải 4 lần hiển linh giúp Vua cứu nước
Mẫu hiển linh giúp vua Lý Thái Tổ
 
Tương truyền vùng Đồng Bằng Bắc Bộ thường xuyên có lũ lụt. Khi vua Lý Thái Tổ dời đô về Thăng Long, ông bắt đầu công việc trị thủy. Công việc kéo dài đến tận thời vua Lý Thái Tông mới căn bản xong. Các đoạn đê được nối liền vào với nhau và có quy mô rộng lớn như ngày nay. Trong suốt quá trình xây dựng hệ thống đê, lũ lụt vẫn thường xuyên xảy ra gây khó khăn cho nhân dân. Mẫu Thoải đã phái các thủy thần, tướng lĩnh của mình đến các làng ven Thăng Long để âm phù giúp dân đắp đê chống lụt. Thần tích này còn được ghi tại các làng Nhật Chiêu, Quảng Bá, Tây Hồ, Yên Phụ,…
Mẫu hiển linh giúp Trần Hưng Đạo
 
Quân Nguyên xâm lăng đất nước, vua Trần Nhân Tông khi ấy triệu Hưng Đạo Vương phong làm Đại Nguyên Soái cất quân đi dẹp giặc. Lúc ấy khi đi ngang qua sông Xâm Miện (khu đền Dầm) thì mặt trời vừa lặn. Ông cho quân lính cắm trại dừng chân bên bãi sông còn mình thì ở lại trên thuyền.
 
Đêm đến, trong cơn mơ, ông thấy một người con gái áo trắng, mang đai ngọc lưu ly cưỡi rồng vàng đến trước mặt ông và nói rằng: “Thiếp là con gái Long Vương là Thủy Tinh Ngọc Dung công chúa, được lệnh đến giúp ngài diệt giặc. Ngài hãy đem quân đuổi giặc, thiếp nguyện âm phù trợ giúp.” Tỉnh dậy ông biết là mộng báo có người phù trợ bèn xua quân đại chiến với giặc. Hai bên giao tranh ác liệt thì gió bấc thổi lên, nước sông cuồn cuộn, sóng nổi ngập trời làm cho chiến thuyền của giặc bị nhấn chìm tả tơi.
 
Thắng trận trở về, ông tâu vua báo công và nêu rõ việc Ngọc Dung báo mộng. Vua sai sứ giải về Xâm Miện vào miếu (nay là đền Dầm) bái tạ và ban sắc phong:
 
“Hoàng Long tĩnh mạch, đoan trang
 
Anh linh Thục Diệu phu nhân Trung Đẳng Thần.”
Mẫu hiển linh giúp vua Lê Thánh Tông
 
Tích này liên quan đến ngôi đền Hàn Sơn nổi tiếng tại Thanh Hóa. Tích xảy ra trong quá trình vua Lê đem quân đi đánh Chiêm Thành. Khi thuyền đi qua sông Lèn thì gặp một trận cuồng phong. Vua bèn lập đàn tràng để xin các vị thần phù trợ. Mẫu Thoải hay tin đã phái một nữ tướng đến trị. Ngay lập tức sông yên, gió lặng.
 
Sau khi thắng trận trở về, nhà vua nhớ công ơn, phong tặng cho Mẫu làm Thủy Phủ Thần Nữ tại đền Hàn Sơn. Từ đó, ngôi đền trở thành một trong những đền thờ Mẫu Thoải nổi tiếng nhất vùng.
Mẫu hiển linh giúp vua Lê Thần Tông
 
Đời vua Lê Thần Tông, mẫu Thoải hiển linh phù âm giúp dân chống lụt xua đuổi thủy quái khi nhân dân gặp nạn nước sông Hồng dâng cao bất thường tràn vào cả Yên Phụ. Nhà vua phải đích thân hành lễ Nam Giao (Lễ tế cáo trời đất) để cầu các vị thần linh phù trợ.
Chú ý khi sắm lễ Mẫu Thoải
 
Mẫu Thoải chứng tòa Thánh Mẫu màu trắng nên cần chú ý khi sắm lễ dâng mẫu phải sắm các lễ vật có màu trắng làm chủ đạo. Tại hầu hết các đền thờ mẫu Thoải, các lễ vật cơ bản phải sắm gồm một đĩa hoa, đĩa quả với nhiều loại quả khác nhau, cơi trầu, thẻ hương, giấy tiền, cút rượu, xôi thịt và một cánh sớ.
 
Thông thường sau khi dâng tiến những lễ vật này, đợi hết một tuần hương, bạn sẽ phải hạ toàn bộ những lễ vật này xuống, riêng cánh sớ và giấy tiền phải đem đi hóa
 
Khi ở chốn Động Đình bà vốn là con vua cha Bát Hải nên được gọi là: “Động Đình Trung Công Chúa Ngọc Hồ Thần Nữ”, sau này bà còn có danh hiệu: “Bạch Ngọc Thủy Tinh Xích Lân Long Nữ Công Chúa”.
 
Vậy nên trong văn thỉnh Đức Thánh Mẫu cũng có hát rằng:
 
Thỉnh mời Đệ Tam Thánh Tiên
 
Xích Lân Long Nữ ngự miền Thoải Cung
 
Kính Xuyên sớm kết loan phòng
 
Thảo Mai tiểu thiếp ra lòng gieo oan
 
Kinh Xuyên chẳng xét ngay gian
 
Vàng mười nỡ để lầm than sao đành
 
Lòng trời thương kẻ ngay lành
 
Xui quan Liễu Nghị nho sinh tìm vào…
 
Đền thờ Mẫu Thoải có khá nhiều nhưng hầu hết đều do lòng thành kính của nhân dân hoặc do nơi cửa sông cửa biển chứ hầu như không có dấu tích của Mẫu vì Mẫu không giáng trần.Nổi tiếng nhất có Đền Mẫu Thác Hàn Sơn ở huyện Hà Trung Thanh Hóa nơi bến Đò Lèn còn có Đền Mẫu Thoải ở thị xã Lạng Sơn gần sông Kì Cùng và có ngôi đền ở bến sông Hồng gần cầu Chương Dương Gia Lâm cũng tên là Đền Mẫu Thoải hay còn gọi là Đền Cửa Sông.
 
Mẫu Đệ Tam hay còn gọi là Mẫu Thoải ( chữ THOẢI đọc chệch từ chữ THỦY) hay còn gọi là Thủy cung Thánh Mẫu Cùng với Mẫu Thượng Ngàn Mẫu Thoải ra đời trước cả Mẫu Liễu Hạnh.Trong Tam Tòa Thánh Mẫu Mẫu Thoải đứng hàng thứ ba.
Có rất nhiều người trong chúng ta sẽ muốn tìm hiểu xem Mẫu Thoải là ai?
Không giống như Mẫu Liễu Hạnh Mẫu Thoải và Mẫu Thượng Ngàn có nhiều sự tích khác nhau không thống nhất.
 
 
1- Tài liệu thứ nhất: (Tại vùng Thái Bình, Nghệ An)
 
A- Vùng Thái Bình: Từ thuở khai sinh lập địa, mở mang đất nước, vua Kinh Dương đi chu du khắp thiên hạ và gặp được một người con gái có nhan sắc tuyệt trần. Vua liền kết duyên cùng nàng
Nàng chính là con gái của Long Vương.
Sau đó, bà đã sinh ra Sùng Lâm ( là vua Lạc Long Quân).
Bà là người của thủy cung nên được giao cho cai quản các vùng biển, sông, ao, hồ...
 
B-:Vùng Nghệ An: Tương truyền rằng vua Kình Dương đã gặp con gái của Long Vương tại sông Thanh Long ( ngàu nay gọi là sông Lam).
Còn truyền thuyết ở đền Dùm ( Tuyên Quang) đền Xâm Thị và đền Dầm thì cũng nói Mẫu Thoải là con gái của Long Vương nhưng không kể về chuyện họ sinh ra Lạc Long Quân.
 
THẦN TÍCH CỦA MẪU ĐỆ TAM:
 
 
Mẫu Đệ Tam là con gái của Long Vương kết duyên cùng Kinh Xuyên ( là con trai của vua đất)
Khi đức lang quân đi vắng bà ngồi khâu vá bị kim đâm vô ngón tay đã lấy mảnh vải trắng thấm máu rồi bỏ vào thùng đựng rác thải nhưng bị Thảo Mai ( một tì thiếp của Kinh Xuyên) vốn mang lòng đố kị ghen ghét với bà, đã giấu nó đi.
Đến khi Kinh xuyên trở về Thảo Mai đã mang ra vu oan cho bà là: Ở nhà, bà đã cắt máu thề nguyền tư thông cùng kẻ khác.
Kinh Xuyên bỏ ngoài tai lời thanh minh của bà, ghen tuông mù quáng, một mực sai người đóng cũi, bỏ vợ vô đó, mang vào rừng sâu để mặc cho thú dữ ăn thịt.
Ở chốn rừng sâu, núi thẳm ý, hoàng hậu lại được muông thú yêu mến, chúng mang hoa quả và nước uống đến dâng cho Người.
Ông trời thương đã ban đức hiếu sinh nên có một chàng thư sinh nghèo tên là Liễu Nghi ( quê đất Thanh Miện) lên kinh dự thi chẳng may đi lạc đường đã đi ngang qua chỗ bà bị đầy ải.
Thấy tình cảnh đáng thương của người phụ nữ đó, đã đến để hỏi rõ sự tình.
Bà đã kể cho chàng nghe hết đầu đuôi câu chuyện và nhờ chàng giúp đỡ.
Liễu nghi mang giúp bức thư của bà ra sông Ngân Hán là mái Long Giai ngoài biển Đông.Tại đây chàng nhìn thấy cây ngô đồng liền rút kim thoa gõ vào cây ba lần
 
Tức thì gió giật đùng đùng nổi lên mưa đổ xuống như trút nước biển động ầm ầm...Giữa dòng đó chợt thấy xuất hiện đôi bạch xà, chàng liền trình bày mọi việc và chúng đã vâng lệnh đưa chàng xuống thủy cung, để trao bức thư cho Long Vương.
Sau khi hiểu rõ sự tình vua Thủy tề tức giận sai người đi bắt Kinh Xuyên và Thảo Mai về hỏi tội.
Sau đó vua còn truyền cho Trưởng Tử Xích Lân lên rừng đón bà về thủy cung.
Vua cha đã cho bà được kết duyên cùng Liễu Nghi giao cho chàng giữ chức QUỐC TẾ THỦY QUAN.
 
Trong văn hầu Mẫu Đệ Tam có đoạn nhắc đến giai thoại này:
“Thỉnh mời Đệ Tam ThánhTiên
Xích Lân Long Nữ ngự miền Thoải Cung
Kính Xuyên sớm kết loan phòng
Thảo Mai tiểu thiếp ra lòng gieo oan
Kinh Xuyên chẳng xét ngay gian
Vàng mười nỡ để lầm than sao đành
Lòng trời thương kẻ ngay lành
Xui quan Liễu Nghị nho sinh tìm vào…
 
2-Truyền thuyết Mẫu Thoải là vợ vua Thủy Tề:
Tương truyền, Mẫu Thoải là vợ vua Thủy Tề.
Ở đây vua Thủy Tề trông coi các việc ở biển, còn bà thì trông coi các việc ở sông suối.
Nước ta, sông suối có ở khắp nơi nên Mẫu cũng có đền thờ ở các bến sông lớn.
.Ở làng Viêm Xá, Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh, Mẫu Thoải được thờ là Thành Hoàng, có sắc phong đề:
"Nhữ Nương Nam nữ Nam Hải Đại Vương" .
 
3- Truyền thuyết Mẫu Thoải là hóa thân của ba nàng công chúa của Lạc Long Quân và Mẫu Âu Cơ.
Tương truyền rằng, Lạc Long quân giao cho ba nàng công chúa cai quản biển nước Nam là Thủy tinh động đình Ngọc nữ công chúa, Hoàng Bà Đoan khiết phu nhân và Tam Giang công chúa. Ba bà đóng dinh cơ ở sông Nguyệt Đức và có nhiệm vụ coi sóc sông nước, luồng lạc, dạy dân chế tạo thuyền bè, đan lưới bắt cá, chế ngự các vị thần mưa, thần gió nếu các vị này dám đến xâm hại.
Các bà còn làm mưa cứu hạn và giúp dân chống lụt
 
ĐỀN MẪU THOẢI ĐƯỢC THỜ Ở NHỮNG NƠI :
 
Tuyên Quang có 3 ngôi đền thờ Mẫu Thoải: ĐỀN HẠ (Đền Tam Cờ), ĐỀN Ỷ LA ĐỀN THƯỢNG
Đền Hạ là đền gốc còn hai đền kia là đền được chia tách từ Đền Hạ
Đây là ba ngôi đền chính của Mẫu Thoải được gắn với sự phát tích của Mẫu.
Mẫu Thoải có công trạng phù các triều đại đánh giặc giữ nước.
Dấu tích của Mẫu Thoải phù cho Trần Nhân Tông đánh quân Nguyên được phát tiết tại vùng Thường Tín - Hà Nội. Tiêu biểu về dấu tích này là đền XÂM THỊ ở xã Hồng Vân ĐỀN DẦM xã Ninh Sở.
Đây được coi là hai ngôi đền chính của Mẫu Thoải gắn với tích Mẫu hiển linh phù vua Trần.
Đền Mẫu Thác Hàn - Thanh Hóa là dấu tích của Mẫu Thoải hiển linh giúp vua Lê Lợi.
Ngoài ra Mẫu Thoải còn được thờ vọng ở nhiều nơi.Có lẽ phải kể đến Đền Mẫu Thoải tại Lạng Sơn, Đền Ghềnh - Gia Lâm...
 
Ngày tiệc chính của Mẫu Thoải là ngày 10/6 âm lịch thường được tổ chức long trọng nhất là ở Đền Mẫu Thác Hàn Sơn.
------------

+ Ngày 24/6: Tiệc Quan Lớn Đệ Tam (Thuỷ Quốc Bơ Phủ Vương Quan Lảnh Giang Xích Đằng)
 
SỰ TÍCH QUAN ĐỆ TAM THOẢI PHỦ
- Tên đầy đủ: Đệ Tam Thượng thiên hoàng thái tử vương quan
- Tước phong: Thủy tào điển sứ – Đệ tam thủy thần nhạc đại vương thượng đẳng tối linh thần.
- Nhiệm vụ:
- Đền thờ chính: Đền thờ Ngài được lập ở Lạng Sơn, Hưng Yên, Lảnh giang linh từ (Nam Hà) và các cửa sông. Đền Ngài còn ở Thái Bình đằng sau đền Đồng Bằng phía đường 10 đi Hải Phòng.
Thân thế: Đền Lảnh Giang (nhân dân thường gọi là Đền Lảnh) nằm trong địa phận thôn Yên Lạc, xã Mộc Nam, huyện Duy Tiên, Hà Nam. Theo Thần Phả, Đền này thờ Tam vị danh thần họ Phạm đời Hùng Vương thứ 18, Tiên Dung công chúa và Chử Đồng Tử.
- Quan lớn vốn là con trai thứ ba của Vua Cha Bát Hải Động Đình, là người rất được vua cha yêu quý nên giao quyền cai quản chốn Long Giai Động Đình, cận bên cạnh phụ vương. Dưới thời Hùng Vương, theo lệnh vua cha, ông cùng hai người em (có sách nói là hai người thân cận) lên giúp Vua Hùng chỉ huy thuỷ binh, lúc này ba vị giáng ở đất Hà Nam, được nhân dân tôn thành “Tam Vị Đại Vương”, trong đó, Quan Đệ Tam là người anh cả trong ba người. Nhưng lại có điển tích nói rằng, chỉ có một mình Quan Tam Phủ giáng trần vào nhà quý tộc dưới thời Hùng Vương, ông trở thành vị tướng quân thống lĩnh ba quân thuỷ lục. Sau đó trong một trận quyết chiến, ông hy sinh (phần thượng thân (đầu) và hạ thân (mình) trôi về hai bên bờ con sông Lục Đầu). Ông hoá đi, về chầu Long Cung, là người cầm cân nảy mực, thông tri Tam Giới, quyền cai các thanh đồng đạo quan (vậy nên có khi người ta còn gọi là Ông Cai Đầu Đồng). Khi thanh nhàn ông truyền ba quân tập hợp thuyền bè, dạo chơi khắp miền, trên sông dưới suối, phù hộ cho ngư dân.
- Hầu như những người đã ra hầu Tứ Phủ, khi hầu hàng Quan Lớn, ai cũng phải hầu về Quan Đệ Tam. Có thể coi ông là vị Quan Lớn tài danh hàng đầu. Khi ngự đồng, ông mặc áo trắng thêu rồng, hổ phù; làm lễ tấu hương, khai quang, chứng sớ điệp và ông múa đôi song kiếm. Khi có đại tiệc khai đàn mở phủ, người ta thỉnh quan về chứng đàn Thoải Phủ (gồm có long chu phượng mã, lốt tam đầu cửu vĩ…: tất cả đều màu trắng).
-Trong hàng quan lớn, vì danh tiếng bậc nhất nên Quan Lớn Đệ Tam cũng được lập đền thờ phụng ở khắp nơi. Nhưng đầu tiên phải kể đến Đền Lảnh Giang ở Mộc Nam, Duy Tiên, Hà Nam (gần Hưng Yên) tương truyền là nơi hạ thân của ông trôi về, sau đó phải nói đến Đền Xích Đằng cũng thuộc Hà Nam (hai ngôi đền này chỉ cách nhau cây cầu Yên Lệnh nối hai bờ sông Lục Đầu) là nơi thờ thượng thân của ngài. Ngoài ra còn có Đền Cửa Đông tại thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn (gần Đền Mẫu Thoải)
- Căn cứ vào thần tích “Hùng triều nhất vị thuỷ thần xuất thế sự tích” (sự tích ra đời một vị thuỷ thần triều vua Hùng(() Thần tích này do Bát phẩm thư lại Nguyễn Hiền, tuân theo bản cũ triều trước, chép lại vào niên hiệu Vĩnh Hựu thứ 2 (1736). Thần tích đang được lưu giữ tại Đền Lảnh.) cùng các sắc phong, câu đối, cũng như truyền thuyết địa phương thì lịch sử ba vị tướng họ Phạm thời Hùng Vương được thờ ở Đền Lảnh Giang như sau:
Ngày xưa, ở trang An Cố, huyện Thuỵ Anh, phủ Thái Ninh, trấn Sơn Nam có vợ chồng ông Phạm Túc ăn ở phúc đức, chỉ hiềm một nỗi ông bà tuổi đã cao mà vẫn chưa sinh được một mụn con nối dõi.
Một đêm trăng thanh gió mát, vợ ông (bà Trần Thị Ngoạn) đang dạo chơi bỗng gặp một người con gái nhà nghèo, cha mẹ mất sớm, không có anh em thân thích, đi tha phương cầu thực. Động lòng trắc ẩn, bà Ngoạn liền đón cô về làm con và đặt tên là Quý. Ông bà coi nàng Quý như con ruột của mình. Vài năm sau, trong lúc gia đình đang vui vầy, đột nhiên ông Túc mắc bệnh rồi qua đời. Hai mẹ con đã tìm một nơi đất tốt để an táng cho ông.
Sau ba năm để tang cha, một hôm nàng Quý ra bờ sông tắm gội, ngâm mình dưới nước, bỗng mặt nước nổi sóng, từ phía xa một con thuồng luồng khổng lồ bơi tới quấn lấy nàng, khiến nàng kinh hoàng ngất lịm. Lúc tỉnh dậy thì thấy mình nằm bên bờ sông và thuồng luồng đã bỏ đi. Từ hôm đó nàng thấy trong lòng chuyển động và mang thai. Không chịu được những lời gièm pha khinh thị, nàng đành phải trốn khỏi làng đến xin ngụ cư ở Trang Hoa Giám (nay thuộc thôn Yên Lạc). Rồi đến ngày mùng 10 tháng Giêng năm Tân Tỵ, nàng Quý chuyển dạ, sinh ra một cái bọc. Cho là điểm chẳng lành, nàng liền đem chiếc bọc đó quẳng xuống sông. Chiếc bọc trôi theo dòng nước tới trang Đào Động (xã An Lễ, huyện Quỳnh Phụ, Thái Bình), mắc phải lưới của ông Nguyễn Minh. Sau nhiều lần gỡ bỏ, nhưng bọc vẫn cứ mắc vào lưới. Ông Minh thấy lạ bèn khấn: “Nếu bọc này quả là linh thiêng thì cho tôi lấy dao rạch thử xem sao” Khấn xong ông Minh rạch ra, bỗng thấy ba con rắn từ trong bọc trườn xuống sông. Con thứ nhất theo hướng về cửa sông Đào Động, con thứ hai về Thanh Do, con thứ ba về trang Hoa Giám – nơi nàng Quý đang sinh sống. Nhân dân các trang ấp trông thấy đều sợ hãi, cùng nhau ra bờ sông tế tụng, xin được lập sinh từ để thờ.
Lạ thay, vào một đêm trăng sáng, trời bỗng nổi cơn giông, ngoài cửa sông sấm sét nổi lên dữ dội. Đến gần sáng, gió mưa ngớt dần, mọi người đều thấy dưới sông có tiếng người ngâm vịnh:
Sinh là tướng, hóa là thần
Tiếng thơm còn ở trong dân muôi đời
Khi nào giặc dã khắp nơi
Bọn ta mới trở thành người thế gian
- Tương truyền ba vị tướng thời Hùng là con của Bát Hải Long Vương và Nàng Quý. Nàng Quý là con nuôi của vợ chồng ông Phạm Túc. Do vậy về sau nhân dân ghép họ Phạm cho các ông.).
Bấy giờ Thục Phán – thuộc dòng dõi tôn thất vua Hùng, thấy Duệ Vương tuổi đã cao mà không có con trai, nên có ý định cướp ngôi. Thục Phán cầu viện binh phương Bắc, chia quân làm 5 đường thuỷ bộ cùng một lúc đánh vào kinh đô. Duệ Vương cho gọi tướng sĩ lập đàn cầu đảo giữa trời đất. Đêm ấy nhà vua chiêm bao thấy có người sứ giả mặc áo xanh từ trên trời bước xuống sân rồng, truyền rằng: “Nhà vua nên triệu ba vị thuỷ thần sinh ở đạo Sơn Nam, hiện còn là hình con rắn thì tất sẽ dẹp xong được giặc”. Tỉnh dậy Duệ Vương liền cho sứ giả theo đường chỉ dẫn trong giấc mộng tìm về đạo Sơn Nam. Sứ giả vừa đến trang Đào Động (nay thuộc xã An Lễ, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình), bỗng nhiên trời đổ mưa to, sấm sét nổi lên dữ dội ở cửa sông. Một người mặt rồng mình cá chép, cao tám thước đứng trước sứ giả xưng tên là Phạm Vĩnh, xin được đi dẹp giặc. Sau đó, ông Phạm Vĩnh gọi hai em đến bái yết thân mẫu, rồi cùng nhau đi yết kiến Duệ Vương. Vua Hùng liền phong cho ông là Trấn Tây, giữ các vùng Sơn Nam, ái Châu, Hoan Châu. Hai em và các tướng hợp lại, dưới sự chỉ huy của ông, 5 đạo quân Thục đều bị tiêu diệt.
Nghe tin thắng trận, Duệ Vương liền truyền lệnh giết trâu, mổ bò khao thưởng quân sĩ. Vì có công lớn nên nhà vua lại phong cho ông là “Nhạc Phủ Ngư Thượng Đẳng Thần” nhưng ông không nhận, chỉ xin cho dân Đào Động hàng năm không phải chịu sưu dịch. Được vua Hùng đồng ý, ông Phạm Vĩnh cùng hai em về quê hương bái yết thân mẫu và khao thưởng gia thần, dân chúng.
Thấy ở bên sông có khu đất tốt, ông Phạm Vĩnh cho lập đồn dinh cư trú, ban cho dân 10 hốt vàng để mua ruộng đất, khuyến khích nông trang, khuyên mọi người làm việc thiện lương. Nhờ công đức của ông mà nhân dân khắp vùng được sống yên vui.
Ngày 25 tháng 8 năm Bính Dần, trong lúc ông đang ngự tại cung thất của mình, bỗng dưng giữa ban ngày trời đất tối sầm, mưa gió ầm ào đổ xuống. Khi trời quang mây tạnh, dân làng không nhìn thấy ông đâu nữa. Cho là điều kỳ lạ, nhân dân trang Đào Động làm biểu tâu với triều đình.
Được tin ông Phạm Vĩnh về trời, nhà vua liền gia phong cho ông là “Trấn Tây An Tam Kỳ Linh Ưng Thái Thượng Đẳng Thần”, đồng thời đặt lệ quốc lễ, ban sắc chỉ cùng 400 quan tiền cho dân Đào Động rước thần hiệu, tu sửa đền miếu để phụng thờ. Các triều đại sau đó cũng có sắc phong cho ông (hiện trong đền còn giữ 12 sắc phong. Sắc sớm nhất là đời Lê Cảnh Hưng, sắc muộn nhất vào triều Nguyễn, niên hiệu Duy Tân thứ 7, ngày 18 tháng 10 có chép: “Sắc cho xã An Lạc, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam phụng thờ Trấn An Tây Nam Tam Kỳ Linh ứng triều Hùng thiêng liêng rõ rệt, trước đây chưa có dự phong. Gặp nay trẫm vâng chịu mệnh lớn, nghĩ đến công thần biểu dương phong cho vị thần, phò giúp nền nếp quốc gia, cho phép y theo lệ cũ kính thờ”.
- Hàng năm tại Đền Lảnh Giang, nhân dân địa phương tổ chức 2 kỳ lễ hội chính vào các ngày từ 18 đến 25 tháng 6 và tháng 8 âm lịch. Theo tục lệ địa phương thì kỳ lễ hội tháng 6 là để dành cho các khách thập phương, còn kỳ lễ hội tháng 8 chủ yếu dành cho các khách quanh vùng. Những ngày này thường gặp nước sông Hồng dâng cao nhưng lòng dân vẫn hướng về ngày lễ hội. Có nhiều năm nước ngập nhưng các thiện nam tín nữ cùng nhân dân bản địa vẫn bơi thuyền ra đền dâng lễ và thực hiện đầy đủ các nghi thức để tỏ lòng tôn kính tam vị danh thần họ Phạm, Tiên Dung và Chử Đồng Tử.
- Trong báo cáo ngày 16/5/1996, cơ quan Bảo tàng lịch sử tỉnh Nam Hà (cũ) có nhận xét: Đền Lảnh Giang là di tích thờ ba vị tướng họ Phạm thời Hùng Duệ Vương có công lao đánh giặc Thục, bảo vệ nền độc lập tự do của dân tộc. Khi đất nước thanh bình, các ông là những người quan tâm, chăm lo đến sản xuất, làm cho đời sống nhân dân ngày một ấm no hạnh phúc... Đền Lảnh Giang là công trình kiến trúc quy mô, uy linh, bề thế, mang đậm nét nghệ thuật kiến trúc và xây dựng cổ truyền của dân tộc. Tại đây còn giữ được nhiều cổ vật thờ cúng có giá trị cao về nghệ thuật.
- Ngày tiệc của Quan Bơ Phủ là ngày 24/6 âm lịch (tương truyền là ngày đản nhật giáng sinh của ông). Vậy nên trong văn hát câu rằng:
“Đản hai tư tháng sáu xưng thần
Khắp Trung, Nam, Bắc muôn dân đảo cầu”
- Khi ông về ngự đồng, khai quang chứng đàn mã sớ điệp, văn thường hát đoạn:
"Lòng thành thắp một chiện nhang
Tấu về Thoải Phủ các ban các toà
Thiên Đình, Thoải Phủ, Diêm La
Tấu về Thoải Phủ Vua Cha Động Đình
Vốn xưa là chúa Thủy Tinh...”
- Ngoài ra để ca ngợi tài đức, công lao của ông, văn cũng hát:
“Giáp bạc bao phen rực lửa hồng
Xông pha trăm trận cũng như không
Ra tay cứu nước trừ nguy biến
Tiếng để ngàn thu với non sông
[…] Gươm thần ba thước tay ngang dọc
Tài dậy trời Tây, chí lấp bể Đông”
- Hay khi nói về những cuộc dạo chơi khắp sơn thoải đại giang của ông, văn thường hát theo điệu dọc:
“Chiếc thuyền nan nổi dòng Xích Bích
Đua mái chèo du lịch bốn phương
Có phen tuần thú sông Thương
Trở ra tỉnh Bắc qua giang Lục Đầu
[…] Có phen chơi ngã ba Bạch Hạc
Bạn loan ngồi đàn hát vui chơi
Dạo xem phong cảnh mọi nơi
Qua hang Anh Vũ sang chơi nước người”
- Và còn có một đoạn rất hay nói về tài phép của quan:
“Hoá tức thì lâu đài điện các
Dâng nước về Thuỷ Quốc một khi
Có phen lấy ngọc lưu ly
Đùng đùng dâng nước phép thì ai đang”
- Từ những giá trị về lịch sử và kiến trúc nghệ thuật cổ truyền dân tộc của Đền Lảnh Giang, ngày 5/11/1996, Bộ Văn hóa Thông tin đã cấp bằng công nhận đền Lảnh Giang là Di tích lịch sử văn hóa quốc gia.
 
------------
 

Ngày 26/6: Tiệc Quan Hoàng Bơ ( Quan Hoàng Ba)

 

Ông Hoàng Bơ( Ông Bơ Thoải)

 

Thần tích Quan Hoàng Bơ

Ông Bơ là một trong ba vị Ông Hoàng hay về ngự nhất. Khi giá ngự đồng, ông mặc áo trắng (có thêu rồng kết uốn thành hình chữ thọ), thắt đai vàng, đầu đội khăn xếp có thắt lét trắng, cài chiếc kim lệch màu trắng bạc.

 

Ngày 26/6: Tiệc Quan Hoàng Bơ ( Quan Hoàng Ba)

Tên húy của Ngài: Phùng Khắc Khoan
Sắc phong tước hiệu: Thượng Đẳng Thần.
Đền thờ chính: Ông Hoàng Bơ không giáng sinh lên trần phàm nên không có đền thờ riêng. Ông thường được coi là ngự trong Đền Lảnh Giang (cùng với Quan Tam Phủ) và Đền Đồng Bằng (kề cận bên Đức Vua Cha Bát Hải)
Thân thế: Ông Hoàng Bơ (thường gọi tắt là Ông Bơ) hay còn gọi là Ông Bơ Thoải. Ông là con trai thứ ba hàng Tứ Phủ Ông Hoàng, con trai vua Long Vương Bát Hải Động Đình. Ông Hoàng Bơ thường ngự dưới tòa Thoải Cung, coi giữ việc trong Đền Vàng Thủy Phủ. Có khi ông biến trên mặt nước, hiện lên chân dung một vị Hoàng Tử có diện mạo phi phương, cưỡi cá chép vàng. Đôi lúc ông biến hiện, ngồi trên con thuyền, rong chơi khắp chốn, cùng các bạn tiên uống rượu, ngâm thơ, đàn hát, trông trăng, đánh cờ, hưởng thú vui của các bậc tao nhân mặc khách (có điển tích nói rằng, Ông Bơ cũng là người em trai thân cận bên Quan Lớn Đệ Tam, khi thanh nhàn các ông thường ngự thuyền rồng, cùng dạo chơi khắp chốn), nhưng thấy cảnh dân chúng còn lầm than, vua cha sai ông lên khâm sai cõi trần, mở hội Phúc Duyên, giáng phúc cho dân, độ cho kẻ buôn bán làm ăn, người học hành đỗ đạt.

Ông Bơ là một trong ba vị Ông Hoàng hay về ngự nhất. Khi giá ngự đồng, ông mặc áo trắng (có thêu rồng kết uốn thành hình chữ thọ), thắt đai vàng, đầu đội khăn xếp có thắt lét trắng, cài chiếc kim lệch màu trắng bạc. Có khi ông ngự về tấu hương, khai quang rồi một tay cầm mái chèo, một tay cầm quạt thong thả bẻ lái dạo chơi, cũng có khi ông cầm đôi hèo hoa, rong ruổi cưỡi ngựa đi ngao du sơn thủy

Hiện có 3 đền thờ Ngài là Đền Quan Hoàng Bơ tại Hàn Sơn, Thanh Hóa; Đền Hưng Long tại Thái Bình; Đền Vạn Ngang ở Đồ Sơn. Quan Hoàng Bơ cũng có nhiều dị bản về thần tích.

 

Thần tích về Quan Hoàng Bơ liên quan đến đền Quan Hoàng Bơ – Phong Mục
Ông là con trai thứ ba hàng Tứ Phủ Ông Hoàng, con trai vua Long Vương Bát Hải Động Đình. Quan Hoàng Bơ thường ngự dưới tòa Thoải Cung, coi giữ việc trong Đền Vàng Thủy Phủ. Có khi ông biến trên mặt nước, hiện lên chân dung một vị Hoàng Tử có diện mạo phi phương, cưỡi cá chép vàng. Đôi lúc ông biến hiện, ngồi trên con thuyền, rong chơi khắp chốn, cùng các bạn tiên uống rượu, ngâm thơ, đàn hát, trông trăng, đánh cờ, hưởng thú vui của các bậc tao nhân mặc khách. Có điển tích nói rằng, Ông Bơ cũng là người em trai thân cận bên Quan Lớn Đệ Tam, khi thanh nhàn các ông thường ngự thuyền rồng, cùng dạo chơi khắp chốn, nhưng thấy cảnh dân chúng còn lầm than, vua cha sai ông lên khâm sai cõi trần, mở hội Phúc Duyên, giáng phúc cho dân, độ cho kẻ buôn bán làm ăn, người học hành đỗ đạt.

Thần tích Ông Hoàng Bơ Phủ liên quan đến đền Hưng Long – Thái Bình
Thần tích kể rằng: Làng Kênh Xuyên thưở xưa có hai vợ chồng lão ông Trần Thái Công và lão bà Đặng Thị hiền lành nhân đức đã luống tuổi mà chưa có con một đêm nằm mơ thấy một thánh nữ vô cùng xinh đẹp, uy nghi mặc áo trắng, đai ngọc lưu ly bế một bé trai kháu khỉnh ngự trồng vàng bay lên từ mặt nước. Thánh nữ xưng:“Ta là con gái Động đình Long Vương, Thủy Tinh Ngọc Dung Xích Lân Long Nữ Công Chúa thấy vợ chồng ngươi siêng năng làm phúc, chăm sóc đèn hương, nên cho Hoàng tử Long cung đầu thai làm con để lo báo hiếu, sau này sẽ cứu giúp dân lành nhiều phen”.
Sau đó, bà mang thai và hạ sinh một bé trai khôi ngô, tuấn tú. Bé trai sau này lớn lên chỉ mộ về đạo Phật không màng chuyện hôn nhân phu phụ. Năm hăm hai tuổi Minh Đức lập một thảo am để hàng ngày nghiên cứu Phật Pháp. Sau khi Thái ông, Thái bà về tiên, thì Minh Đức cũng đi đâu không rõ. Thảo am trở nên nhang lạnh khói tàn, bỗng một đêm dân làng ai ai cũng đều mơ thấy có một vị hoàng tử khôi ngô tuấn tú đầu đội kim khôi, mình mặc áo trắng lưng giắt kiếm bạc, cưỡi trên đôi bạch xà hiện lên trên mặt biển nói rằng:“Ta là hoàng tử long cung, giáng sinh vào để tác phúc cho Thái ông, Thái bà nay hết hạn ta về thủy cung. Dân làng thời phải nên thờ phụng Thánh Mẫu Thủy Tinh cho nghiêm cẩn như xưa khi có nạn ắt ta đến cứu. Về sau sẽ âm phù cho đất đai rộng mãi”.
Sáng dậy ai cũng thuật lại cho nhau giấc mơ y hệt, bèn cung kính sợ hãi mà cho rằng thảo am rất linh thiêng nên lập thêm long ngai bài vị Minh Đức Hoàng Bơ Thoải đại vương để phụng thờ, hương hỏa ngày đêm không dứt. Từ đó thảo am trở thành một ngôi đền thờ và Ngài trở thành Thành Hoàng của làng.
Đức Thành Hoàng sau này được triều Nguyễn sắc phong nhiều mỹ tự ” Đông Hải Minh Đức Đại Vương thượng đẳng thần.

Thần tích Quan Hoàng Bơ ở Đền Vạn Ngang Đồ Sơn
Vào năm niên hiệu Hoằng Định thứ 6 vào đêm ngày mồng 6 rạng ngày mồng 7 tháng 3 các bậc nho sinh bình văn đọc thơ bổng xuất hiện một vị nho sinh mặt mày khôi ngô tuấn tú mặc sắc phục trắng xưng danh là Đệ Tam Thái Tử cùng bình văn đọc thơ. Rạng ngày hôm sau thì không thấy vị nho sinh đâu nữa. Vì thế, người đời sau cứ mỗi độ xuân về lại tổ chức các cuộc bình văn đọc thơ để mong các bậc thần tiên giáng phàm. Cũng vì vậy, Đền Vạn Ngang Đồ Sơn đã lập thờ Quan Đệ Tam Thái tử tức Quan Hoàng Bơ là quan thủ đền.

Thần tích ông Hoàng Bơ Thoải liên quan đến đền Cờn Ngoài
Ngài hạ sinh vào thời Nam Bắc Tống phân tranh. Ngài tên là Tống Khắc Bính, là thái tử con vua Nam Tống Sau khi nhà Nam Tống bị nhà Bắc Tống đánh bại, Ngài dong thuyền ra biển Đông và thác hóa. Thân y trôi vào cửa Cờn được ông Hoàng Chín lúc bấy giờ đang tu ở đó vớt lên chôn cất. Sau này Ngài phù các triều Lý, Trần lập nhiều chiến công hiển hách nên được nhân dân gọi là ông Hoàng Bơ Thoải.

 

Trong các thần tích về Quan Hoàng Bơ ở trên chúng ta thấy: Đền Quan Hoàng Ba tại Hàn Sơn, nghe đâu mới xây dựng gần đây. Tuy đền có lưu truyền một thần tích, nhưng không có nhắc đến ngài xuất thân nơi đâu. Đền Hưng Công ở Thái Bình, tuy có thần tích khá rõ ràng về nơi giáng trần, nhưng Ngài lại được thờ như một Thành Hoàng làng. Riêng tại Đền Vạn Ngang có thần tích về sự hiển linh của Ngài.– Đền Vạn Ngang và Đền Hưng Công có sắc phong của triều đình phong kiến, còn đền Quan Hoàng Ba tại Hàn Sơn không có sắc phong nào. Trên cơ sở trên có thể nói đền Vạn Ngang và đền Hưng Công được coi là đền chính với hai thần tích khác nhau. Nhưng nhiều người cho rằng đền Vạn Ngang – Đồ Sơn mới là đền chính vì nơi đây Ngài đã hiển linh giáng trần.– Đền Cờn Ngoài, trước đây nhiều người cho rằng đây là nơi thờ của Quan Hoàng Bơ. Tuy nhiên, gần đây, Đền Cờn Ngoài đã được Trung tâm Nghiên cứu Tiềm Năng Con người xác định là nơi thờ Quan Hoàng Chín chứ không phải là thờ Quan Hoàng Bơ. Vì vậy, thần tích Quan Hoàng Bơ là Tống Đế Bính – vua Nam Tống cần phải xem xét.

 

Khi thỉnh Ông Bơ, văn hay hát rằng:
“Trên Thượng Thiên mây bay năm vẻ
Dưới Thủy Tề nước rẽ làm đôi
Ông Bơ lịch sự tốt tươi
Biến trên mặt nước cưỡi đôi chép vàng”

Hay nói về tài mạo song toàn của ông, văn hát rằng:
“Biến lên mặt nước lạ lùng
Ông Hoàng Bơ Thoải chân dung khác thường
Ông Bơ Thoải đường đường dong mạo
Mặt nhường gương tiết tháo oai phong
Thanh xuân một đấng anh hùng
Toàn tài văn võ làu thông mọi đường
Sáng tựa gương trần ai chẳng bụi
Bầu rượu tiên thơ túi xênh xang
Khăn thêu, áo trắng, đai vàng
Võ hài chân bước, vai mang đôi hèo”

Hay khi ông thong thả ngự đồng nghe văn, thả hồn cùng gió trăng:
“Ngồi bên khe suối nảy cung đàn
Bồi hồi nhớ tới bạn chi loan
Tâm thơ Đỗ Phủ hồn theo gió
Gửi khách Tương Như khúc Phượng Hoàn

 
 

ĐẠO MẪU VIỆT NAM

Liên hệ

Trang Chia Sẻ Tâm Linh Cho Người Việt

 

XEM BÓI MIỄN PHÍ ONLINE 0966662332

  

XEM BÓI MIỄN PHÍ ONLINE 0966662332

XEM BÓI MIỄN PHÍ ONLINE 0966662332

 

zalo